Tài liệu Kết quả theo dõi bệnh nhân xạ trị sau phẫu thuật u tuyến tuyến yên: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 28
KẾT QUẢ THEO DÕI BỆNH NHÂN XẠ TRỊ SAU PHẪU THUẬT
U TUYẾN TUYẾN YÊN
Nguyễn Văn Đô*, Nguyễn Văn Khôi**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá sự kiểm soát u, kiểm soát sự tăng chế tiết hormone, tỷ lệ và thời gian gây nên suy giảm
chức năng tuyến yên sau xạ trị.
Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu hồ sơ của 68 bệnh nhân u tuyến tuyến yên được phẫu thuật và xạ trị
ngoài bằng máy gia tốc tuyến tính tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2003 đến 2007.
Kết quả: Sau thời gian theo dõi 13 năm, tỷ lệ kiểm soát khối u đạt được là 94% đối với u tuyến yên không
chế tiết và 100% cho u tuyến yên chế tiết. Tỷ lệ kiểm soát nội tiết 29 trong số 32 bệnh nhân (90,6%). Theo dõi nội
tiết với 61 bệnh nhân, sau thời gian trung bình 9,43 năm (8,83-12,85 năm). 53 trong số 61 bệnh nhân (87%) cho
thấy có bằng chứng rối loạn nội tiết của tuyến yên sau xạ trị. Trong đó, 51 bệnh nhân (84%) ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 301 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả theo dõi bệnh nhân xạ trị sau phẫu thuật u tuyến tuyến yên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 28
KẾT QUẢ THEO DÕI BỆNH NHÂN XẠ TRỊ SAU PHẪU THUẬT
U TUYẾN TUYẾN YÊN
Nguyễn Văn Đô*, Nguyễn Văn Khôi**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá sự kiểm soát u, kiểm soát sự tăng chế tiết hormone, tỷ lệ và thời gian gây nên suy giảm
chức năng tuyến yên sau xạ trị.
Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu hồ sơ của 68 bệnh nhân u tuyến tuyến yên được phẫu thuật và xạ trị
ngoài bằng máy gia tốc tuyến tính tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2003 đến 2007.
Kết quả: Sau thời gian theo dõi 13 năm, tỷ lệ kiểm soát khối u đạt được là 94% đối với u tuyến yên không
chế tiết và 100% cho u tuyến yên chế tiết. Tỷ lệ kiểm soát nội tiết 29 trong số 32 bệnh nhân (90,6%). Theo dõi nội
tiết với 61 bệnh nhân, sau thời gian trung bình 9,43 năm (8,83-12,85 năm). 53 trong số 61 bệnh nhân (87%) cho
thấy có bằng chứng rối loạn nội tiết của tuyến yên sau xạ trị. Trong đó, 51 bệnh nhân (84%) cần một liệu pháp
điều trị hormone thay thế.
Kết luận: Xạ trị sau phẫu thuật u tuyến tuyến yên có hiệu quả cao trong việc kiểm soát nội tiết và ngăn
ngừa tái phát của u. Tuy nhiên, suy chức năng nội tiết là hậu quả thường thấy và cần phải có một chế độ theo dõi
thích hợp để chẩn đoán sớm, từ đó có chế độ điều trị kịp thời.
Từ khóa: Xạ trị, kiểm soát khối u, kiểm soát nội tiết, điều trị nội tiết thay thế.
ABSTRACT
THE RESULTS OF PATIENTS WITH PITUITARY ADENOMAS AFTER POSTOPERATIVE
RADIATION THERAPY
Nguyen Van Do, Nguyen Van Khoi
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 28 - 33
Purposes: Evaluation of tumor control, normalization of hormonal hypersecretion, including incidence and
time course of pituitary dysfunction after radiotherapy of pituitary adenomas.
Patients and Methods: In a retrospective study, the data of 68 patients with pituitary macroadenomas
treated between 2003 to 2007 at Cho Ray Hospital. All patients had been treated with external-beam radiotherapy
with a mean dose of 50.4 Gy (range 46–54 Gy).
Results: After a follow-up of 13 years the local tumor control rate achieved was 94.0% for non-secreting
adenomas and 100% for secreting adenomas, respectively. Normalization of endocrine hypersecretion was noted
in 29 of 32 patients (90.9%). Detailed endocrinological follow-up data were analyzed in 61 patients. After a
median follow-up of 9.43 years (range 8.83–12.85 years), in 53 of 61 patients (87%) a hypopituitarism was
showed evidence of radiotherapy-induced pituitary disorders. 51 patients (84%) required a hormone replacement
therapy.
