Tài liệu Khả năng tồn tại và di cư của tế bào trong gel fibrin sau khi ghép trên mảnh ngà răng đã xử lý: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 1
KHẢ NĂNG TỒN TẠI VÀ DI CƯ CỦA TẾ BÀO TRONG GEL FIBRIN
SAU KHI GHÉP TRÊN MẢNH NGÀ RĂNG ĐÃ XỬ LÝ
Nguyễn Thị Ngọc Hạnh*, Đoàn Nguyên Vũ**, Trần Xuân Vĩnh***, Trần Lê Bảo Hà**
TÓM TẮT
Mở đầu: Gel fibrin là vật liệu khung nâng đỡ phù hợp cho sự tái tạo mô tủy. Tuy nhiên trong kĩ nghệ mô
nha khoa hiện nay, ứng dụng của gel fibrin còn rất hạn chế.
Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu này là tạo gel fibrin có tế bào và đánh giá sự tồn tại, di cư của tế bào
trong cấu trúc này sau khi ghép trên mảnh ngà răng đã xử lý.
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Các mảnh ngà răng người được tạo có kích thước khoảng 5 – 6
mm, đường kính rãnh là 1mm. Tế bào gốc tủy răng được đưa lên khung nâng đỡ gel fibrin. Gel fibrin có tế bào
gốc tủy răng và mô tủy nguyên được cấy lên mảnh ngà răng đã xử lý. Cố định các thành phần trên mảnh ngà
răng và nuôi cấy in vitro 2 tuần. Sự tồn tạo và di cư của tế ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 332 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khả năng tồn tại và di cư của tế bào trong gel fibrin sau khi ghép trên mảnh ngà răng đã xử lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 1
KHẢ NĂNG TỒN TẠI VÀ DI CƯ CỦA TẾ BÀO TRONG GEL FIBRIN
SAU KHI GHÉP TRÊN MẢNH NGÀ RĂNG ĐÃ XỬ LÝ
Nguyễn Thị Ngọc Hạnh*, Đoàn Nguyên Vũ**, Trần Xuân Vĩnh***, Trần Lê Bảo Hà**
TÓM TẮT
Mở đầu: Gel fibrin là vật liệu khung nâng đỡ phù hợp cho sự tái tạo mô tủy. Tuy nhiên trong kĩ nghệ mô
nha khoa hiện nay, ứng dụng của gel fibrin còn rất hạn chế.
Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu này là tạo gel fibrin có tế bào và đánh giá sự tồn tại, di cư của tế bào
trong cấu trúc này sau khi ghép trên mảnh ngà răng đã xử lý.
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Các mảnh ngà răng người được tạo có kích thước khoảng 5 – 6
mm, đường kính rãnh là 1mm. Tế bào gốc tủy răng được đưa lên khung nâng đỡ gel fibrin. Gel fibrin có tế bào
gốc tủy răng và mô tủy nguyên được cấy lên mảnh ngà răng đã xử lý. Cố định các thành phần trên mảnh ngà
răng và nuôi cấy in vitro 2 tuần. Sự tồn tạo và di cư của tế bào trong gel fibrin được đánh giá bằng kỹ thuật mô
học và phản ứng PCR
Kết quả: Kết quả cho thấy có sự tồn tại của tế bào trong cấu trúc sau 2 tuần ghép trên mảnh ngà răng đã xử
lý và có sự di cư của tế bào trong mô tủy nguyên sang gel fibrin.
Từ khóa: Gel fibrin, bệnh lý tủy, tồn tại, di cư.
ABSTRACT
THE SURVIVAL AND MIGRATION OF CELLS IN THE GEL FIBRIN-FORMING CELLS AFTER
SEEDED HUMAN TREATED DENTIN MATRIX
Nguyen Thi Ngoc Hanh, Doan Nguyen Vu, Tran Xuan Vinh, Tran Le Bao Ha
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 2 - 2016: 1 - 6
Background: The fibrin gel has many useful characteristics for the pulp tissue regeneration but its
application in dental engineering is still limited.
