Khảo cứu và đánh giá tình hình nghiên cứu về kinh tế thị trường của người Dao trong quá trình phát triển vùng núi Tây Bắc - Bùi Minh Hào

Tài liệu Khảo cứu và đánh giá tình hình nghiên cứu về kinh tế thị trường của người Dao trong quá trình phát triển vùng núi Tây Bắc - Bùi Minh Hào: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 119Ngày nhận bài: 16/7/2018; Ngày phản biện: 27/8/2018; Ngày duyệt đăng: 4/9/2018(1) Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; e-mail: buihao261@gmail.com 1. Đặt vấn đề Trước Đổi mới (1986), nền kinh tế hàng hóa đã hình thành ở miền núi Tây Bắc Việt Nam, dù trình độ phát triển còn thấp nhưng việc trao đổi hàng hóa đã phát triển và hình thành các mạng lưới trao đổi sản phẩm giữa các miền núi và cả với miền xuôi thông qua các dòng sông và các con đường giao thông thương mại1. Cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, các hợp tác xã nông nghiệp ở miền núi được thành lập tạo thành một hệ thống kinh tế tập thể mới do Nhà nước quản lý2. Phải sau khi đổi mới, mà chính xác là đầu thế kỷ XXI, kinh tế hàng hóa mới bắt đầu phục hồi và phát triển. Hiện nay, ở nhiều vùng thuộc miền núi, nền kinh tế thị trường đã phát triển đến mức độ cao, mực độ trao đổi ngày càng mạnh mẽ. Ngườ...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 678 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo cứu và đánh giá tình hình nghiên cứu về kinh tế thị trường của người Dao trong quá trình phát triển vùng núi Tây Bắc - Bùi Minh Hào, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 119Ngày nhận bài: 16/7/2018; Ngày phản biện: 27/8/2018; Ngày duyệt đăng: 4/9/2018(1) Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; e-mail: buihao261@gmail.com 1. Đặt vấn đề Trước Đổi mới (1986), nền kinh tế hàng hóa đã hình thành ở miền núi Tây Bắc Việt Nam, dù trình độ phát triển còn thấp nhưng việc trao đổi hàng hóa đã phát triển và hình thành các mạng lưới trao đổi sản phẩm giữa các miền núi và cả với miền xuôi thông qua các dòng sông và các con đường giao thông thương mại1. Cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, các hợp tác xã nông nghiệp ở miền núi được thành lập tạo thành một hệ thống kinh tế tập thể mới do Nhà nước quản lý2. Phải sau khi đổi mới, mà chính xác là đầu thế kỷ XXI, kinh tế hàng hóa mới bắt đầu phục hồi và phát triển. Hiện nay, ở nhiều vùng thuộc miền núi, nền kinh tế thị trường đã phát triển đến mức độ cao, mực độ trao đổi ngày càng mạnh mẽ. Người Dao giữ một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Họ là những cư dân sinh sống ở vùng lưng chừng núi, khu vực cầu nối giữa các tộc người sống ở vùng các thung lũng với các tộc người sống trên đỉnh núi. Trong vài thập kỷ gần đây, nền kinh tế của người Dao đang chuyển biến nhanh chóng từ kinh 1. Jean Michaud, (2010), Nghiên cứu về kinh tế và bản sắc của người H’mông ở Việt Nam, In trong “Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học”. NXB. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Tr. 42. 2. Đảng bộ tỉnh Lào Cai, (2010), Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Lào Cai (1947-2007), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tế truyền thống mang tính tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường. Người Dao tham gia nhiều vào hoạt động buôn bán, dịch vụ với nhiều nhóm đối tác khác nhau. Nguồn thu nhập từ việc buôn bán, dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao. Càng ngày, họ càng chủ động tham gia vào kinh tế thị trường với tần suất lớn hơn. Không chỉ tham gia các hoạt động kinh tế thị trường ngay tại địa bàn sinh sống, một số người còn đi hợp tác với các đại lý, các cửa hàng phân phối sản phẩm thổ cẩm ở thành phố, ở Hà Nội và thậm chí qua các nước khác như Lào, Thái Lan để bán các sản phẩm của mình. Tuy nhiên, trong nhiều thập kỷ qua, nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc truy tìm nguồn gốc tộc người, quá trình lịch sử hình thành và phát triển của các cộng đồng, các đặc trưng văn hóa tộc người của người Dao. Điều đó hoàn toàn hợp lý, nhất là trong bối cảnh vào giữa nửa sau thế kỷ XX, khi mà các nhà dân tộc phải góp phần quan trọng vào việc xác minh các đặc trưng tộc người để xây dựng danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam. Quá trình nghiên cứu cũng nhấn mạnh nhiều đến sự đóng góp của người Dao trong quá trình đấu tranh bảo vệ đất nước và từ đó góp phần xây dựng chính sách dân tộc, động viên, khơi dậy tình thần yêu nước ở các cộng đồng dân tộc thiểu số. Phải đến những năm cuối thế kỷ XX, đặc biệt là từ đầu thế kỷ XXI, quá trình chuyển đổi KHẢO CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CỦA NGƯỜI DAO TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÙNG NÚI TÂY BẮC Bùi Minh Hào(1) Người Dao là một tộc người có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam. Trong quá trình hình thành và phát triển, người Dao cũng dành được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước. Nhiều công trình nghiên cứu ở các thể loại khác nhau đã xuất bản thể hiện mối quan tâm đó. Nhìn chung, người Dao là một trong số những tộc người được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều ở Việt Nam trong mấy thập kỷ qua. Tuy