Conclusions: Radiotherapy after pituitary surgery is highly effective in reducing hormonal hypersecretion
and preventing recurrences of pituitary adenomas. However, pituitary insufficiencies are commonly observed after
radiotherapy requiring a close follow-up to diagnosis of pituitary dysfunction and an early inception of hormone
* Khoa Hóa xạ trị Bệnh Viện Chợ Rẫy. ** Bệnh Viện Chợ Rẫy.
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Văn Đô ĐT: 0918198099 Email: docrhvn@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 29
replacement therapy.
Keywords: Radiotherapy, tumor control, Endocrine control, hormone replacement therapy.
MỞ ĐẦU
U tuyến tuyến yên là các u có đặc điểm mô
bệnh học lành tính. U tuyến yên có thể gây chèn
ép cấu trúc mô tuyến yên lành, khi u phát triển
lên trên gây chèn ép giao thoa thị, thần kinh thị
làm thu hẹp thị trường, giảm thị lực nhiều hoặc
mù. Ngoài ra, u còn gây nên triệu chứng nhức
đầu và rối loạn chức năng thần kinh, nội tiết, đặc
biệt là tăng chế tiết hormone. Phẫu thuật là mô
thức điều trị được ưu tiên, phẫu thuật cho các u
tuyến yên thường là vi phẫu hoặc phẫu thuật nội
soi lấy u qua đường xương bướm. Tuy nhiên, tỷ
lệ tái phát 5 năm sau phẫu thuật vào khoảng
20%, 10 năm khoảng 40%[8,17]. Xạ trị qui ước
được xem là một phương thức điều trị tốt cho
các u tuyến tuyến yên. Xạ trị bổ túc sau mổ có tỷ
lệ kiểm soát u là khoảng 90% sau 10 năm[8,18].
Như vậy, để đánh giá đầy đủ về kết quả điều trị
đòi hỏi bệnh nhân phải được theo dõi lâu dài,
mục đích nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá
tỷ lệ kiểm soát khối u, kiểm soát tăng chế tiết
hormone và tỷ lệ các tác dụng phụ liên quan đến
xạ trị qui ước sau mổ cho các bệnh nhân u tuyến
tuyến yên. Ngoài ra, chúng tôi còn đánh giá tỷ lệ
mắc và thời gian xảy ra của tình trạng suy giảm
chức năng nội tiết của tuyến yên sau xạ trị.
ĐỐI TƯỢNG -NHỮNG PHƯƠNG PHÁP
Đặc điểm bệnh nhân
68 bệnh nhân u tuyến tuyến yên xạ trị qui
ước tại bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2003 đến
năm 2007.
Độ tuổi trung bình là 42,2 (23-77). Trong tất
cả các bệnh nhân, mức độ xâm lấn của khối u
trước phẫu thuật đã được xác định dựa trên CT
scan hoặc MRI. Tất cả các khối u được phân loại
là macroadenomas tuyến yên khi (>1 cm đường
kính). Chi tiết về mức độ xâm lấn của khối u
trước phẫu thuật nêu trong (Bảng 1) và đặc điểm
về chức năng của u (Bảng 2).
Bảng 1: Đặc điểm xâm lấn của u trước phẫu thuật (n
= 68).
Mức độ xâm lấn của u Số bệnh nhân (%)
U nằm trong hố yên 3 (4,4)
U xâm lấn sang bên 28 (41,2)
U xâm lấn lên trên 12 (17,6)
U xâm lấn lên trên, sang bên 18 (26,5)
U xâm lấn khác 7 (10,3)
Bảng 2: Đặc điểm chức năng của u
Loại nội tiết Số bệnh nhân (%)
Không chế tiết 36 (53%)
Prolactin 12 (17,6%)
GH 11 (16,2%)
ACTH 4 (5,9%)
Tiết nhiều hơn 1 loại hormon 5 (7,3%)
Tất cả các bệnh nhân đều đã được phẫu
thuật trước xạ trị (51 bệnh nhân được mổ qua
đường xương bướm, 10 bệnh nhân được mổ qua
đường mở sọ. 7 bệnh nhân được mổ hơn 2 lần
do u tái phát).