Objective: The aims of this study are to conduct a cell containing fibrin gel and to evaluate the survival and
migration of cells in this structure after seeded on human treated dentin matrix.
Material and Methods: Firstly, the dentin slices from 5 – 6 mm in length and 1 mm diameter of drain were
cut from human tooth. Dental pulp stem cells were seeded on fibrin gel. Secondly fibrin gel/cell structure and
living pulp are seeded to the dentin slices. These slices then were fixed and cultured in vitro for 2 weeks. The
survival and migration of cells in gel fibrin was evaluated by HE staining and PCR.
Results: The results showed that the cells presented in fibrin gel/cell structure after two weeks. Some cells of
living pulp tended to move into fibrin gel and proliferated together with dental pulp stem cells.
Keywords: fibrin gel, survival, migration
* Trường Cao đẳng Y tế Kiên Giang
** Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia-thành phố Hồ Chí Minh
***Bộ môn Nha khoa cơ sở, Khoa RHM, Đại học Y Dược, TpHCM
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Lê Bảo Hà ĐT: 0988575507 Email: tlbha@hcmus.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lý tủy là một bệnh khá phổ biến trong
lĩnh vực nha khoa, và nội nha là phương pháp
điều trị được áp dụng nhiều nhất. Răng sau nội
nha sẽ mất đi khả năng nhận cảm với sự thay đổi
của môi trường và khả năng sửa chữa của răng
với những tổn thương sau đó. Chính vì vậy, nhu
cầu đòi hỏi một liệu pháp khác nhằm phục hồi
tốt hơn cho răng là cần thiết.
Trên thế giới, khi tế bào gốc tủy răng người
được phân lập lần đầu tiên vào năm 2000, cùng
với sự phát triển của kĩ nghệ mô thì các nhà
nghiên cứu đã bắt đầu hi vọng có thể tái tạo lại
được mô ngà tủy tự nhiên thay thế cho phương
pháp điều trị nội nha hiện tại, mở ra cuộc cách
mạng cho sự tái tạo ngà tủy, hay nói cách khác là
chiếc răng có hy vọng được sống lại(3). Ngà răng
người có các phân tử tín hiệu và rất nhiều
protein đã được chứng minh là quan trọng
trong sự phát triển, khoáng hóa và tái tạo ngà
răng. Khi được phóng thích, những yếu tố này
đóng vai trò quan trọng trong sự thành lập
ngà sửa chữa, một đáp ứng của phức hợp ngà
tủy. Những nghiên cứu trước đây đã chứng
minh ngà răng người đã xử lý (hTDM) có tính
tương hợp sinh học cũng như hoạt tính sinh
học thích hợp để làm khung nâng đỡ lý tưởng
trong tái tạo răng(5).
Khung nâng đỡ fibrin được sử dụng trong
các nghiên cứu tái tạo mô sụn, tim mạch và thần
kinh. Các đặc tính sinh học của gel fibrin phù
hợp làm khung nâng đỡ như: tương hợp sinh
học, đáp ứng miễn dịch thấp, phân hủy sinh học,
dễ dàng thu nhận và xử lý, có thể tạo ra được
nhiều hình dạng với nhiều kích thước khác
nhau... Gel fibrin thu nhận từ máu của bệnh
nhân nên đó là khung nâng đỡ tự thân, sẽ không
độc, không gây viêm. Gel fibrin mềm mại nên có
thể đưa vào buồng tủy dễ dàng(2,4,9). Với những
tính năng này, gel fibrin là vật liệu khung nâng
đỡ phù hợp cho sự tái tạo mô tủy. Tuy nhiên
trong kĩ nghệ mô nha khoa hiện nay, ứng dụng
của gel fibrin còn rất hạn chế. Vì vậy, chúng tôi
thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu là tạo
được cấu trúc gel fibrin có tế bào và đánh giá sự
tồn tại, di cư của tế bào trong cấu trúc này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Gel fibrin từ huyết tương người; Tế bào gốc
tủy răng người.
