Tài liệu Kết quả xa của tạo niệu đạo sau bằng vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo và bàn về chất liệu tạo hình niệu đạo sau: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
52 KẾT QUẢ XA CỦA TẠO NIỆU ĐẠO SAU BẰNG VẠT NIÊM MẠC BAO
QUI ĐẦU HÌNH ĐẢO VÀ BÀN VỀ CHẤT LIỆU TẠO HÌNH NIỆU ĐẠO SAU
Trần Ngọc Bích*
* Khoa phẫu thuật Nhi, Bệnh viện Việt - Đức
TÓM TẮT
Tại Bệnh viện Việt -Đức, một bệnh nhân nam 6 tuổi bị tai nạn, vỡ xương chậu, chít hẹp - mất đoạn niệu
đạo sau đã được mổ nối niệu đạo 1 lần thất bại(5-2001), được mổ lần hai (tháng 11-2001) được tạo hình thay
thế đoạn niệu đạo sau bằng vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo với đường mổ qua khớp mu. Kết quả ban đầu
và theo dõi sau 21 tháng là tốt.
SUMMARY
RESULT OF RECONSTRUTION OF POSTERIEUR URETHRA BY MUCOSAL ISLAND
FLAP FROM PREPUCE
Tran Ngoc Bich * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 1 * 2004: 350 - 353
This is case study of a 6 year old boy suffering from a pelvic fracture and a posterior urethral
...
4 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả xa của tạo niệu đạo sau bằng vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo và bàn về chất liệu tạo hình niệu đạo sau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
52 KẾT QUẢ XA CỦA TẠO NIỆU ĐẠO SAU BẰNG VẠT NIÊM MẠC BAO
QUI ĐẦU HÌNH ĐẢO VÀ BÀN VỀ CHẤT LIỆU TẠO HÌNH NIỆU ĐẠO SAU
Trần Ngọc Bích*
* Khoa phẫu thuật Nhi, Bệnh viện Việt - Đức
TÓM TẮT
Tại Bệnh viện Việt -Đức, một bệnh nhân nam 6 tuổi bị tai nạn, vỡ xương chậu, chít hẹp - mất đoạn niệu
đạo sau đã được mổ nối niệu đạo 1 lần thất bại(5-2001), được mổ lần hai (tháng 11-2001) được tạo hình thay
thế đoạn niệu đạo sau bằng vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo với đường mổ qua khớp mu. Kết quả ban đầu
và theo dõi sau 21 tháng là tốt.
SUMMARY
RESULT OF RECONSTRUTION OF POSTERIEUR URETHRA BY MUCOSAL ISLAND
FLAP FROM PREPUCE
Tran Ngoc Bich * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 1 * 2004: 350 - 353
This is case study of a 6 year old boy suffering from a pelvic fracture and a posterior urethral
stricture.Initially he was treated in Việt -Đức hospital May 2001 with end to end anastomosis. This operation
was unsuccessful.He undewwent re-operation in november 2001.We used a mucosal island flap from prepuce
to repair the defect via a transpubic approach. The result after 21 months is good.
Key words : Posterior urethral stricture. Island flap.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hẹp niệu đạo sau là bệnh lý có nhiều khó khăn
trong điều trị đặc biệt khi bị mất đoạn niệu đạo hoặc
đã mổ khâu nối niệu đạo nhưng chưa thành công.
Nguyên nhân bệnh thường do tai nạn gây vỡ xương
chậu kèm đứt đôi niệu đạo. Trong những trường hợp
niệu đạo sau bị mất đoạn hoặc mổ 1 vài lần không đạt
kết quả thì việc khâu nối niệu đạo tận tận khó thực
hiện được và bệnh nhân (BN) nếu không được tạo
hình thêm một đoạn niệu đạo sau thì thường phải
chịu dẫn lưu bàng quang vĩnh viễn bằng những loại
kỹ thuật khác nhau(6). Việc nghiên cứu tìm các chất
liệu tạo hình thay thế niệu đạo sau là cần thiết và
quan trọng.Theo y văn, đã có những chất liệu được sử
dụng để tạo hình niệu đạo sau như vạt da có cuống
mạch lấy từ đùi, từ tầng sinh môn(9), từ da bìu (7)
hoặc bằng ruột thừa còn cuống mạch(4).Tháng 11-
2001, tại Khoa Phẫu thuật nhi Bệnh viện Việt -Đức,
Chúng tôi đã nghiên cứu và dùng vạt niêm mạc bao
qui đầu hình đảo để tạo hình thay thế đoạn niệu đạo
sau. Kỹ thuật mổ thực hiện thuận lợi và kết quả theo
dõi sau hơn một năm là tốt. Chúng tôi xin trình bày
kỹ thuật mổ này và bàn về chỉ định sử dụng vạt niêm
mạc bao qui đầu hình đảo cùng những loại chất liệu
khác đã nêu trong y văn.