Xạ trị qui ước
CT/ MRI mô phỏng được thực hiện cho tất cả
các bệnh nhân trước khi bắt đầu điều trị xạ trị. 60
bệnh nhân (88%) có bằng chứng của khối u còn
sót lại, 8 bệnh nhân (12%) được điều trị mà
không có bằng chứng rõ ràng của khối u còn lại
nhưng có tăng tiết hormone kéo dài khi đó xạ trị
hỗ trợ dựa trên thể tích khối u trước phẫu thuật.
Xạ trị qui ước với máy xạ trị gia tốc tuyến tính,
năng lượng cao, chúng tôi thiết kế với ba trường
chiếu: hai trường bên và một trường chếch
trước. Tất cả các trường chiếu xạ đều được xạ trị
mỗi ngày, liên tục 5 ngày/ tuần. Tổng liều trung
bình 50,4 Gy (dao động từ 46 đến 54Gy) với
đường đồng liều được chọn là 95%, suất liều
hàng ngày từ 1,8-2 Gy. Tổng số ngày xạ trị từ 23
đến 28 ngày. Chín trong số mười lăm bệnh nhân
có u chế tiết Prolactin và bảy trong số mười ba
bệnh nhân có u chế tiết GH được điều trị kết hợp
với thuốc kháng tiết.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 30
Theo dõi
bệnh nhân được khám và theo dõi tại khoa
Ung bướu bệnh viện Chợ Rẫy bao gồm đánh giá
tổng trạng, chụp CT/ MRI vùng sọ não hàng
năm, đánh giá đáp ứng của u dựa theo tiêu
chuẩn RECIT.
Đánh giá nội tiết
Khám nội tiết được thực hiện cho tất cả các
bệnh nhân.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS
15.0.
KẾT QUẢ
Tỷ lệ kiểm soát u và sống còn toàn bộ bảng 3
Một bệnh nhân tử vong do khối u tiến triển
tại chỗ, 2 bệnh nhân chết không rõ nguyên nhân.
Trong số bốn bệnh nhân còn lại, nguyên nhân tử
vong được xác định như sau: đột quỵ :1 bệnh
nhân; viêm phổi: 1 bệnh nhân; nhồi máu cơ tim:
2 bệnh nhân; viêm phúc mạc do thủng ruột: 1
bệnh nhân. Trong số bệnh nhân có u tuyến yên
không chế tiết có 2 trường hợp bệnh tiến triển tại
thời điểm 5,9, và 6,8 năm (trung bình 6,35 năm)
sau khi xạ trị. Cả hai bệnh nhân cần phẫu thuật
lại. Một bệnh nhân tử vong 6,4 năm sau do khối
u tái phát và gây tăng áp lực nội sọ liên quan đến
khối u. Bệnh nhân còn lại được xạ phẫu thêm
bằng dao Gamma. Trong số các bệnh nhân có u
chế tiết, không có bệnh nhân nào có dấu hiệu
tiến triển của khối u.
Bảng 3: Tỷ lệ kiểm soát khối u và tỷ lệ sống còn.
Bệnh nhân (%) 5 năm theo dõi (%) 10 năm theo dõi (%)
Tỷ lệ sống còn
Sống còn toàn bộ 68 95,6 89,7
Sống còn không bệnh 68 100 100
Tỷ lệ kiểm soát khối u
Toàn bộ 68 100 97,1
U không chế tiết 36 100 94,4
U chế tiết 32 100 100
Bảng 4: Kiểm soát nội tiết ở bệnh nhân u chế tiết (n = 32).
Loại
hormon
Bệnh
nhân
Nồng độ hormon về bình thường
không cần điều trị nội tiết
Nồng độ hormon về bình thường
cần điều trị nội tiết
Nồng độ hormon không trở
về bình thường
Prolactin 15 6 7 2
GH 13 6 6 1
ACTH 4 4
Bảng 5: Đặc điểm chức năng tuyến yên trước và điều trị.
Số BN (%) Suy tuyến yên 1 phần (%) Suy tuyến yên toàn bộ (%) Cần điều trị nội tiết thay thế (%)
Trước mổ 17 (28%) 16 (26%) 1 (1,6%) 4 (6%)
Sau mổ 28 (46%) 26 (43%) 2 (3%) 20 (33%)
Sau xạ trị 53 (57%) 18 (30%) 35 (57%) 52 (85%)
Với u tuyến yên tăng chế tiết
Có 29/ 32 bệnh nhân (90,6%) có nồng độ
hormon trở về mức bình thường (n = 32; GH, n =
13; PL, n = 15; ACTH, n = 4). Sau xạ trị, thời gian
trung bình để nồng độ hormone trở về mức bình
thường và có điều trị bằng thuốc bổ sung là 3,75
năm (95% CI,1,45-8,67 năm). Thời gian trung
bình để nồng độ hormon trở về mức bình
thường nếu không dùng thuốc bổ sung là 9,76
năm với độ tin cậy 95%.