Tạo mô hình nghiên cứu
Xử lý răng và tạo mảnh ngà răng:
Các mảnh ngà răng được tạo có chiều dài từ
5-6 mm, đường kính rãnh là 1mm và được lần
lượt khuấy trong PBS (Phosphat Buffered Saline
(Gibco)) 1X 10 phút, trong EDTA
(ethylenediaminetetraacetic acid - Sigma) 17% 10
phút, trong axit citric 19% 1 phút. Sau đó, các
mảnh ngà răng này được lắc trong PBS 1X 5-7
ngày, tốc độ lắc là 120 vòng/phút. Cuối cùng, các
mảnh ngà răng đã xử lý được thu nhận, làm khô,
đóng gói và chiếu xạ ở Trung Tâm Nghiên Cứu
và Triển Khai Công Nghệ Bức Xạ, Thành phố Hồ
Chí Minh với liều chiếu xạ là 25 kGy(7, 8).
Tạo cấu trúc gel fibrin/tế bào
Gel fibrin có chứa tế bào bên trong được tạo
bằng cách cho 250 µl huyết tương vào giếng,
thêm 250 µl dung dịch CaCl2 40mM vào và thêm
104 tế bào gốc tuỷ răng, huyền phù để tế bào
phân bố đều trong gel. Sau 24 giờ, thu nhận cấu
trúc gel fibrin/tế bào và ghép lên mảnh ngà răng.
Thu nhận mô tủy nguyên từ răng người nam
Răng được tạo các rãnh dọc theo thân và
chân với độ sâu vừa phải, không lộ tủy bằng
máy cắt răng. Mô tủy nguyên được thu nhận
trong tủ vô trùng theo các bước sau: khử trùng
răng trong povidine trong 10 phút, rửa lại với
PBS 1X (2 lần), đặt răng lên gạc vô trùng, dùng
kéo cắt răng làm đôi theo các rãnh đã được tạo ra
trước đó, thu nhận phần tủy buồng, cắt bỏ phần
tủy chân gần chóp để tránh nguy cơ nhiễm
khuẩn, cho vào 1 đĩa petri sạch có sẵn PBS 1X,
dùng lưỡi dao phẫu thuật cắt mô tủy nguyên ra
thành 2 phần.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 3
Ghép cấu trúc gel fibrin/tế bào lên mảnh ngà
răng
Chúng tôi thực hiện 3 nghiệm thức nghiên
cứu, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần:
Nghiệm thức 1 (NT 1): Mảnh ngà răng +
gel fibrin/tế bào + mô tủy nguyên
Nghiệm thức 2 (NT 2): Mảnh ngà răng +
gel fibrin/tế bào
Nghiệm thức 3 (NT 3): Mảnh ngà răng +
gel fibrin
Cố định gel fibrin và mô tủy nguyên lên mảnh
ngà răng
Tùy theo thành phần của từng nghiệm thức,
tiến hành đặt gel fibrin, gel fibrin/ tế bào và mô
tủy nguyên lên rãnh của mảnh ngà răng. Cố
định các thành phần ghép bằng cách đặt lưới
thép không gỉ kích thước 1x1cm, vào từng giếng
của đĩa 4 giếng, lên trên mảnh ngà răng, sao cho
vừa chặt tay.
Đánh giá sự tồn tại của tế bào
Mô hình sau khi lấy ra sẽ được cố định trong
dung dịch formalin 10% đệm phosphate. Sau đó,
mẫu được khử khoáng, cắt lát và nhuộm H&E.
Đánh giá sự di cư của tế bào
Phần gel fibrin sau khi tách ra từ 3 nghiệm
thức sau 2 tuần nghiên cứu sẽ được bảo quản
trong môi trường nuôi cấy. Sau đó, thực hiện
phản ứng PCR xác định biểu hiện gen SRY.