BỆNH ÁN BÁO CÁO
BN Nguyễn tiến S. 5 tuổi. Đã mổ 5 lần.
+Lần 1: do tai nạn giao thông, mổ cấp cứu ngày
12-2-2001 (Bs Thành, Bs Quân). Chẩn đoán: rách
thanh cơ đại tràng Xich ma, vỡ rạn lách, đứt đôi niệu
đạo sau,,lóc da rộng ở bẹn và 2 đùi,vỡ toác khớp mu.
Đã xử trí: cầm máu lách bằng đốt điện, chỗ rách
* Khoa Phẫu thuật Nhi- Bệnh viện Việt-Đức
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 350
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
thanh cơ đại tràng được khâu và đưa ra ngoài ổ bụng,
luồn sonde Foley qua niệu đạo, qua chỗ đứt đôi rồi
đưa vào bàng quang và dẫn lưu bàng quang trên
xương mu. Xử trí da bị lóc.
+ Mổ lần 2 ngày 28-2 2001.(Bs Hùng) đưa đại
tràng vào ổ bụng.
+Mổ lần 3 ngày15-3- 2001 : (Bs Quân) Vá da
mỏng.
Rút dẫn lưu qua niệu đạo ngày 26-3- 2001. Bệnh
nhân có đái tia nhỏ được vài lần rồi không đái được
nữa. Ra viện 3-4-2001,vẫn để dẫn lưu bàng quang
trên xương mu.
+Mổ lần 4 ngày 10- 5-2001.(Bs Bích, Bs Hoa).
Chẩn đoán hẹp niệu đạo sau, vỡ xương chậu cũ kiểu
Malgainne. Trước mổ có chụp niệu đạo ngược dòng,
thuốc dừng lại ở vị trí cuối niệu đạo hành. Chụp bàng
quang chỉ thấy hình bàng quang. Mổ đường tầng sinh
môn. Phẫu tích tìm đầu tận cùng của niệu đạo và giải
phóng thêm một đoạn niệu đạo hành. Mở bàng
quang phía trên xương mu tìm cổ bàng quang rồi
luồn benique xuống và mở đầu niệu đạo tiền liệt
tuyến đã bị tịt lại để khâu nối với đầu dưới niệu đạo
kéo lên. Miệng nối căng và khó nối. Đặt Foley số 10
qua niệu đạo vào bàng quang và một Foley dẫn lưu
bàng quang trên xương mu. Sau mổ điều trị kháng
sinh và rút foley đặt qua niệu đạo ngày thứ 12 sau
mổ. Bệnh nhân tự đái được 2 ngày rồi tia nước tiểu
nhỏ dần,không đái được nữa.Đã nong niệu đạo tại
phòng mổ nhưng không được. Ra viện vẫn còn dẫn
lưu bàng quang trên xương mu.
+Mổ lần 5 ngày 26- 11-2001. (BsBích, Bs Toàn).
Đường mổ dọc giữa xương mu.Mở khớp mu tách 2
ngành xương mu, cắt tổ chức xơ, bộc lộ mặt trước cổ
bàng quang. Luồn Benique qua niệu đạo vào phần
tận cùng của niệu đạo thấy xơ chít hẹp mất 1 đoạn.
Cắt ngang chỗ tận cùng của niệu đạo, đầu niệu đạo
tụt về phía dương vật. Mở rộng chỗ mở thông bàng
quang xác định lỗ cổ bàng quang, luồn Benique vào
và mở thấy vị trí mở là niệu đạo tiền liệt tuyến chỗ
ngay sát dưới ụ núi. Đoạn niệu đạo thiếu khoảng gần
2,8 cm. Không thể kéo đầu niệu đạo hành lên nối với
niệu đạo tiền liệt tuyến được. Do vậy chúng tôi đã
phẫu tích lấy vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo kích
thước 1 x 2,8 cm. Vạt niêm mạc này được lấy gần hết
chu vi dương vật. Tách tạo đường hầm dưới da ở mu-
gốc dương vật để đưa vạt hình đảo lên rồi khâu tạo
ống niệu đạo bằng chỉ PDS 6-0. Nối 1 đầu ống niệu
đạo mới với niệu đạo tiền liệt tuyến và đầu ống kia nối
với niệu đạo hành. Nối bằng chỉ PDS 6-0, mũi rời.