nhiên, những nghiên cứu về sự chuyển đổi kinh tế của người Dao trong vài ba thập kỷ qua vẫn còn hạn chế. Nhiều khoảng trống trong việc nhận thức về sự chuyển động, biến đổi kinh tế-xã hội của người Dao xuất hiện và trở thành các vấn đề quan trọng cần được quan tâm. Dựa trên việc khảo cứu các nguồn tài liệu đã xuất bản, bài viết hướng đến việc cung cấp một cái nhìn bao quát hơn về tình hình nghiên cứu người Dao trong những năm qua. Trong đó nhấn mạnh đến sự phát triển kinh tế thị trường của người Dao trong mối tương quan với quá trình phát triển chung của vùng núi Tây Bắc nước ta. Qua đó cũng gợi mở ra một số vấn đề cần quan tâm nghiên cứu đến người Dao trong giai đoạn tới. Từ khóa: Người Dao; Kinh tế thị trường; Vùng núi Tây Bắc; Phát triển vùng Tây Bắc; Lịch sử nghiên cứu người Dao Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 120 Số 23 - Tháng 9 năm 2018 kinh tế, văn hóa, xã hội của các dân tộc thiểu số nói chung và người Dao nói riêng mới nhận được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu phát triển. Càng ngày, các nghiên cứu về người Dao càng đa dạng hơn, phong phú hơn. Điều đó đòi hỏi phải có những khảo cứu tài liệu và đánh giá lại quá trình nghiên cứu về người Dao trong thời gian qua. Đặc biệt là nghiên cứu về người Dao trong mối quan hệ phát triển toàn bộ vùng miền núi Tây Bắc, để từ đó đặt ra những vấn đề cần thiết cần được tiếp tục nghiên cứu trong giai đoạn tới. 2. Đánh giá lại tình hình nghiên cứu về kinh tế thị trường của người Dao trong quá trình phát triển vùng núi Tây Bắc 2.1. Tình hình nghiên cứu về sự phát triển kinh tế của các tộc người ở Tây Bắc trong vài thập niên gần đây Trong vài thập niên gần đây, với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở miền núi Tây Bắc, nền kinh tế, xã hội và văn hóa của nhiều tộc người cũng biến đổi nhanh chóng. Cùng với đó, quá trình nghiên cứu về các cộng đồng tộc người ở khu vực này cũng có sự thay đổi cả về mục đích và phương pháp tiếp cận. Nếu như trước công cuộc Đổi mới (1986), các nghiên cứu lại tập trung vào việc tìm hiểu về tộc người như quá trình hình thành, đặc trưng văn hóa tộc người và đóng góp của các dân tộc trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các thời kỳ lịch sử. Thì từ sau 1986, các nghiên cứu về miền núi trở nên đa dạng hơn, tập trung vào quá trình chuyển đổi kinh tế của các cộng đồng và sự biến đổi văn hóa, xã hội các cộng đồng dân tộc. Trong nghiên cứu chính sách dân tộc thời phong kiến, hai tác giả Phan Hữu Dật và Lâm Bá Nam trong công trình “Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam X-XIX”, bằng phương pháp lịch sử đã khái quát lại các chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam và đánh giá các tác động của các chính sách đó tới tình hình dân tộc, tới sự phát triển của các dân tộc thiểu số. Cuốn sách này cho ta hình dung về vấn đề dân tộc, miền núi dưới thời phong kiến vốn ít được nhắc đến do không có nhiều nguồn tài liệu3. Trong giai đoạn từ 1945 đến 1986, các nghiên cứu về dân tộc học tập trung nhiều vào tìm hiểu quá trình hình thành tộc người, truyền thống văn hóa, kinh tế, xã hội và những đóng góp của các dân tộc trong quá trình chống giặc ngoại xâm. Mục tiêu chủ yếu trong giai đoạn này là tìm hiểu đặc trưng văn hóa của các tộc người để thành lập danh mục các dân tộc Việt Nam. Tiêu biểu phải kể đến các công trình như: “Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt Nam” của các giả Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Trúc Bình, Nguyễn Văn Huy (1972); “Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu 3. Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam, (2001), Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam (X-XIX), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. số ở miền Bắc Việt Nam” của Nguyễn Khánh Toàn, Chu Văn Tấn, Bế Viết Đẳng (1975); “Các dân tộc ít người ở Việt Nam: Các tỉnh phía Bắc” của Bế Viết Đẳng, Đặng Nghiêm Vạn, Lê Bá Thảo (1978); “Văn hóa và nếp sống các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hà Nhì - Lô Lô” của Nguyễn Văn Huy (1985)... Những nghiên cứu này không chỉ quan trọng trong việc làm tư liệu phục vụ chính sách thời bấy giờ mà còn là những đóng góp giá trị về các phương pháp nghiên cứu và sưu tầm tài liệu của các nhà dân tộc học lúc đó. Những người thực hiện cũng góp phần đặt nền móng cho nền dân tộc học Việt Nam sau này. Các công trình nghiên cứu dân tộc ở miền núi Tây Bắc từ sau 1986 cho đến đầu thế kỷ XXI lại chú trọng phân tích các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống cho đồng bào. Tình hình nghiên cứu trong giai đoạn này được Nguyễn Văn Chính và Hoàng Lương (2003) phân tích khá chi tiết trong bài viết “Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong lĩnh vực phát triển miền núi và đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số”. Trong nghiên cứu này, các tác giả đã phân chia thành hai nhóm các nhà nghiên cứu nước ngoài và các nhà nghiên cứu Việt Nam. Theo đó, các nhà nghiên cứu nước ngoài thường “tập trung vào việc phân tích thực trạng và các chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với các dân tộc cũng như tác động của các chính sách ấy lên tình hình phát triển vùng dân