Tế bào gốc tủy răng người được thu nhận từ
người nữ, mô tủy nguyên được thu nhận từ
người nam. Gen SRY là gen đại diện cho giới
tính nam. Phản ứng PCR nhằm xác định có hay
không sự hiện diện của tế bào người nam ở vùng
các tế bào nữ trong cấu trúc gel fibrin/tế bào,
thông qua sự có mặt của gen SRY.
KẾT QUẢ
Tạo cấu trúc gel fibrin/tế bào
Kính hiển vi soi ngược được sử dụng để
quan sát tế bào trong gel.
Hình 1. Tế bào trong gel (40X) A: Tế bào sau khi đưa lên gel fibrin, B: Tế bào sau 24 giờ đưa lên gel fibrin, C: Bề
mặt đĩa sau khi lấy gel fibrin ra.
A B
C
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 4
Hình 2. Tế bào bên trong gel fibrin sau 1 tuần: (A) NT 1; (C) NT 2 và sau 2 tuần: (B) NT 1; (D) NT 2
2 1 F M L
Hình 3. Kết quả PCR gen SRY mẫu gel sau 2 tuần, L: thang đánh giá; M: mô tủy nguyên người nam, F: mô tủy
nguyên người nữ, 1: mẫu gel NT 1, 2: mẫu gel NT 2.
Khi mới được cố định lên gel, tế bào có dạng
tròn. Sau 24 giờ, tế bào có dạng trải dài. Sau khi
lấy gel fibrin ra khỏi giếng, bề mặt giếng dưới
kính hiển vi hầu như không thấy tế bào (Hình 1
A, B, C).
A B
C D
Gel fibrin/ tế bào Gel fibrin/ tế
bào
Gel fibrin/ tế bào
Ngà Ngà
Gel fibrin/ tế
bào
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 5
Kết quả nhuộm H&E
Ở cả NT 1 và NT 2, mật độ tế bào bên trong
gel ở 1 tuần và 2 tuần đều tương đương nhau,
khó nhận ra sự thay đổi. (Hình 2 A, B, C, D).
Kết quả PCR
Kết quả PCR (Hình 3) cho thấy 4 mẫu đều
biểu hiện gen chứng nội GAPDH (97bp). Mẫu
gel của NT 1 biểu hiện gen SRY (224bp) giống
với mẫu chứng là mô tủy nguyên của người
nam, chứng tỏ đã có tế bào của phần mô tủy
nguyên trong mô hình in vitro di chuyển sang
phần gel fibrin. Mẫu gel của NT 2 biểu hiện âm
tính giống với mẫu chứng là mô tủy nguyên của
người nữ, phù hợp với thí nghiệm, do NT 2
không bổ sung mô tủy nguyên trong mô hình
nghiên cứu.
BÀN LUẬN
Cấu trúc gel fibrin/tế bào
Tế bào được đưa vào gel fibrin khi dung dịch
fibrin còn tồn tại ở dạng lỏng (chưa hình thành
gel). Khi đó, các tế bào huyền phù đều trong
dung dịch fibrin. Khoảng 20 phút sau, dung dịch
fibrin chuyển thành dạng gel, tế bào được bắt
giữ bên trong gel. Dưới kính hiển vi soi ngược,
có thể thấy tế bào phân bố đều trong gel fibrin.
Khi mới được cố định lên gel, tế bào có dạng
tròn do tế bào chưa bám dính và đang ở trạng
thái co lại bởi ảnh hưởng của trypsin. Sau khi cố
định tế bào lên gel fibrin, cần giữ gel trong tủ
nuôi cấy ít nhất 24 giờ trước khi thu nhận. Đó là
thời gian để tế bào thích nghi với môi trường
mới và bám trải trên đó.
Quan sát sau 24 giờ, tế bào bắt đầu có dạng
bám trải trên khung nâng đỡ gel fibrin. Sau khi
lấy gel fibrin ra khỏi giếng, quan sát bề mặt
giếng dưới kính hiển vi, hầu như không thấy sự
xuất hiện của tế bào. Điều này cho thấy, hiệu
suất cố định tế bào lên gel fibrin cao.