Miệng nối phía cổ bàng quang dễ thực hiện còn
miệng nối niệu đạo phía dưới khó hơn. Khâu ép lại
khớp mu bằng chỉ thép. Khâu lại thành bàng quang
chỉ PDS 4-0. Đặt một dẫn lưu bàng quang trên xương
mu bằng foley số 12 và sonde plastique số 10 qua
niệu đạo vào bàng quang.Đặt 1 dẫn lưu ở khoang
Retzius và 2 dẫn lưu ở cạnh cổ bàng quang và niệu
đạo mới tạo. Khâu lại vết mổ.
Sau mổ điều trị kháng sinh. Rút dẫn lưu qua
niệu đạo vào ngày thứ 20 sau mổ. Bệnh nhân tự đái
tia to, dễ, thành bãi, không bị đái rỉ. Chụp niệu đạo
khi đang đái (sau mổ 24 ngày) thấy rõ hình đoạn niệu
đạo tạo hình có kích thước như đoạn niệu đạo trước,
không có biểu hiện hẹp hay dãn. Cho bệnh nhân ra
viện nhưng vẫn để lại sonde Foley, cặp sonde cho đái.
Điều trị ngoại trú trong 1 tháng,bệnh nhân vẫn đái
bình thường, chụp lại bàng quang niệu đạo khi đang
đái có kết quả tốt nên rút Foley. Bệnh nhân đã được
khám lại sau mổ 21 tháng với kết quả tốt : dương vật
thẳng khi cương, đái chủ động, đái dễ, tia to. Tiếp tục
theo dõi kết quả lâu dài.
BÀN LUẬN
Chúng tôi xin không bàn luận về thời gian mổ
chữa đứt hẹp niệu đạo sau mà chỉ xin bàn luận về kỹ
thuật nối niệu đạo sau khi bị mất đoạn niệu đạo do
những nguyên nhân khác nhau.
Với đứt, hẹp niệu đạo nói chung cho cả niệu đạo
sau và niệu đạo trước, chúng tôi thấy nối được tận tận
2 đầu niệu đạo bình thường là sinh lý và tốt nhất.
Nhưng để có kết quả tốt, không bị hẹp miệng nối thì
miệng nối không được căng và phải được nuôi dưỡng
tốt. Do vậy, đoạn niệu đạo thiếu không được dài và
phải có khả năng di chuyển 2 đầu niệu đạo lại.
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 351
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
Với niệu đạo trước : nếu bị hẹp hoặc mất đoạn
niệu đạo dài mà không thể kéo 2 đầu nối tận tận được
thì cũng đã có nhiều kỹ thuật mổ chữa khác nhau,
nhưng chúng tôi thường tạo đoạn niệu đạo thiếu
bằng vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo hoặc tự do
(1,2). Vạt niêm mạc này thường lấy có chiều dài ít
nhất cũng bằng chiều dài của dương vật. Trong
những trường hợp không còn bao qui đầu thì chúng
tôi dùng vạt da dầy tự do lấy từ mặt trong trên đùi.
Với hẹp -mất đoạn niệu đạo sau, nếu cố phẫu
tích niệu đạo trước tối đa để kéo xuống nối được với
niệu đạo tiền liệt tuyến thì sẽ gây ngắn niệu đạo và
ngắn dương vật. Còn nếu không nối được 2 đầu niệu
đạo thì chỉ còn cách dẫn lưu bàng quang vĩnh viễn(6) :
+ Hoặc dẫn lưu ra ngoài : bằng sonde foley hoặc
theo kỹ thuật Mitrofanoff, hoặc dẫn lưu niệu quản ra
da qua một quai ruột non, qua một đoạn đại tràng
xichma biệt lập, hoặc dẫn lưu 2 niệu quản ra da trực
tiếp.
+ Hoặc dẫn lưu trong : theo kỹ thuật Maydl,
Cofey, hoặc trồng lại 2 niệu quản vào quai đại tràng
xichma biệt lập và nối đoạn đại tràng này với đại
tràng (Montage en Y).
Nếu phải dẫn lưu bàng quang vĩnh viễn, theo
chúng tôi, có lẽ kỹ thuật Mitrofanoff là tốt vì sẽ giúp
cho bệnh nhân bớt bị dây bẩn nước tiểu và dễ hoà
nhập cuộc sống hơn cả.