tộc”4. Còn các các nhà nghiên cứu trong nước lại tập trung vào ba vấn đề chính: Thực trạng kinh tế - xã hội ở miền núi; Chính sách của Nhà nước đối với vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số; Đề xuất giải pháp đào tạo nguồn nhân lực cho vùng miền núi5. Tuy nhiên, cách phân chia các vấn đề này chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, còn trên thực tế có nhiều công trình nghiên cứu thường bao gồm cả ba vấn đề đó. Bài viết này cũng phân tích kỹ càng các quan điểm, cách tiếp cận và các công trình quan trọng trong nghiên cứu về miền núi Việt Nam trong một khoảng thời gian khá dài, tổng thuật cho người đọc có một cái nhìn khái quát về tình hình nghiên cứu miền núi, cũng như gợi mở ra những phương hướng mới cho những nghiên cứu sau đó. Trong khoảng gần hai thập niên đầu thế kỷ XXI, vấn đề sinh kế và sự chuyển đổi kinh tế ở miền núi được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu. Nhiều chương trình nghiên cứu, phát triển miền núi phía Bắc được đặt ra và thực hiện. Đặc biệt gần đây nhất là chương trình khoa học công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc với nhiều cụm đề tài và nhiều hướng tiếp 4. Nguyễn Văn Chính, Hoàng Lương, (2003), Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong lĩnh vực phát triển miền núi và đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số, Dân tộc học, số 3, Tr. 20 5. Nguyễn Văn Chính, Hoàng Lương, (2003), Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong lĩnh vực phát triển miền núi và đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số, Dân tộc học, số 3, Tr. 20 Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 121Số 23 - Tháng 9 năm 2018 cận khác nhau nhằm giải quyết những vấn đề phát triển trọng yếu của vùng. Trước hết phải kể đến các bài viết tổng thuật về quá trình nghiên cứu chính sách dân tộc hay phát triển miền núi của một số tác giả như tổng thuật về chính sách dân tộc ở Việt Nam từ 1980 đến nay của Vương Xuân Tình (2015 và 2016) hay tổng thuật về nghiên cứu một dân tộc cụ thể như dân tộc Dao của Lý Hành Sơn (2016). Những tổng thuật này không chỉ điểm lại các công trình nghiên cứu có ảnh hưởng đến ngành trong giai đoạn trước, về những quan điểm và phương pháp tiếp cận chính mà còn phân tích và những điểm mạnh và điểm hạn chế mà những nghiên cứu khoa học trong nhiều năm qua về các vấn đề này gặp phải và gợi mở ra những hướng đi mới trong nghiên cứu liên quan đến các vấn đề về miền núi, vùng dân tộc thiểu số trong giai đoạn tiếp theo. Tiếp theo đó là những nghiên cứu về phát triển miền núi, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo dựa trên các đề tài nghiên cứu theo các chương trình khoa học của nhà nước. Những nghiên cứu này hoặc có xuất bản hoặc công bố dưới dạng kỷ yếu hội thảo hay các bài viết nhưng phần lớn tập trung vào mô tả sự biến đổi của các cộng đồng trong quá trình phát triển. Một số nghiên cứu đã đi sâu nghiên cứu các tác nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển ở miền núi. Trong đó phải kể đến công trình nghiên cứu “Văn hóa với phát triển bền vững ở vùng biên giới Việt Nam” của Vương Xuân Tình và các cộng sự (2014). Những nghiên cứu được trình bày trong công trình này đã đề cập đến vai trò của văn hóa tộc người trong phát triển bền vững ở vùng biên giới, lấy bối cảnh tương tác xuyên quốc gia về văn hóa, kinh tế. Và trong các nghiên cứu cũng đề cập đến sự tác động ngược trở lại từ sự phát triển kinh tế đối với văn hóa tộc người. Và đi đến kết luận cho rằng văn hóa tộc người là nguồn lực, là nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển bền vững của vùng biên giới cũng như giữ gìn an ninh quốc phòng6. Một trong những công trình quan trọng khác trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển vùng miền núi ở Việt Nam là cuốn sách “Những chuyển đổi kinh tế-xã hội ở vùng cao Việt Nam” (Thomas Sikor, Jenny Sowerwine, Jeff Romm và Nghiêm Phương Tuyến biên tập, 2008). Đây là một cuốn sách tập hợp nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giải trong và ngoài nước, đề cập đến quá trình chuyển đổi kinh tế của các tộc người dưới tác động của chính sách đổi mới, của quá trình thương mại hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa, cũng như hệ quả mà quá trình chuyển đổi đó đem đến cho các nền văn hóa truyền thống. Trong cuốn sách cũng giới thiệu những quan điểm nghiên cứu mới, như nhấn mạnh “Vùng núi phía Bắc Việt Nam là môi trường năng động của sự gắn kết, hình thành và phục thuộc lẫn nhau giữa vùng và 6. Vương Xuân Tình, (chủ biên, 2014), Văn hóa với phát triển bền vững ở vùng biên giới Việt Nam. NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội. quốc gia chứ không phải là một vùng địa lý tách biệt về mặt kinh tế, sinh thái và dân tộc”7. Khái quát về tình hình nghiên cứu phát triển miền núi Việt Nam, các tác giả cũng khẳng định rằng “Chuyển đổi của vùng cao ở Việt Nam là đề tài thu hút nhiều sự quan tâm chú ý trong giới học giả. Điều này thể hiện ở số lượng ngày càng nhiều các bài báo, chuyên đề về sinh kế, thay đổi môi trường, mối quan hệ dân tộc ở vùng cao. Tuy nhiên, có rất ít những đánh giá tổng hợp về những chuyển đổi ở vùng cao”8. Từ đó, các tác giả cũng mong muốn “Trên cơ sở các nghiên cứu mới dài hạn, sẽ xây dựng và phát triển các phân tích bằng những khái niệm mới về sự thay đổi ở vùng cao”9. Cũng trong cuốn sách này, một số nghiên cứu cũng đã bước đầu tìm hiểu sâu vào các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi kinh tế và sự phát triển của kinh tế thị trường. Những nghiên cứu về phát triển miền núi trong gần hai thập kỷ qua có sự đóng góp to lớn của nhiều nhà khoa học nước ngoài. Ngoài những nghiên cứu của Thomas Sikor, Jenny Sowerwine, Jeff Romm và Nghiêm Phương Tuyến, Oscar Salemink, Neefies, Koos đã công bố trong cuốn sách vừa đề cập ở phía trên thì phải kể đến các công trình nghiên cứu Jean Michaud (2010), Sarah Turner và Jean Michaud (2016)... Những nghiên cứu này tập trung vào cộng đồng người Mông (những người làng giềng của người Dao, sinh sống ở vùng núi cao hơn) trong bối cảnh liên quốc gia (nghiên cứu ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc). Nghiên cứu của Jean Michaud (2010) về người Mông là một nghiên cứu mang tính lý thuyết dựa trên tài liệu thực địa ở vùng Bắc Hà (tỉnh Lào Cai, Việt Nam). Từ tiếp cận lịch sử kinh tế về người Mông qua các giai đoạn, tác giả cho rằng kinh tế hàng hóa đã xuất hiện khá sớm ở cộng đồng dân cư này qua những trao đổi đặc sản của họ với các cộng đồng vùng thấp hơn, đặc biệt là việc sản xuất và kinh doanh cây thuốc phiện trước đây. Từ đó, tác giả cũng đưa ra quan điểm khi nền kinh tế hợp tác xã đến vùng này đã triệt tiêu, hạn chế nền kinh tế hàng hóa của người dân bản địa. Nghiên cứu về quá trình chuyển đổi kinh tế của cộng đồng người Mông vài thập niên gần đây, tác giả đưa ra lập luận sự thay đổi trong kinh tế này chỉ là quay lại với sự phát triển kinh tế mà người Mông đã thực hiện từ trước khi chính quyền cách mạng của người Kinh lên đây. Trong hoạt động kinh tế thị trường hiện tại, tác giả chú trọng nhiều đến giá trị thương mại của cây thảo quả, một loại cây 7. Thomas Sikor, Jenny Sowerwine, Jeff Romm, Nghiêm Phương Tuyến, (2008), Lựa chọn và thành quả phát triển: những chuyển đổi ở vùng cao Việt Nam. In trong “Thời kỳ mở cửa: Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam”, NXB. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, Tr. 8. 8. Thomas Sikor, Jenny Sowerwine, Jeff Romm, Nghiêm Phương Tuyến, (2008), Lựa chọn và thành quả phát triển: những chuyển đổi ở vùng cao Việt Nam. In trong “Thời kỳ mở cửa: Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam”, NXB. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, Tr. 9. 8. Thomas Sikor, Jenny Sowerwine, Jeff Romm, Nghiêm Phương Tuyến, (2008), Lựa chọn và thành quả phát triển: Những chuyển đổi ở vùng cao Việt Nam. In trong “Thời kỳ mở cửa: Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam”, NXB. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, Tr. 9. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 122 Số 23 - Tháng 9 năm 2018 được ví như “cây thuốc phiện mới” của người dân. Từ những thực tiễn đó, Jean Michaud cũng đưa ra những giả định về lý thuyết mang tính phê phán trong nghiên cứu quá trình hiện đại hóa của người Mông ở miền núi Việt Nam, như tác giả đã đề cập: “Đối với nhiều tác giả của phong trào hiện đại hóa, sớm hay muộn thì những người dân vùng cao này cũng bắt đầu hưởng thụ thành quả của quá trình phát triển kinh tế, hoặc từ một góc độ phê phán hơn, cũng trải nghiệm “sự tỉnh ngộ của thế giới”, cái làm hao mòn đặc điểm văn hóa, làm sứt mẻ các bản sắc và trong trường hợp chúng ta quan tâm, là nó đã dần loại bỏ các hoạt động kinh tế truyền thống ra khỏi cấu hình văn hóa của họ”10. Về cơ bản, Jean Michaud phê phán lại các lập luận thuyết hiện đại hóa qua những khái niệm về “sự linh động” và “sức phản kháng” của cộng đồng bản địa. Những nghiên cứu Jean Michaud và Sarah Turner tiếp tục quan điểm nói trên khi phê phán lại thuyết hiện đại hóa bằng việc củng cố các dẫn chứng về sự linh động của như tính phản kháng của người Mông ở phía Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc, tuy nhiên tác giả cũng phân tích sâu hơn về sự khác nhau trong bối cảnh ở hai quốc gia khiến cho các cộng đồng người Mông ở Việt Nam và Trung Quốc đã có sự ứng xử khác nhau với hiện đại hóa11. Những nghiên cứu của các tác giả này có giá trị lớn khi gợi mở ra nhiều vấn đề quan trọng cả về lý thuyết lẫn thực tiễn cho các nghiên cứu về sự phát triển miền núi. Tuy nhiên, cái nhìn mang nặng tính địa lý của họ cũng có những hạn chế nhất định khi sự phát triển đang bắt đầu mở ra những cơ sở để những khác biệt địa lý đang mờ nhạt dần đối với các tộc người. Bên cạnh đó, tính đặc trưng văn hóa của các tộc người khác cũng có những ảnh hưởng lớn trong quá trình hiện đại hóa và thị trường hóa ở miền núi hiện nay. Tuy nhiên, giá trị quan trọng nhất của các nghiên cứu này là đặt vấn đề bản sắc văn hóa, cá tính con người làm cơ sở cho sự phân tích về phát triển kinh tế trong bối cảnh hiện đại hóa, thị trường hóa ở miền núi nước ta. Nó mở ra những hướng nghiên cứu thú vị cho các nghiên cứu đi sau. Và càng ngày, những nghiên cứu theo hướng này được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm hơn. 2.2. Tình hình nghiên cứu về sự phát triển kinh tế của người Dao ở Việt Nam trong thời gian qua So với các dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam thì cộng đồng người Dao trong nhiều năm qua đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong một tổng luận của Lý Hành Sơn thì “người Dao là một trong các dân tộc được nhiều học giả quan tâm nghiên 10. Jean Michaud, (2010), Nghiên cứu về kinh tế và bản sắc của người H’mông ở Việt Nam, In trong “Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học”. NXB. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Tr. 52. 11. Sarah Turner, Jean Michaud, (2016), Sinh kế nơi biên cương: Sự thích ứng của người Hmông ở vùng biên giới Việt-Trung. In trong “Nhân học ở Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử, nghiên cứu và đào tạo”. NXB. Tri thức, Hà Nội, Tr. 315. cứu”12. Trong tổng luận này, tác giả đã tổng quan khá chi tiết về quá trình nghiên cứu, số lượng công trình nghiên cứu, phương pháp tiếp cận và cả những thành công, hạn chế của các nghiên cứu qua các thời kỳ khác nhau. Theo đó, tác giả chia các công trình nghiên cứu về người Dao thành hai giai đoạn lấy năm 1980 làm ranh giới. Qua khảo sát các nguồn tài liệu từ thư viện và các cơ quan nghiên cứu, đào tạo, tác giả đã thống kê được 473 nghiên cứu về người Dao. Theo sự phân chia giai đoạn thì có 50 nghiên cứu trước 1980 và từ 1980 đến 2015 có 423 nghiên cứu. Để có cái nhìn cụ thể hơn, tác giả cũng đã phân loại 423 công trình này gồm: 125 sách về người Dao hoặc có một phần liên quan đến người Dao, 60 bài tạp chí, 56 luận văn luận án, còn lại là các bài công bố trong các kỷ yếu hội nghị hội thảo khoa học trong nước và quốc tế13. Nhưng con số thống kê này cho thấy, dù chưa thật nhiều nhưng người Dao cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm nhất định, nhất là so với các dân tộc khác ở vùng cao thì những nghiên cứu về người Dao khá đa dạng. Nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam có sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Trong khi các nhà nghiên cứu trong nước tập trung nhiều vào nguồn gốc lịch sử, quá trình tộc người, đặc trưng văn hóa của người Dao thì các nhà nghiên cứu nước ngoài lại đi vào các vấn đề về chuyển đổi sinh kế, biến đổi văn hóa của người Dao trong quá trình phát triển. Trong nước, có các công trình nghiên cứu chung về dân tộc Dao của các tác giả như: Bế Viết Đẳng, Nguyễn Nam Tiến, Nông Trung (1971), Chu Thái Sơn và Võ Mai Phương (2004). Đây là các công trình nghiên cứu khái quát về các hoạt động kinh tế - xã hội và văn hóa của dân tộc Dao ở Việt Nam. Các công trình này cũng chỉ dừng lại ở việc giới thiệu các nét đặc sắc nhất của dân tộc Dao. Các nghiên cứu điểm có vai trò quan trọng phải kể đến nghiên cứu về trang phục của người Dao của Nguyễn Khắc Tụng (2004), đây là một công trình nghiên cứu chi tiết về đặc điểm và sự biến đổi của trang phục của các nhóm Dao ở Việt Nam. Bên cạnh đó còn có nhiều luận văn, luận án và các bài viết trên các tạp chí. Các nghiên cứu loại này thường nghiên cứu về một nhóm Dao ở một địa phương nhất định. Một sự kiện quan trọng trong nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam là hội thảo quốc tế về người Dao ở Việt Nam được tổ chức tại Thái Nguyên, tháng 12 năm 1995, mà kết quả của nó là công trình “Sự phát triển văn hóa - xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai” (1998). Đây là tập kỷ yếu tập hợp những báo cáo của các đại biểu tham dự hội thảo, trong đó có nhiều nghiên đã đề cập đến sự biến đổi kinh tế - xã hội của người Dao trong giai 12. Lý Hành Sơn, (2016), Nhân học về người Dao ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra. In trong “Nhân học ở Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử, nghiên cứu và đào tạo”. NXB. Tri thức, Hà Nội. Tr. 285. 13. Lý Hành Sơn, (2016), Nhân học về người Dao ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra. In trong “Nhân học ở Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử, nghiên cứu và đào tạo”. NXB. Tri thức, Hà Nội. Tr. 285. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 123Số 23 - Tháng 9 năm 2018 đoạn hiện nay. Gần đây, có nhiều nguồn tư liệu mới về người Dao được công bố, đặc biệt là bộ “Sách cổ người Dao” do Trần Hữu Sơn chủ biên (2009). Bên cạnh đó, nhiều luận văn luận án về người Dao cũng được thực hiện trong nhiều năm qua. Những nghiên cứu này đã góp phần đa dạng hóa nguồn tài liệu của người Dao. Như trong tổng luận của Lý Hành Sơn đã phân tích khá kỹ càng về các nội dung chính của mấy trăm công trình nghiên cứu như về sinh kế, văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội, tri thức dân gian, trang phục, tín ngưỡng tôn giáo14. Dù nghiên cứu về người Dao ngày càng đa dạng và phong phú, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa được quan tâm đúng mức. Lý Hành Sơn đã tổng kết: “Phần lớn các nghiên cứu (về người Dao) thường đề cập đến các yếu tố truyền thống trên các lĩnh vực sinh kế, tổ chức xã hội, văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc này. Chưa có nhiều công trình nghiên cứu về sự biến đổi kinh tế-xã hội của người Dao ở Việt Nam”15. Thực ra, tổng luận này dù đã tiến hành công phu nhưng không tránh khỏi những thiếu sót khi bỏ qua nhiều nghiên cứu gần đây mà nội dung liên