Sự tồn tại của tế bào
Sau 2 tuần trong điều kiện nuôi cấy in vitro
có thể quan sát thấy nhiều tế bào vẫn hiện diện
bên trong gel. Ở cả NT 1 và NT 2, mật độ tế bào
bên trong gel ở 1 tuần và 2 tuần đều tương
đương nhau, khó nhận ra sự thay đổi. Điều này
cho thấy các tế bào vẫn tồn tại bên trong gel.
Kết quả nghiên cứu phù hợp với các kết luận
trên thế giới vì gel fibrin đã được chứng minh là
có khả năng hỗ trợ sự bám, tăng sinh và biệt hóa
của tế bào. Christman (2004) và Zha (2008) đã
chứng minh trên gel fibrin tế bào có thể tồn tại
và phát triển được. Gel fibrin có cấu trúc không
gian 3 chiều, các lỗ thông với nhau. Gel fibrin
đóng vai trò như chất nền ngoại bào tạm thời,
cung cấp môi trường cho tế bào phát triển. Ngoài
ra, gel fibrin có vùng RGD (Arginine-glycine-
asparagine) là vùng cho phép các thụ thể của tế
bào bám vào. Khi được đưa lên gel fibrin, tế bào
được giữ lại trong chất nền ngoại bào này(1, 6)
Theo Sharma (2014) và Jamey (2009), sự
mềm mại và tương hợp sinh học tốt của gel
fibrin là rất hiệu quả để tạo khung nâng đỡ cho
tế bào. Hơn nữa, khung nâng đỡ fibrin còn có
nhiều đặc tính như phân hủy sinh học, dễ dàng
thu nhận và xử lý, có thể tạo ra được nhiều hình
dạng với nhiều kích thước khác nhau. Gel fibrin
thu nhận từ máu của bệnh nhân nên đó là khung
nâng đỡ tự thân, sẽ không độc, không gây viêm.
Không giống với hydrogel tổng hợp, fibrin
không chỉ là khung nâng đỡ giúp phân phối tế
bào một cách thụ động, mà nó còn chứa các nhân
tố tăng trưởng đặc biệt như các thành phần đông
máu, gồm fibronectin, axit hyaluronic và nhân tố
von Willebrand(2, 4).
Sự di cư của tế bào
Kết quả PCR để đánh giá sự di cư của tế bào
từ mô tủy nguyên người nam sang gel fibrin.
Đồng thời với việc khuếch đại gen SRY (224 bp)
chúng tôi khuếch đại gen GAPDH (97 bp). Đây
là gen được thể hiện trên mọi tế bào, không phụ
thuộc vào thể loại, trạng thái hoạt động hay
nguồn gốc nên được dùng như một gen nội
chuẩn để đánh giá chất lượng của sản phẩm
DNA tách chiết. Kết quả cho thấy sự biểu hiện
của GAPDH ở tất cả các mẫu đều rất rõ ràng.
Điều này chứng tỏ khâu tách chiết và khuyếch
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 6
đại đạt độ nhạy. Cả 4 mẫu đều có chất lượng
DNA được thu nhận tốt, đảm bảo tiêu chuẩn cho
phản ứng, phản ứng PCR với chu trình thiết lập
diễn ra bình thường, đồng thời không có sự khác
biệt về lượng mẫu đã sử dụng trong mỗi phản
ứng PCR.