Nếu tìm được một loại chất liệu để thay thế đoạn
niệu đạo mất, để bệnh nhân vẫn tiểu tiện, sinh hoạt
tình dục bình thường và có con thì là một vấn đề lý
tưởng. Theo y văn thế giới, các chất liệu đã được sử
dụng để tạo hình niệu đạo sau như vạt da có cuống
mạch lấy từ da đùi, da ở tầng sinh môn (9), da bìu (7),
và có tác giả đã dùng ruột thừa với kết quả tốt ở 3
bệnh nhân(4).
Chúng tôi thấy các vạt da có cuống mạch trên là
chất liệu có thể sử dụng tạo hình niệu đạo được.Tuy
nhiên phải lựa chọn vị trí da không mọc lông. ở người
lớn, có thể xác định được vùng da đã mọc lông, còn ở
trẻ em thì chưa xác định được. Do vậy có thể lấy vào
vùng da bị mọc lông sau này và kết quả sẽ xấu. Hơn
nữa, da tuy không có lông nhưng vẫn có tuyến bã nên
cũng không hoàn toàn là chất liệu tốt. Còn ruột thừa
chuyển vào thay niệu đạo sau thì cũng có nhược điểm
là niêm mạc ruột thừa luôn tiết dịch nên có khả năng
nhiễm khuẩn ngược dòng vào túi tinh và kết quả lâu
dài của kỹ thuật này cũng chưa được đánh giá.
Từ khi chúng tôi bắt đầu mổ chữa lỗ đái lệch thấp
bằng phẫu thuật một thì : khi sử dụng vạt niêm mạc
bao qui đầu hình đảo để tạo hình niệu đạo trước (từ
năm 1984)(1), và dùng vạt niêm mạc bao qui đầu tự do
cũng để tạo hình niệu đạo trước (từ năm 1990)(2),
chúng tôi có suy nghĩ có thể sử dụng 2 loại chất liệu
trên để tạo hình thay thế đoạn niệu đạo sau bị mất vì
cả 2 loại vạt này là niêm mạc, đều sống khi ghép, đều
phát triển một cách bình thường theo sự phát triển
của cơ thể, không mọc lông và không có tuyến bã bên
trong. Kết quả xa của vạt niêm mạc bao qui đầu tự do
để tạo hình niệu đạo đã được đánh giá(2).
Về kích thước của vạt niêm mạc bao qui đầu, nếu
lấy hết chu vi bao qui đầu thì chiều dài của vạt sẽ dài
ít nhất cũng bằng chiều dài của dương vật khi cương,
còn chiều rộng của vạt thì lấy được theo nhu cầu.
Như vậy thì vạt niêm mạc bao qui đầu sẽ luôn đủ để
tạo niệu đạo sau.
Di chuyển vạt niêm mạc bao qui đầu này xuống
vị trí niệu đạo sau như thế nào ?
Với vạt ghép tự do thì đơn giản nhưng với vạt
hình đảo ?
Chúng tôi xin nêu lại : vạt hình đảo là vạt được
lấy tách rời khỏi vị trí nhưng vẫn nối với vị trí ban đầu
bằng cuống mạch nuôi dưỡng.Vạt niêm mạc bao qui
đầu hình đảo có cuống mạch là tổ chức dưới da lưng
dương vật với các mạch máu là 2 động mạch thẹn
ngoài chạy ở 2 bên lưng dương vật từ phía gốc dương
vật tới cho các nhánh tận ở bao qui đầu. Do vậy, khi
phẫu tích cuống mạch, có thể phẫu tích sâu xuống
phía dưới gốc dương vật dưới xương mu thì sẽ tạo
được cuống mạch dài đủ để đưa vạt niêm mạc bao qui
đầu xuống thay đoạn niệu đạo từ cổ bàng quang
xuống. Khi tách khớp mu, việc bộc lộ cổ bàng quang,
niệu đạo sau rõ và việc thay thế niệu đạo sau dễ dàng.
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 352
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
là tốt.Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi để đánh
giá kết quả lâu dài, để đánh giá ưu nhược của
phương pháp này.
Với đường mổ ở tầng sinh môn, có thể đưa vạt
niêm mạc bao qui đầu hình đảo xuống không ?
Chúng tôi thấy có thể được vì khi mổ tạo hình âm vật
bằng vạt niêm mạc qui đầu-bao qui đầu hình đảo kết
hợp một vật hang được cắt ngắn và làm nhỏ lại(4),
chúng tôi đã phẫu tích tới dưới xương mu chỗ 2 vật
hang tách ra chạy về 2 bên thì thấy có thể đưa vạt
niêm mạc bao qui đầu hình đảo qua khoảng giữa 2
vật hang xuống phía tầng sinh môn được.