Tác dụng phụ liên quan đến xạ trị
Suy chức năng tuyến yên do xạ trị gây ra ít
nhất với một loại nội tiết tố xảy ra ở 53 trong số
61 bệnh nhân (87%) Bảng 5.
Có hai bệnh nhân (2,9%%) có bằng chứng
biến chứng mạch máu với thời gian trung bình
4,8 năm sau xạ trị. Không có biến chứng gây ra
hoại tử não cũng không có bệnh nhân nào xuất
hiện khối u ác tính liên quan đến xạ trị. Bệnh lý
ác tính không liên quan đến xạ trị được chẩn
đoán: 5 năm bệnh nhân (7,4%), trong đó bao
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 31
gồm ung thư thận (n = 1), ung thư thanh quản (n
= 1), ung thư vòm hầu (n = 1), ung thư tuyến tiền
liệt (n = 1) và ung thư đại tràng (n = 1).
Bảng 6: Thời gian từ xạ trị đến tiến triển suy tuyến yên..
Thời gian phát triển suy tuyến yên
không có HRT (năm)
Thời gian phát triển suy tuyến yên
có HRT (năm)
Trục sinh dục 1,96 4,15
Trục tuyến giáp 4,67 4,87
Trục thượng thận 7,08 7,77
HRT: điều trị thay thế hormone
BÀN LUẬN
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá
hiệu quả của xạ trị qui ước bổ sung sau phẫu
thuật cho bệnh nhân u tuyến tuyến yên. Phân
tích tỷ lệ kiểm soát u, tỷ lệ kiểm soát nội tiết tố,
cũng như tỷ lệ và thời gian suy tuyến yên sau xạ
trị. Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu này
được chẩn đoán macroadenomas tuyến yên,
khoảng 98% trường hợp là u có xâm lấn và lan
tràn ra xung quanh trước khi phẫu thuật cắt bỏ
khối u, và 88% trường hợp có u còn lại tại thời
gian xạ trị. Việc kiểm soát khối u sau 10 năm
theo dõi là 95,2% so sánh với kết quả của tác giả
Grabenbauer, McCord(9) và một số tác giả khác có
tỷ lệ kiểm soát u từ 80% đến 88%(19).
Bệnh nhân u tuyến yên không chế tiết
hormone, tỷ lệ kiểm soát khối u là 94% so sánh
với tác giả Grabenbauer(4) và một số tác giả
khác(5) cho thấy tỷ lệ kiểm soát u thấp hơn 85%
sau 10 năm. Đối với các u tuyến tuyến yên chế
tiết, nhiều nghiên cứu cho thấy kết quả kiểm soát
u rất tốt; một số tác giả khác thì cho rằng xạ trị có
tỷ lệ kiểm soát u thấp(5,16). Ngược lại, theo tác giả
Tsang và cộng sự, xạ trị có hiệu quả cao trong
việc kiểm soát khối u chế tiết(19). Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của chúng tôi. Tuy nhiên, số
lượng bệnh nhân U tuyến chế tiết trong lô
nghiên cứu của chúng tôi khá thấp.
Xạ trị cũng được xem là có hiệu quả trong
việc kiểm soát sự tăng tiết hormone bệnh lý.
Trong nghiên cứu này, kiểm soát được sự tăng
tiết 29 trên 32 bệnh nhân (90,6%). Theo y văn,
bệnh nhân chỉ xạ trị qui ước đơn thuần thì thời
gian để cho nồng độ hormon huyết thanh trở về
mức bình thường là dài hơn trường hợp có bổ
sung thuốc kháng tiết hormone sau xạ trị(1). Đáng
chú ý là thời gian để nồng độ hormon huyết
thanh trở về mức bình thường ngắn hơn nếu
bệnh nhân được điều trị bằng xạ phẫu(3).
