Khảo sát bệnh động mạch chi dưới bằng chỉ số mắt cá chân – cánh tay trên bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành

Tài liệu Khảo sát bệnh động mạch chi dưới bằng chỉ số mắt cá chân – cánh tay trên bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 61 KHẢO SÁT BỆNH ĐỘNG MẠCH CHI DƯỚI BẰNG CHỈ SỐ MẮT CÁ CHÂN – CÁNH TAY TRÊN BỆNH NHÂN MẮC BỆNH ĐỘNG MẠCH VÀNH Lê Thị Lan Hương*, Tạ Thị Thanh Hương** TÓM TẮT Mở đầu: Xơ vữa động mạch ảnh hưởng đến cấu trúc giường mạch máu toàn hệ thống, nên bệnh nhân mắc bệnh mạch vành có thể kèm theo cả bệnh động mạch chi dưới. Theo thống kê ghi nhận tỉ lệ bệnh động mạch chi dưới chiếm 3 - 12% và liên quan với mức độ nặng động mạch vành. Mục tiêu: Khảo sát tỉ lệ bệnh động mạch chi dưới bằng chỉ số mắt cá chân – cánh tay (ABI) trên bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành. Xác định mối liên quan giữa bệnh động mạch chi dưới với các yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch và mức độ nặng bệnh động mạch vành (dựa vào số nhánh động mạch vành tổn thương và điểm GENSINI). Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân ≥ 18 tuổi mắc bệnh mạch vành (chụp mạch vành có hẹp ≥ 50% đường kính mạch máu), nhập...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 225 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát bệnh động mạch chi dưới bằng chỉ số mắt cá chân – cánh tay trên bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 61 KHẢO SÁT BỆNH ĐỘNG MẠCH CHI DƯỚI BẰNG CHỈ SỐ MẮT CÁ CHÂN – CÁNH TAY TRÊN BỆNH NHÂN MẮC BỆNH ĐỘNG MẠCH VÀNH Lê Thị Lan Hương*, Tạ Thị Thanh Hương** TÓM TẮT Mở đầu: Xơ vữa động mạch ảnh hưởng đến cấu trúc giường mạch máu toàn hệ thống, nên bệnh nhân mắc bệnh mạch vành có thể kèm theo cả bệnh động mạch chi dưới. Theo thống kê ghi nhận tỉ lệ bệnh động mạch chi dưới chiếm 3 - 12% và liên quan với mức độ nặng động mạch vành. Mục tiêu: Khảo sát tỉ lệ bệnh động mạch chi dưới bằng chỉ số mắt cá chân – cánh tay (ABI) trên bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành. Xác định mối liên quan giữa bệnh động mạch chi dưới với các yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch và mức độ nặng bệnh động mạch vành (dựa vào số nhánh động mạch vành tổn thương và điểm GENSINI). Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân ≥ 18 tuổi mắc bệnh mạch vành (chụp mạch vành có hẹp ≥ 50% đường kính mạch máu), nhập khoa Nội Tim mạch và khoa Tim mạch can thiệp Bệnh viện Tim Tâm Đức từ tháng 06/2016 đến tháng 10/2016. Các đối tượng tham gia được đánh giá yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch, triệu chứng BĐMCD, khám lâm sàng và đo ABI trong thời gian nằm viện. Chẩn đoán bệnh động mạch chi dưới bằng chỉ số mắt cá chân – cánh tay (ABI) ≤ 0,9. Kết quả: Nghiên cứu của chúng tôi trên 139 bệnh nhân (bao gồm 96 nam và 43 nữ), trong đó bệnh động mạch chi dưới chiếm 16,5% (23/139 bệnh nhân). Tỉ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ tương đương nhau, đa số bệnh nhân đều không có triệu chứng. Tuổi và tiền căn gia đình mắc bệnh mạch vành sớm là yếu tố nguy cơ độc lập của bệnh động mạch chi dưới. Bệnh nhân mắc bệnh động mạch chi