KẾT LUẬN
Vạt niêm mạc bao qui đầu hình đảo thường được
dùng để tạo hình niệu đạo trước, nên được sử dụng
để tạo hình thay thế niệu đạo sau trong những trường
hợp đứt -hẹp niệu đạo sau mà không thể nối tận tận 2
đầu niệu đạo được. Nên áp dụng đường mổ qua khớp
mu đơn thuần hoặc kết hợp với đường mổ qua tầng
sinh môn.
Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy: với đường mổ ở
tầng sinh môn thì dễ nối ống niệu đạo mới với đầu
niệu đạo hành còn nối với niệu đạo tiền liệt tuyến sẽ
khó vì sâu và khoảng mổ hẹp. Ngược lại với đường mổ
qua khớp mu (5,8) thì nối phía cổ bàng quang dễ
dàng còn miệng nối phía niệu đạo hành khó hơn. Do
vậy có thể kết hợp cả đường mổ tầng sinh môn và
đường qua khớp mu để tận dụng ưu điểm của cả 2
đường mổ này.
Công trình làm tại khoa Phẫu thuật Nhi - Bệnh viện
Việt - Đức
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Trần ngọc Bích: Điều trị dị tật lỗ đái lệch thấp bằng
phẫu thuật một thì. Luận án Phó tiến sỹ Y học.Hà nội
1988.
2- Trần ngọc Bích : Dùng vạt niêm mạc bao qui đầu tự do
trong phẫu thuật một thì chữa dị tật lỗ đái lệch thấp
(kinh nghiệm với 63 bệnh nhân), Ngoại khoa 1996,6
:20-24.
Chúng tôi xin nêu thêm về thể loại vạt hình đảo
lấy từ bao qui đầu.
3- Trần ngọc Bích: Tái tạo cơ quan sinh dục ngoài của nữ
bị hội chứng sinh dục thượng thận. Y học Việt nam,
1999, 4 : 264 - 267.
Vạt hình đảo thường được lấy từ mặt niêm mạc
bao qui đầu, nhưng cũng có thể lấy từ mặt da bao qui
đầu (vạt có cuống mạch theo trục ngang) hoặc lấy từ
da và niêm mạc bao qui đầu (vạt có cuống mạch theo
trục dọc).
4- Aggarwal.-Satish-K; Goel,-Deepak; Gupta,-Chhavi-R et
al.: The use of pedicled appendix graft for substitution
of urethra in recurrent urethral stricture, J- Pediatr-
Surg. 2002 Feb; 37 (2) : 246-250
5- Brueziere-J; Audrry-G; Gruner-M.: Traitement des
ruptures de l'uretre posterieur chez l'enfant ? Interet
de la voie symphysaire. Ann-Urol-
Paris.1997;31(5):309-312.
Theo chúng tôi: vạt niêm mạc bao qui đầu hình
đảo tốt hơn hai loại vạt kia vì vạt chỉ là niêm mạc đơn
thuần, thích hợp với tạo niệu đạo và có cuống mạch
dài nên dễ di chuyển đi xa. Còn hai loại vạt kia, vì có
da nên có tuyến bã bên trong và cuống mạch ngắn
hơn nên chuyển ra vị trí niệu đạo sau có thể khó hơn.
Khi cố phẫu tích lấy nhiều mạch máu cho vạt hình
đảo thì phần niêm mạc bao qui đầu còn lại dễ có
nguy cơ thiếu máu nuôi dưỡng. Do vậy nên dùng vạt
niêm mạc bao qui đầu cho tạo hình niệu đạo sau.
6- Cendron.J.: Exstrophies et autres malformations.
Urologie Pédiatrique. Flammarion Médecine -
Sciences,1985, 190-198
7- Chalouhy-E; Jabbour-M; Armache-K et al.:
Management of posttraumatic posterior urethral
distruption. J-Med-liban. 1997 Dec; 45(4): 201-205.
8- Senocak-ME; Ciftci-AO; Buyukpamukcu-N; Hicsonmez-
A: Transpubic urethroplasty in children: report of 10
cases with review of the literature, J-Pediatr-Surg.
1995 Sep; 30(9): 1319-1324
9- Tzarmas-CD; Raezer-DM; Casbllo-OA.: A unique
fasciocutaneous flap for posterior urethral repair, Urology.
1994. Mar; 43 (3) : 379-381.
Bệnh nhân của chúng tôi đã ra viện với kết quả
sớm và theo dõi sau hơn 21 tháng
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 353
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_xa_cua_tao_nieu_dao_sau_bang_vat_niem_mac_bao_qui_da.pdf