quan đến vấn đề mà tác giả đã tổng kết. Ít nhất là một số nghiên cứu của các tác giả nước ngoài mới đây cũng như một số nghiên cứu trong nước khác như nghiên cứu của Sowerwine, Jennifer, Nguyen Huy Dung (1998); Sowerwine, Jennifer (2004) hay Tô Xuân Phúc (2008) Đặc biệt là nghiên cứu của Tô Xuân Phúc (2008) là một nghiên cứu công phu về thị trường đất đai và tác động của nó đến đời sống của người Dao ở Ba Vì (Hà Nội). Từ những phân tích về quá trình thị trường hóa kinh tế ở khu vực nghiên cứu, nhất là khảo sát sự hình thành và biến động của thị trường đất đai, tác giả đã đi đến những kết luận về tác động của kinh tế thị trường đến đời sống văn hóa, xã hội của người Dao ở đây. Và tác giả cũng nhận định: “Thị trường có tác động khác nhau đến các hộ trong cộng đồng. Thị trường giúp cho một số hộ tiếp cận với cuộc sống hiện đại và ổn định sinh kế trong tương lai. Tuy nhiên, nó làm mất đi phương tiện sản xuất của một số hộ khác và tạo ra các rủi ro trong tương lai. Sự xuất hiện của thị trường làm thay đổi cấu trúc xã hội của cộng đồng và làm nảy sinh một số mâu thuẫn. Thị trường làm thu hẹp khoảng cách không gian giữa miền núi và đồng bằng. Song song với đó, thị trường cũng đóng vai trò chia rẽ xã hội vì đã làm nảy sinh các mâu thuẫn trong cộng đồng. Tóm lại, thị trường vừa có vai trò thúc đẩy phát triển, vừa đóng vai trò lực cản của phát triển”16. 14. Lý Hành Sơn, (2016), Nhân học về người Dao ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra. In trong “Nhân học ở Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử, nghiên cứu và đào tạo”. NXB. Tri thức, Hà Nội. Tr. 292-298. 15. Lý Hành Sơn, (2016), Nhân học về người Dao ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra. In trong “Nhân học ở Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử, nghiên cứu và đào tạo”. NXB. Tri thức, Hà Nội. Tr. 299. 16. Tô Xuân Phúc, (2008), Thu hẹp khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng: nghiên cứu dân tộc học về thị trường đất đai tại một xóm người Dao. In trong “Thời kỳ mở cửa: Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam”, NXB. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội. Tr. 65. Các nhà khoa học nước ngoài nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam không nhiều. Nhà nghiên cứu Trung Quốc Trương Hữu Tuấn đã sử dụng các nguồn tư liệu ở Trung Quốc phân tích nguồn gốc di cư của người Dao từ Trung Quốc sang Việt Nam đã gợi mở cho chúng ta những nguồn tài liệu mới về nghiên cứu nguồn gốc của người Dao ở nước ta17. Nhà nghiên cứu người Pháp Jacques Lemoine lại khái quát về bản sắc văn hóa người Dao ở Việt Nam và sự biến đổi của nó trong quá trình hiện đại hóa đất nước. Nghiên cứu của hai tác giả này, trong bối cảnh các nhà nghiên cứu trong nước đã công bố nhiều tài liệu thì họ chỉ bổ sung thêm một số tài liệu họ có hay các quan điểm nghiên cứu mới, và những nghiên cứu này, ở góc độ nào đó còn khá hạn chế về thực tiễn ở Việt Nam cũng như bối cảnh lịch sử cụ thể gắn với những biến chuyển ở trong nước hay ở địa phương có người Dao sinh sống18. Bên cạnh đó còn có các nghiên cứu của Sowerwine, Jennifer, Nguyen Huy Dung (1998); Sowerwine, Jennifer (2004). Những nghiên cứu này tập trung vào một điểm và đi sâu vào phân tích các biến đổi về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Dao trước những tác động của kinh tế thị trường, của hiện đại hóa. Nhìn chung, dù nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về người Dao ở Việt Nam chưa nhiều trong những năm qua, nhưng đây là những nhìn nhận bên ngoài về người Dao mà chúng ta cần quan tâm. 3. Những vấn đề đặt ra khi nghiên cứu kinh tế thị trường của người Dao trong mối tương quan với sự phát triển vùng núi Tây Bắc, giai đoạn tới Hiện nay, nhìn chung, vùng Tây Bắc cũng như nhiều khu vực miền núi khác trong cả nước đều rơi vào một tình trạng chung là trong khi kinh tế phát triển vẫn còn chậm chạp thì văn hóa truyền thống ở một số tộc người lại đang dần bị mai một. Không thể phủ nhận những thành quả của sự phát triển kinh tế xã hội vùng Tây Bắc trong hơn ba thập niên qua, nhất là đời sống người dân được tăng nhanh so với các giai đoạn trước. Nhưng điều đó không khỏa lấp được sự mất mát về mặt văn hóa truyền thống. Hơn nữa, dù phát triển hơn trước nhưng nhìn chung Tây Bắc vẫn thuộc khu vực chậm phát triển và cơ cấu kinh tế cũng không đồng đều. Kinh tế Tây Bắc trong giai đoạn tới sẽ có sự phát triển nhanh chóng theo hướng thị trường hóa. Các dân tộc khác nhau sẽ có những con đường đi vào phát triển kinh tế thị trường khác nhau. Kinh tế thị trường phát triển sẽ là một cuộc cách mạng lớn làm thay đổi toàn diện và sâu sắc đời sống các dân tộc thiểu số. Thị trường vừa tạo ra sức hút lớn, tạo sợi dây liên hệ kéo các dân tộc lại với nhau để chia sẻ các lợi ích kinh tế thông qua các quy luật cung-cầu. Nhưng thị trường 17. Trương Hữu Tuấn (1998), Mấy vấn đề về người Dao di cư sang Việt Nam. In trong “Sự phát triển văn hóa - xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai”, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc Gia, Hà Nội. 18. Jacques Lemoine (1998), Khái quát về di sản văn hóa Dao và hiện đại hóa. In trong “Sự phát triển văn hóa - xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai”, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc Gia, Hà Nội. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 124 Số 23 - Tháng 9 năm 2018 cũng đẩy mạnh quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa các tộc người với nhau một cách mạnh mẽ hơn. Nó đòi hỏi các cộng đồng phải có bản lĩnh, phát huy được nội lực để phát triển kinh tế xã hội nhưng vẫn giữa được các giá trị văn hóa truyền thống. Kinh tế thị trường cũng mở rộng không gian hoạt động của các cộng đồng hơn, thay vì các không gian bó hẹp vùng miền do bị chia cắt về địa lý thì sẽ là không gian giao lưu kinh tế xuyên biên giới. Tất cả những điều đó đòi hỏi cần phải có những nghiên cứu đi sâu khảo sát tình hình thực tế và có những định hướng về tương lai dựa vào cơ sở lý luận, thực tiễn và sự hoạch định chính sách quản lý đúng đắn. Người Dao đã dành được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và thực chất nhiều vấn đề đã được đề cập trong các công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, trước sự biến đổi nhanh chóng của môi trường kinh tế, xã hội với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, của quá trình hiện đại hóa và toàn cầu hóa thì những nghiên cứu đã có chưa đáp ứng được nhu cầu nhận thức về người Dao. Trong đó cần quan tâm đến một số vấn đề quan trọng sau: Thứ nhất, đó là tìm hiểu tại sao người Dao lại có thể chủ động tham gia vào thị trường và thành công hơn những nhóm khác ở bên cạnh họ? Hay yếu tố nào giữ vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường ở người Dao hiện nay? Để trả lời được câu hỏi này cần khảo sát thực tế các cộng đồng Dao và mối quan hệ của các cộng đồng đó với các cộng đồng xung quanh xem họ giống và khác nhau thế nào trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Liệu người Dao chủ động tiếp cận thị trường vì căn tính dân tộc, bản sắc văn hóa, tính chất con người hay còn là do vị thế xã hội, điều kiện chính trị, kinh tế cụ thể ở các địa phương? Muốn vậy chúng ta cần có phương pháp tiếp cận hợp lý, có những nghiên cứu so sánh cũng như những lý giải mang tính lý thuyết cụ thể nhằm cung cấp nhiều góc nhìn khác nhau để tham chiếu. Thứ hai, nghiên cứu về vai trò của nguồn lực văn hóa của người Dao trong sự phát triển kinh tế thị trường? Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế thị trường là mối quan hệ cốt lõi trong nghiên cứu nhân học phát triển. Thực chất, thị trường cũng là một yếu tố văn hóa do con người sáng tạo ra và hoạt động theo những quy luật của nó. Nhưng ở góc độ khác, thị trường cũng tác động mạnh mẽ trở lại làm thay đổi các nền văn hóa. Trong bối cảnh vùng đa tộc người, thị trường càng ảnh hưởng nhiều đến văn hóa truyền thống của các cộng đồng. Người Dao ở Tây Bắc có nền văn hóa truyền thống được hình thành và tồn tại hàng trăm năm nay. Những giá trị văn hóa truyền thống là nguồn lực để giúp họ chủ động tiếp cận thị trường. Nhưng không phải khi nào cũng làm được điều đó, nhất là trong bối cảnh hiện đại hóa, toàn cầu hóa, nó vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho người Dao trong con đường phát triển kinh tế thị trường. Để phát triển kinh tế thị trường và bảo tồn bản sắc văn hóc tộc người thì cộng đồng người Dao phải làm gì? Những cơ chế nào có thể phù hợp với điều kiện cụ thể của các cộng đồng trong quá trình đưa nguồn lực văn hóa vào phát triển là những điều cần được quan tâm. Thứ ba, là nghiên cứu kinh tế thị trường của người Dao dưới sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang trở nên mạnh mẽ. Khoa học công nghệ đang tác động trực tiếp đến hoạt động kinh tế thị trường của hầu hết các cộng đồng trong đó có người Dao. Vấn đề đặt ra là họ tiếp cận khoa học công nghệ như thế nào? Làm sao để họ có nền tảng kỹ năng, tri thức và mạng lưới xã hội để làm chủ công nghệ và vận dụng công nghệ vào quá trình phát triển kinh tế. Cách mạng khoa học công nghiệp 4.0 cũng đặt ra những vấn đề quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống khi mà các không gian xã hội được công nghệ tạo ra sẽ tác động trực tiếp đến các cộng đồng, mà cụ thể ở đây là các mạng xã hội, các kênh truyền thống trực tiếp làm cho sự giao lưu văn hóa mạnh mẽ hơn. Trên đây chỉ đặt ra một số vấn đề lớn cần thiết trong quá trình nghiên cứu về người Dao. Xã hội càng phát triển nhanh chóng và phức tạp nên sẽ càng xuất hiện nhiều vấn đề mới cần phải nhận thức. Điều này cho thấy người Dao ở Việt Nam, đã dành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố. Tuy nhiên, điều đó cũng gợi mở ra nhiều vấn đề mới liên quan đến người Dao cần được làm rõ. Đó cũng là những lối đi, những khoảng trống mới dành cho những người nghiên cứu tiếp theo quan tâm đến người Dao./. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Văn Chính, Hoàng Lương, (2003), Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong lĩnh vực phát triển miền núi và đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số, Dân tộc học, số 3; [2] Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam, (2001), Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam (X-XIX), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; [3] Đảng bộ tỉnh Lào Cai, (2010), Lịch sử Đảng bộ Tỉnh Lào Cai (1947-2007), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; [4] Bế Viết Đẳng, Nguyễn Nam Tiến, Nông Trung, (1971), Người Dao ở Việt Nam, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội; [5] Bế Viết Đẳng, Lê Bá Thảo, Đặng Nghiêm Vạn..., (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam: các tỉnh phía Bắc, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội; [6] Trần Hồng Hạnh, (2002), Tri thức địa phương trong sử dụng thuốc nam của người Dao Đỏ (xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai), Dân Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 125Số 23 - Tháng 9 năm 2018 tộc học, số 5; [7] Nguyễn Văn Huy, (1985), Văn hoá và nếp sống các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hà Nhì, NXB. Văn hóa, Hà Nội; [8] Tô Xuân Phúc, (2008), Thu hẹp khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng: nghiên cứu dân tộc học về thị trường đất đai tại một xóm người Dao. “Thời kỳ mở cửa: Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam”, NXB. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội; [9] Jean Michaud, (2010), Nghiên cứu về kinh tế và bản sắc của người H’mông ở Việt Nam, Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học, NXB. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; [10] Jennifer Sowerwine, (2008), Nhà nước biến đổi và các quy luật thị trường: biến đổi ruộng đất và nền kinh tế thị trường duy tình ở vùng núi Ba Vì, Việt Nam, “Thời kỳ mở cửa: Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam”, NXB. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội; [11] Sarah Turner, Jean Michaud, (2016), Sinh kế nơi biên cương: sự thích ứng của người Hmông ở vùng biên giới Việt-Trung. In trong “Nhân học ở Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử, nghiên cứu và đào tạo”. NXB. Tri thức, Hà Nội; [12] Chu Thái Sơn, Võ Mai Hương, (2005), Người Dao, NXB. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh; [13] Lý Hành Sơn, (2016), Nhân học về người Dao ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra. In trong “Nhân học ở Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử, nghiên cứu và đào tạo”. NXB. Tri thức, Hà Nội; [14] Trần Hữu Sơn, (chủ biên, 2009), Sách cổ người Dao (2 tập), NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội; [15] Nguyễn Ngọc Thanh, (2016), Quy ước sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên của người Dao ở Việt Nam. In trong “Nhân học ở Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử, nghiên cứu và đào tạo” NXB. Tri thức, Hà Nội; [16] Thomas Sikor, Jenny Sowerwine, Jeff Romm, Nghiêm Phương Tuyến, (Biên tập, 2008), Thời kỳ mở cửa: Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam, NXB. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội; [17] Thomas Sikor, Jenny Sowerwine, Jeff Romm, Nghiêm Phương Tuyến, (2008), Lựa chọn và thành quả phát triển: Những chuyển đổi ở vùng cao Việt Nam. In trong “Thời kỳ mở cửa: Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam”, NXB. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội; [18] Nguyễn Khánh Toàn, Chu Văn Tấn, Bế Viết Đẳng, (1975), Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội; [19] Vương Xuân Tình, (chủ biên, 2014), Văn hóa với phát triển bền vững ở vùng biên giới Việt Nam. NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội; [20] Vương Xuân Tình, (2015), Tổng quan chính sách dân tộc ở Việt Nam từ năm 1980 đến nay. Dân tộc học, số 1 & 2 (190); [21] Vương Xuân Tình, (2016), Nhìn lại cuộc tổng kết nghiên cứu về tộc người ở Việt Nam từ năm 1980 đến nay và định hướng nghiên cứu trong thời gian tới. Dân tộc học, số 1 & 2 (194). RESEARCH AND EVALUATION OF RESEARCH SITUATION ON MARKET ECONOMY OF THE DAO ETHNIC IN THE DEVELOPMENT PROCESS OF NORTHWESTERN MOUNTAINOUS AREA Bui Minh Hao Abstract: The Dao ethnic is an important ethnic group in the process of socio-economic development in the northwestern mountainous region of Vietnam. In the process of formation and development, the Dao ethnic also gained much research interests of scholars at home and abroad. There are many researchs in different types which have published showing that interest. In general, the Dao ethnic is one of the ethnic groups who have been highly interested in Vietnam for the past decades. However, the researchs on the economic transformation of the Dao ethnic in the past few decades to be still limited. Many gaps in perception of movement, socio-economic changes of the Dao ethnic appears and becomes important issues to be considered. Based on the research of published document sources, the article aims to provide a more comprehensive view of the research of the Dao ethnic over the past years. Inside, it emphasizes that the development of the market economy of the Dao ethnic in relation to the general development of the northwestern region of our country. This also suggests some issues that need to be studied in the coming period. Keywords: The Dao ethnic; Market economy; Northwest mountains area; Development of the northwest area; History of the Dao ethnic research.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf101_462_1_pb_1026_2151950.pdf
Tài liệu liên quan