dưới có tỉ lệ bệnh nhiều nhánh mạch vành cao hơn bệnh một nhánh (p = 0,03). Đồng thời điểm GENSINI ở nhóm bệnh động mạch chi dưới cao hơn nhóm không mắc bệnh (86,13 so với 62,12; p = 0,01). Kết luận: Bệnh nhân mắc bệnh mạch vành có thể kèm theo bệnh động mạch chi dưới. Đo chỉ số mắt cá chân – cánh tay là phương pháp dễ thực hiện trong chẩn đoán bệnh. Từ khóa: chỉ số mắt cá chân – cánh tay, bệnh động mạch chi dưới, bệnh động mạch vành. ABSTRACT INVESTIGATION OF LOWER EXTREMITY PERIPHERAL ARTERY DISEASE IN PATIENTS WITH CORONAR ARTERY DISEASE Le Thi Lan Huong, Ta Thi Thanh Huong Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 61 – 66 Background: Atherosclerosis affects the entire blood vessel structure, that the patient with coronary artery disease may also have lower extremity artery disease (LEAD). Many study show that the incidence of lower extremity artery disease accounts for 3 - 12% and is associated with severe coronary artery disease (CAD). Objectives: The aim of study was to assess the prevalence of LEAD by measuring the ABI. Determination the relationship between LEAD and atherosclerosis risk factors and severity of coronary artery disease (based on * Bệnh viện Nhân dân 115 ** Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS.BS Lê Thị Lan Hương ĐT: 0979644401 Email: drhuonglan89@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 62 number of coronary artery lesions and GENSINI score). Methods: The cross – sectional stydy was conducted at the Cardiology Department and the Intervantional Cardiology department at Tam Duc Cardiology Hospital from 6/2016 to 10/2016. Inpatient with CAD were invited to participate in this study. Data regarding to risk factor, symtoms of LEAD, physical examination, and ABI were collected. And ABI ≤ 0.9 was considered to indicate significant LEAD. Result: A total of 139 patients (included96 men and 43 women) were recruited. The prevalence of LEAD in CAD patients was 16.5% according to ABI results. The incidence between men and women is similar and most of patients have no symtoms. Age and family history were independent risk factor for LEAD. Patients with underlying LEAD had a higher incidence of multi-vessel coronary artery disease than one-vessel disease (p = 0.03). And the GENSINI score is also higher in LEAD than another (89.13 versus 62.12; p = 0.01). Conclusion: Patients with CAD were likely to have concomitant lower extremity artery disease. Measuring the ABI was an easy method to diagnose. Key words : ankle – branchial index (ABI), lower extremity artery disease (LEAD), coronary artery disease (CAD) ĐẶT VẤN ĐỀ Xơ vữa động mạch là bệnh lý gây hẹp khu trú hoặc lan tỏa giường mạch máu, do sự tích tụ của chất béo và chất xơ vữa giữa lớp nội mạc và trung mạc của động mạch. Bệnh lý xơ vữa ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ hệ thống mạch máu của cơ thể, không chỉ động mạch vành, động mạch não mà còn có động mạch ngoại biên. Trong bệnh động mạch ngoại biên, bệnh động mạch chi dưới (BĐMCD) là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tàn tật và đoạn chi. Tần suất mắc bệnh động mạch chi dưới thay