Xạ trị cho u tuyến tuyến yên có giá trị trong
kiểm soát u và tình trạng tăng tiết hormone bệnh
lý nhưng có thể có tiềm năng gây ra một số tác
dụng ngoại ý, bao gồm chấn thương hệ thống thị
giác thị thần kinh và giao thoa thị (0,8-8%) mô
não xung quanh (1-2%), thay đổi cấu trúc mạch
máu (2-19,3%), và nguy cơ phát triển khối u ác
tính ở não (1,2 - 2%)(1,9,14,17,18).
Tác dụng phụ ngoại ý được đề cập nhiều
nhất là suy chức năng tuyến yên thứ phát. Suy
tuyến yên do xạ trị là một quá trình diễn ra chậm
chạp, có thể liên quan một hoặc nhiều trục nội
tiết của cơ thể(12). Khi thảo luận về vấn đề suy
tuyến yên suy do xạ trị, thì nên xem xét lại các
trường hợp bệnh nhân có suy tuyến yên trước
khi xạ trị hay không. Ở nghiên cứu của chúng
tôi, tỷ lệ suy tuyến yên trước khi xạ trị là 46%.
Kết quả theo dõi lâu dài và thời gian xuất
hiện của suy tuyến yên sau xạ trị, phân biệt sự
suy giảm chức năng nội tiết của các trục nội tiết
rất hạn chế, các kết quả về tần suất và trình tự
thời gian của sự ảnh hưởng lên các trục nội tiết
thì rất khác nhau giữa các nghiên cứu(7,13,18).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận
trục somatotropic bị ảnh hưởng nhiều nhất, tiếp
theo là chức năng tuyến sinh dục và các chức
năng tuyến giáp, trong khi chức năng tuyến
thượng thận ít bị ảnh hưởng nhất. Rối loạn chức
năng xạ trị liên quan đến ít nhất một trục nội tiết
tố được ghi nhận ở 87% số bệnh nhân. Các trục
tuyến sinh dục là loại đầu tiên bị ảnh hưởng. Suy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 32
giảm chức năng tuyến giáp xảy ra sau thời gian
trung bình 4,67 năm, suy giảm chức năng của
trục thượng thận rõ ràng sau khoảng 7 năm, và
sự bổ sung glucocorticoid là cần thiết 7,7 năm
sau khi xạ trị. Các tài liệu gần đây cho thấy sự
tầm quan trọng của việc đánh giá nội tiết chính
xác và theo dõi dài hạn. Không bổ sung hormone
thay thế kịp thời có thể liên quan với tăng tỷ lệ tử
vong(7).Vì vậy cần có một liệu pháp thay thế
hormone thích hợp cho tình trạng suy giảm nội
tiết ở các bệnh nhân này.
Các kỹ thuật xạ trị như xạ trị ba chiều, xạ trị
phù hợp hình dạng và kích thước u cải thiện
đáng kể sự phân bố liều(2,12). Xạ phẫu bằng máy
gia tốc dựa trên kỹ thuật cố định Stereotactic và
cũng như xạ phẫu bằng dao Gamma đã được
xem như là một lựa chọn điều trị, hiệu quả điều
trị được đánh giá cao hơn(4,11,13,16). Hơn nữa các tác
dụng ngoại ý (ví dụ, suy tuyến yên) của kỹ thuật
xạ phẫu dường như ít hơn các kỹ thuật xạ trị qui
ước mặc dù chưa được chứng minh, vì hầu hết
các dữ liệu theo dõi vẫn còn hạn chế(2,6,10,15).
KẾT LUẬN
Xạ trị sau phẫu thuật có hiệu quả cao trong
việc giảm tiết hormone bệnh lý và kiểm soát sự
tái phát của u tuyến tuyến yên sau phẫu thuật.
Suy tuyến yên, một quá trình diễn tiến chậm có
thể liên quan đến một hoặc nhiều trục nội tiết, là
tác dụng phụ muộn và thường gặp nhất của xạ
trị. Dựa trên kết quả theo dõi nội tiết, chúng tôi
thấy rằng tỷ lệ suy giảm chức năng tuyến yên
chung của lô nghiên cứu các bệnh nhân xạ trị
sau phẫu thuật u tuyến tuyến yên là 87%. Vì vậy,
bệnh nhân sau xạ trị u tuyến tuyến yên nói
chung và những bệnh nhân xạ trị sau phẫu thuật
u tuyến nói riêng cần được theo dõi chặt chẽ, lâu
dài tình trạng nội tiết để đảm bảo chẩn đoán sớm
các rối loạn chức năng tuyến yên và có liệu pháp
thay thế hormone kịp thời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Becker G, Kocher M, Kortmann RD, et al (2002). Radiation
therapy in the multimodal treatment approach of pituitary
adenoma. Strahlenther Onkol 2002; 178:173–86.