Hai mẫu đối chứng có kết quả hợp lý, mẫu
mô tủy nguyên giới tính nam biểu hiện dương
tính với gen SRY, mẫu mô tủy nguyên giới tính
nữ không biểu hiện gen SRY. Về kết quả khuếch
đại gen SRY, mẫu biểu hiện dương tính chỉ có
nghiệm thức 1. Trong mô hình thí nghiệm,
nghiệm thức 1 được bổ sung mô tủy nguyên
người nam và gel fibrin có tế bào nữ. Kết quả
cho thấy phần gel fibrin ở nghiệm thức 1 đã xuất
hiện tế bào mang giới tính nam, từ đó kết luận
rằng tế bào từ mô tủy nguyên của người nam đã
di cư sang phần gel fibrin trong mô hình thí
nghiệm. Nghiệm thức 2 âm tính với gen SRY,
phù hợp với mô hình thí nghiệm, do nghiệm
thức 2 không được bổ sung mô tủy nguyên của
người nam, chỉ có gel fibrin có tế bào nữ. Kết quả
PCR có thể đưa ra kết luận rằng tế bào từ mô tủy
nguyên đã di cư sang cấu trúc gel fibrin/tế bào.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu đã tạo được cấu trúc gel
fibrin/tế bào từ huyết tương và dung dịch CaCl2
với nồng độ cuối của CaCl2 là 20mM, và mật độ
104 tế bào trên 500 µl gel. Có sự tồn tại của tế bào
bên trong cấu trúc gel fibrin sau 2 tuần ghép trên
mảnh ngà răng đã xử lý và sự di cư của tế bào
trong mô tủy nguyên sang gel fibrin.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Bộ Khoa học và
Công nghệ trong khuôn khổ đề tài mã số ĐTĐL.2012-G34.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Christman KL, Vardanian AJ, Fang Q., Sievers R. E., Fok H.
H., et al. (2004), "Injectable fibrin scaffold improves cell
transplant survival, reduces infarct expansion, and induces
neovasculature formation in ischemic myocardium", J Am Coll
Cardiol, 44 (3), pp.654-660.
2. Cornelissen C. G., Dietrich M., Kruger S., Spillner J., Schmitz-
Rode T., et al. (2012), "Fibrin gel as alternative scaffold for
respiratory tissue engineering", Ann Biomed Eng, 40 (3),
pp.679-687
3. Gronthos S., Mankani M., Brahim J., Robey P. G., Shi S. (2000),
"Postnatal human dental pulp stem cells (DPSCs) in vitro and
in vivo", Proc Natl Acad Sci USA, 97 (25), pp.13625-13630.
4. Janmey P. A., Winer J. P., Weisel J. W. (2009), "Fibrin gels and
their clinical and bioengineering applications", Journal of The
Royal Society Interface, 6 (30), pp.1-10.
5. Li R., Guo W., Yang B., Guo L., Sheng L., et al. (2011), "Human
treated dentin matrix as a natural scaffold for complete
human dentin tissue regeneration", Biomaterials, 32 (20),
pp.4525-4538.
6. Shaikh F. M., Callanan A., Kavanagh E. G., Burke P. E., Grace
P. A., et al. (2008), "Fibrin: a natural biodegradable scaffold in
vascular tissue engineering", Cells Tissues Organs, 188 (4),
pp.333-346.
7. Tran Le Bao Ha, Nguyen Thi Ngoc My, Doan Nguyen Vu
(2015), "Fabrication and evaluation of human dentin as
scafford for dental pulp stem cells", Tissue engineering and
Regenerative medicine.
8. Tran Le Bao Ha, Đoan Nguyen Vu, To Minh Quan, Phan Kim
Ngoc, Nguyen Thi Thu, et al. (2011), "Study on Culture of
Human Dental Pulp Stem Cells to apply in Tissue
Engineering", Journal of Biomimetics, Biomaterials & Tissue
Engineering, 11, pp.13-20.
9. Zhao H., Ma L., Zhou J., Mao Z., Gao C., et al. (2008),
"Fabrication and physical and biological properties of fibrin
gel derived from human plasma", Biomed Mater, 3 (1),
pp.15001-15010
Ngày nhận bài báo: 27/01/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/02/2016
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kha_nang_ton_tai_va_di_cu_cua_te_bao_trong_gel_fibrin_sau_kh.pdf