đổi tùy theo nghiên cứu khác nhau. Theo thống kê, tỉ lệ mắc BĐMCD chiếm khoảng 3 – 12% dân số(8). Phần lớn bệnh tập trung tại các khu vực có thu nhập trung bình thấp trên thế giới, như ở Đông Nam Á có khoảng 55 triệu người và Tây Thái Bình Dương có 46 triệu người mắc bệnh và tỉ lệ này ngày càng gia tăng(4,7). Diễn tiến của bệnh động mạch chi dưới thường âm thầm nên đa số bệnh nhân không có triệu chứng. Vì thế, việc chẩn đoán sớm bệnh động mạch chi dưới còn hạn chế. Xuất phát từ cơ chế bệnh sinh của xơ vữa động mạch ảnh hưởng đến cấu trúc giường mạch máu toàn hệ thống, nên bệnh nhân mắc bệnh mạch vành có thể kèm theo cả BĐMCD, tuy nhiên các nghiên cứu trên nhóm đối tượng này chưa nhiều. Hiện nay, nhiều nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra bằng chứng xác định mối liên quan giữa bệnh động mạch chi dưới với bệnh tim mạch và các biến cố động mạch vành. Mục tiêu nghiên cứu Khảo sát bệnh động mạch chi dưới bằng chỉ số cổ chân – cánh tay trên bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành. Mục tiêu cụ thể bao gồm: Xác định tỉ lệ và đặc điểm bệnh động mạch chi dưới trên bệnh nhân mắc bệnh mạch vành. Khảo sát mối liên quan giữa bệnh động mạch chi dưới với các yếu tố nguy cơ gây xơ vữa động mạch. Khảo sát mối liên quan giữa bệnh động mạch chi dưới và bệnh động mạch vành ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Đoàn hệ cắt ngang, mô tả Dân số nghiên cứu Những bệnh nhân mắc bệnh mạch vành nhập Bệnh viện Tim Tâm Đức, được chụp động mạch vành trong thời gian nghiên cứu từ tháng 06/2016 đến tháng 10/2016. Tiêu chuẩn chọn vào Những bệnh nhân ≥ 18 tuổi, có bệnh mạch vành: hội chứng vành cấp hoặc bệnh tim thiếu máu cục bộ ổn định (chẩn đoán qua chụp động mạch vành hẹp hơn 50% đường kính lòng mạch) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 63 và được đo ABI trong thời gian nghiên cứu, đồng thời đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại ra Bệnh nhân biến dạng chi trên, chi dưới hoặc đã đoạn chi; bệnh nhân từng đặt stent mạch vành trước đây hoặc không đồng ý tham gia nghiên cứu. Cỡ mẫu Trong đó: Z : là giá trị phân phối chuẩn: Z = 1,96 ; d : là sai số ước lượng, chọn d = 0,07; chọn p = 0,13 theo nghiên cứu của Bùi Cao Mỹ Ái(3) thực hiện năm 2008 tại bệnh viện Chợ Rẫy.Theo công thức này, chúng tôi tính ít nhất có 88 bệnh nhân. Thu thập và xử lí số liệu Các đối tượng tham gia nghiên cứu được hỏi bệnh sử, tiền sử bản thân và gia đình, khám lâm sàng, đồng thời thực hiện các xét nghiệm: đo điện tâm đồ, siêu âm tim, xét nghiệm sinh hóa, chụp mạch vành và đo ABI lúc nghỉ để chẩn đoán bệnh động mạch chi dưới. Đo chỉ số ABI bằng thiết bị máy VP 1000-Plus Model BP -203RPE III của hãng OMROM.Chỉ số ABI được tính theo công thức: ABI = . Ở cùng một bệnh nhân lấy trị số ABI thấp hơn để phân tích. Kết quả nghiên cứu được xử lý thống lê bằng phần mềm Stata12.0. Sử dụng các phép kiểm định Chi bình phương, kiểm định t- student, kiểm định ANOVA, phân tích hồi qua đa biến bằng phương pháp hồi qui logistic, và chọn giá trị p < 0,05 là ngưỡng có ý nghĩa thống kê. KẾT QUẢ Qua nghiên cứu tiến hành trên 139 bệnh nhân mắc bệnh mạch vành từ tháng 6/ 2016 đến tháng 10/ 2016 tại Bệnh viện Tim Tâm Đức chúng tôi ghi nhận kết quả sau: Đặc điểm dân số nghiên cứu Bệnh nhân mắc bệnh mạch vành có tuổi trung bình là 64,5 ± 11,6, trong đó có 91,4% (127/139) bệnh nhân ≥ 50 tuổi. Nam giới chiếm đa số hơn nữ, tỉ lệ nam : nữ = 2,2. BMI trung bình 23,9 ± 3,3 kg/m2, béo phì chiếm tỉ lệ cao nhất trong dân số là 36,7% (51/139 bệnh nhân). Các yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch theo thứ tự lần lượt là: tăng huyết áp 81,3%, rối loạn chuyển hóa lipid 76,2%, hút thuốc lá 49,6%, đái tháo đường tuýp 2 38,1%, có 36,7% bệnh thận mạn và 6,5% bệnh nhân có kèm tiền căn gia đình mắc bệnh mạch vành sớm. Phân bố theo thể bệnh động mạch vành ghi nhận: nhồi máu cơ tim ST chênh lên chiếm 12,9%, nhồi máu cơ tim không ST chênh lên chiếm 14,4%, đau thắt ngực không ổn định có 16,6% và bệnh tim thiếu máu cục bộ ổn định chiếm tỉ lệ nhiều nhất là 56,1%. Bệnh động mạch chi dưới Giá trị ABI trung bình trong dân số nghiêu cứu là 1,04 ± 0,15. Đánh giá bằng chỉ số mắt cá chân – cánh tay ≤ 0,9 ghi nhận có 23/139 bệnh nhân mắc bệnh động mạch chi dưới, chiếm 16,5% tổng số bệnh nhân, và không ghi nhận sự khác biệt về giới tính và bệnh động mạch chi dưới. Trong đó, đa số bệnh nhân đều không triệu chứng chiếm 78,3% (18/23 trường hợp), triệu chứng đau cách hồi chỉ chiếm 21,7% (5/23 trường hợp), và không ghi nhận dấu hiệu loét hoặc hoại tử chi dưới. Mối liên quan giữa bệnh động mạch chi dưới và các yếu tố nguy cơ xơ vữa: Qua phân tích đơn biến, ghi nhận có mối liên quan giữa tuổi, bệnh thận mạn, tiền căn gia đình mắc bệnh mạch vành sớm với bệnh động mạch chi dưới. Không ghi nhận mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ xơ vữa thường gặp và bệnh động mạch ngoại biên chi dưới như: tăng huyết áp (THA), hút thuốc lá (HTL), rối loạn lipid máu (RLLM), đái tháo đường (ĐTĐ), béo phì, bệnh thận mạn. Tuy nhiên, sau khi phân tích đa biến bằng phương pháp hồi qui logistic, chỉ có tuổi và tiền căn gia đình mắc bệnh mạch vành sớm là 2 yếu tố nguy cơ độc lập của BĐMCD. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 64 Bảng 1: Các yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch Yếu tố nguy cơ Phân tích đơn biến Phân tích đa biến p p OR KTC 95% Tuổi 0,001 0,01 1,07 1,01 – 1,13 Béo phì 0,72 0,66 1,27 0,41 – 3,93 THA 0,17 0,31 2,32 0,45 – 12,01 ĐTĐ 0,91 0,84 1,11 0,37 – 3,33 HTL 0,79 0,18 0,73 0,21 – 2,57 RLLM 0,77 0,02 2,06 0,71 – 5,97 Bệnh thận mạn 0,03 0,63 1,31 0,42 – 4,04 Tiền căn gia đình 0,07 0,01 8,46 1,68 – 42,54 Mối liên quan giữa bệnh động mạch chi dưới và mức độ tổn thương động mạch vành: Tỉ lệ BĐMCD ở nhóm hội chứng vành cấp là 18,0% (11/61 bệnh nhân) cao hơn ở nhóm bệnh vành mạn là 15,4% (12/78 bệnh nhân), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,67. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ bệnh nhiều nhánh mạch vành chiếm 68%; trong đó bệnh 3 nhánh mạch vành chiếm 38%. Sau khi phân tích cho thấy, bệnh nhân bệnh 3 nhánh mạch vành có tỉ lệ BĐMCD cao hơn 2 nhóm còn lại với p = 0,03. Tương tự, điểm Gensini trung bình ở nhóm mắc BĐMCD là 86,13 cao hơn so với nhóm không mắc BĐMCD là 64,90 và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,01. Bảng 2: Bệnh động mạch chi dưới và tổn thương động mạch vành Tổn thương ĐMV BĐMCD p (ᵡ 2 ) Có (n = 23) Không (n = 116) 1 nhánh 7,1% (3) 92,9% (39) 0,03 2 nhánh 13,6% (6) 86,4% (38) 3 nhánh 26,4% (14) 73,6% (39) Điểm GENSINI trung bình 86,13 ± 35,52 62,12 ± 31,71 0,01 BÀN LUẬN Đặc điểm dân số nghiên cứu Nghiên cứu thực hiện trên 139 bệnh nhân bệnh mạch vành ghi nhận tỉ lệ nam mắc bệnh mạch vành nhiều hơn nữ. Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 64,5 tương đồng với các nghiên cứu trước đó như Bùi Cao Mỹ Ái(3), Lương Quốc Việt(9). Khi phân tích các yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch cho thấy kết quả tương tự với các nghiên cứu trong và ngoài nước. Giá trị BMI trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 23,9 trong đó béo phì chiếm 36,7%. Kết quả này phù hợp với đặc điểm của bệnh nhân bệnh mạch vành trong các nghiên cứu khác như tỉ lệ béo phì trong ngiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Trung Dũng là 37%(10). Tăng huyết áp và rối loạn lipid máu là hai yếu tố nguy cơ thường gặp nhất của bệnh động mạch do xơ vữa. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ tăng huyết áp và rối loạn lipid máu lần lượt là: 81,3% và 76,2%. Tỉ lệ đái tháo đường trong nghiên cứu chúng tôi là 38,1%, tương đương với tác giả Lương Quốc Việt(9), nhưng cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Bùi Cao Mỹ Ái(3), Nguyễn Xuân Trung Dũng(10), Sadeghi(12). Khi phân tích thói quen hút thuốc lá, nghiên cứu chúng tôi ghi nhận tỉ lệ này là 49,6%, tương tự như kết quả trong nước(10). Tuy nhiên, so với các nghiên cứu nước ngoài như của tác giả Gabrielghi nhận tỉ lệ hút thuốc lá 80%(6). Sự khác biệt này có thể do thói quen hút thuốc lá ở nữ của các nước phương Tây làm cho tỉ lệ hút thuốc lá cao hơn so với các nghiên cứu trong nước. Tỉ lệ bệnh nhân có độ lọc cầu thận ước lượng < 60 ml/ phút/1,73m2 da trong nghiên cứu của chúng tôi là 36,69%, trong đó có 22 bệnh nhân (chiếm 43,1%) biết bệnh thận mạn trước đó, còn lại 29 bệnh nhân (chiếm 56,9%) ghi nhận có tình giảm giảm độ lọc cầu thận trong thời gian nghiên cứu. Kết quả này tương đồng với tác giả Nguyễn Xuân Trung Dũng(10), tỉ lệ bệnh nhân có eGFR giảm < 60 ml/ phút/1,73m2 là 31,3%. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tiền căn mắc bệnh tim mạch sớm là 6,5%, tương tự như nghiên cứu của tác giả Lương Quốc Việt là 8,2%(9), nhưng thấp hơn so với các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài như tác giả Sadeghi là 36,8%(12). Điều này có thể là khác biệt trình độ nhận thức cũng như trình độ y tế giữa các quần thể nghiên cứu. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa 65 Bệnh động mạch chi dưới Với điểm cắt ABI ≤0,9, tỉ lệ BĐMCD trong nghiên cứu của chúng tôi là 16,5%. Tỉ lệ này tương đương với các tác giả Bùi Cao Mỹ Ái(3) 13,7%, Nguyễn Xuân Trung Dũng(10) là 14,4%, Papamichael(11) là 16,4%. Tỉ lệ mắc hiện hành của BĐMCD trong các nghiên cứu bằng chỉ số ABI tiến hành trên dân số nguy cơ cao tại Mỹ, Châu Âu được báo cáo khoảng 25 – 30%(1,2). Như vậy, vì đặc điểm tương đối giống nhau về dân