2. Colin P, Jovenin N, Delemer B, et al. (2005) Treatment of
pituitary adenomas by fractionated stereotactic
radiotherapy: a prospective study of 110 patients. Int J
Radiat Oncol Biol Phys 2005;62:333–41.
3. Gittoes NJ, Bates AS, Tse W, et al. (1998) Radiotherapy for
non-function pituitary tumours. Clin Endocrinol (Oxf)
1998;48:331–7.
4. Grabenbauer GG, Ernst-Stecken A, Schneider F, et al. (2006)
Radiosurgery of functioning pituitary adenomas:
comparison of different treatment techniques including
dynamic and conformal arcs, shaped beams, and IMRT. Int J
Radiat Oncol Biol Phys 2006;66: (4 Suppl) S33–9.
5. Isobe K, Ohta M, Yasuda S, et al.(2000) Postoperative
radiation therapy for pituitary adenoma. J Neurooncol
2000;48:135–40.
6. Laws ER, Sheehan JP, Sheehan JM, et al. (2004) Stereotactic
radiosurgery for pituitary adenomas: a review of the
literature. J Neurooncol 2004;69:257–72.
7. Lindholm J, Nielsen EH, Bjerre P, et al. (2006)
Hypopituitarism and mortality in pituitary adenoma. Clin
Endocrinol (Oxf) 2006;65:51–8.
8. Marcou Y, Plowman PN. (2000) Stereotactic radiosurgery for
pituitary adenomas. Trends Endocrinol Metab 2000;11:132–7.
9. McCord MW, Buatti JM, Fennell EM, et al. (1997)
Radiotherapy for pituitary adenoma: long-term outcome
and sequelae. Int J Radiat Oncol Biol Phys 1997; 39:437–44.
10. Milker-Zabel S, Debus J, Thilmann C, et al. (2001)
Fractionated stereotactically guided radiotherapy and
radiosurgery in the treatment of functional and
nonfunctional adenomas of the pituitary gland. Int J Radiat
Oncol Biol Phys 2001;50:1279–86.
11. Mingione V, Yen CP, Vance ML, et al. (2006) Gamma
surgery in the treatment of nonsecretory pituitary
macroadenoma. J Neurosurg 2006;104:876–83.
12. Minniti G, Jaffrain-Rea ML, Osti M, et al. (2005) The long-
term efficacy of conventional radiotherapy in patients with
GH-secreting pituitary adenomas. Clin Endocrinol (Oxf)
2005;62:210–6.
13. Minniti G, Traish D, Ashley S, et al. (2006) Fractionated
stereotactic conformal radiotherapy for secreting and
nonsecreting pituitary adenomas. Clin Endocrinol (Oxf)
2006;64:542–8.
14. Minniti G, Traish D, Ashley S, et al. (2005) Risk of second
brain tumor after conservative surgery and radiotherapy for
pituitary adenoma: update after an additional 10 years. J
Clin Endocrinol Metab 2005;90:800–4.
15. Paek SH, Downes MB, Bednarz G, et al. (2005) Integration of
surgery with fractionated stereotactic radiotherapy for
treatment of nonfunctioning pituitary macroadenomas. Int J
Radiat Oncol Biol Phys 2005;61:795–808.
16. Sheehan JP, Kondziolka D, Flickinger J, et al. (2005)
Radiosurgery for nonfunctioning pituitary adenoma.
Neurosurg Focus 2003;14:e9.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 33
17. Trott KR, Kamprad F. (2006) Estimation of cancer risks from
radiotherapy of benign diseases. Strahlenther Onkol
2006;182:431–6.
18. Tsang RW, Brierley JD, Panzarella T, et al. (1996) Role of
radiation therapy in clinical hormonally-active pituitary
adenomas. Radiother Oncol 1996;41:45–53.
19. Yildiz F, Zorlu F, Erbas T, et al.(1999) Radiotherapy in the
management of giant pituitary adenomas. Radiother Oncol
1999;52:233–7.
Ngày nhận bài báo: 15/02/2017
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/02/2017
Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_theo_doi_benh_nhan_xa_tri_sau_phau_thuat_u_tuyen_tuy.pdf