số nghiên cứu của chúng tôi và các tác giả như Bùi Cao Mỹ Ái(3), Nguyễn Xuân Trung Dũng(10), Lương Quốc Việt(9)nên tỉ lệ BĐMCD cũng tương tự nhau, và thấp hơn các nghiên cứu nước ngoài. Tỉ lệ đau cách hồi trong nghiên cứu của chúng tôi là 5/23 bệnh nhân chiếm 21,7%. Nhóm bệnh nhân không triệu chứng chiếm tỉ lệ rất cao 78,3%, không ghi nhận trường hợp nào có đau khi nghỉ hoặc loét chân. Kết quả này cao hơn so với tác giả Bùi Cao Mỹ Ái(3)không ghi nhận triệu chứng đau cách hồi, đau khi nghỉ hay tỉ lệ BĐMCD cấp tính trong 73 bệnh nhân. So sánh với các tác giả trong nước khác, nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ tương đương. Theo tác giả Lương Quốc Việt(9)tỉ lệ bệnh nhân có triệu chứng đau cách hồi là 25%, đau khi nghỉ là 7,1%, loét chân 7,1%, và không triệu chứng chiếm 73%. Trong các khảo sát dịch tễ của nước ngoài, nghiên cứu trên dân số lớn theo dõi trong vòng 5 năm sau chẩn đoán BĐMCD có 63% bệnh nhân tiến triển nặng hơn khi chụp mạch máu cản quang nhưng 66% trong số này vẫn không có triệu chứng(7). Mối liên quan giữa BĐMCD và các yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch Trong nghiên cứu NHANES(13) và MESA(4), yếu tố dự báo tăng nguy cơ BĐMCD ở bệnh nhân hút thuốc lá, bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp, tăng lipid máu, giảm chức năng thận. Và trong nhiều nghiên cứu khác cũng đưa ra mối tương quan thuận giữa hút thuốc lá và đái tháo đường trong BĐMCD. Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi lại không tìm ra mối liên quan này. Với các nghiên cứu trong nước thực hiện trên cỡ mẫu nhỏ như của tác giả Bùi Cao Mỹ Ái(3), Lương Quốc Việt(9) đều không tìm ra mối liên quan giữa tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu và hút thuốc lá với BĐMCD. Mối liên quan giữa BĐMCD và bệnh động mạch vành Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ BĐMCD ở nhóm hội chứng vành cấp cao hơn ở nhóm bệnh tim thiếu máu cục bộ ổn định, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này tương tự với các tác giả trong nước, cũng không tìm thấy mối liên quan giữa BĐMCD và thể bệnh mạch vành(3,9,10). Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận có mối liên quan giữa tổn thương mạch vành và BĐMCD. Tỉ lệ BĐMCD kèm tổn thương 3 nhánh động mạch vành chiếm tỉ lệ cao hơn so với 1 nhánh và 2 nhánh. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,03. Kết quả này tương tự như Nguyễn Xuân Trung Dũng(10), Papamicheal(11), Sadeghi(12). Nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với kết quả của tác giả Lương Quốc Việt(9), Nguyễn Xuân Trung Dũng(10), Papamichael(11) khi đánh giá mối liên quan giữa điểm Gensini và BĐMCD. Các giả đều đưa ra kết luận, bệnh nhân mắc BĐMCD có tổn thương mạch vành nặng hơn có ý nghĩa thống kê với nhóm không mắc bệnh. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu khảo sát bệnh động mạch chi dưới bằng chỉ số ABI trên 139 bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành tại Bệnh viện Tim Tâm Đức, chúng tôi ghi nhận: tỉ lệ BĐMCD là 16,5%; không có mối liên quan giữa giới tính và BĐMCD. Đa số bệnh nhân mắc BĐMCD đều diễn tiến âm thầm không triệu chứng, chỉ có 21,74% bệnh nhân có triệu chứng đau cách hồi. Tuổi và tiền căn gia đình mắc bệnh mạch vành sớm là yếu tố nguy cơ độc lập của BĐMCD. Bệnh nhân mắc BĐMCD có mức độ tổn thương mạch vành nặng hơn so với nhóm không mắc bệnh. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Nội Khoa 66 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anderson JL, Halperin JL, Albert NM, et al. (2013), "Management of patients with peripheral artery disease (compilation of 2005 and 2011 ACCF/AHA guideline recommendations)", Circulation, 127 (13), pp. 1425-1443. 2. Braunwald's MA, “Peter Libby,Heart disease7th (2005)”, in Peripheral artery disease, pp 1437 - 1438. 3. Bùi Cao Mỹ Ái. (2010), "Khảo sát chỉ số mắt cá chân - cánh tay ở bệnh nhân bệnh động mạch vành", Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, tập 14 (1), pp 379 - 386. 4. Criqui MH, McClelland RL, McDermott MM, et al. (2010), "The ankle-brachial index and incident cardiovascular events in the MESA (Multi-Ethnic Study of Atherosclerosis)", Journal of the American College of Cardiology, 56 (18), pp. 1506-1512. 5. Fowkes FGR, Rudan D, Rudan I, et al. (2013), "Comparison of global estimates of prevalence and risk factors for peripheral artery disease in 2000 and 2010: a systematic review and analysis", The Lancet, 382 (9901), pp. 1329-1340. 6. Gabriel SA, Serafim PH, Freitas CEMd, et al. (2007), "Peripheral arterial occlusive disease and ankle-brachial index in patients who had coronary angiography", Brazilian Journal of Cardiovascular Surgery, 22 (1), pp. 49-59. 7. Garcia LA (2006), "Epidemiology and pathophysiology of lower extremity peripheral arterial disease", Journal of endovascular therapy, 13 (2_suppl), pp. II-3-II-9. 8. Hirsch AT, Haskal ZJ, Hertzer NR, et al (2006), "ACC/AHA guidelines for the management of patients with peripheral arterial disease (lower extremity, renal, mesenteric, and abdominal aortic)", Journal of Vascular and Interventional Radiology, 17 (9), pp. 1383-1398. 9. Lương Quốc Việt (2014), "Khảo sát mối liên quan chỉ số mắt cá chân - cánh tay đo bằng máy huyết áp tự động và mức xơ vữa mạch vành", Luận văn thạc sĩ Y học, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. 10. Nguyễn Xuân Trung Dũng (2013), "Khảo sát chỉ số áp lực cổ chân - cánh tay trên các bệnh nhân bệnh mạch vành", Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. 11. Papamichael CM, Lekakis JP, Stamatelopoulos KS, et al. (2000), "Ankle-brachial index as a predictor of the extent of coronary atherosclerosis and cardiovascular events in patients with coronary artery disease", The American journal of cardiology, 86 (6), pp. 615-618. 12. Sadeghi M, Tavasoli A, Roohafza H, et al. (2010), "The relationship between Ankle-Brachial Index and number of involved coronaries in patients with stable angina", ARYA atherosclerosis, 6(1), pp.6. 13. Selvin E, Erlinger TP (2004), "Prevalence of and risk factors for peripheral arterial disease in the United States", Circulation, 110 (6), pp. 738-74. Ngày nhận bài báo: 16/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_benh_dong_mach_chi_duoi_bang_chi_so_mat_ca_chan_can.pdf