Tài liệu Kết quả sớm của vi phẫu thuật Cox Maze IV bằng sóng tần số radio trên bệnh nhân phẫu thuật van tim qua đường tiếp cân ít xâm lấn: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
65
KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT COX MAZE IV
BẰNG SÓNG TẦN SỐ RADIO TRÊN BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT VAN TIM
QUA ĐƯỜNG TIẾP CẬN ÍT XÂM LẤN
Phạm Trần Việt Chương*, Nguyễn Hoàng Định*, Võ Tuấn Anh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rung nhĩ là chứng loạn nhịp tim phổ biến nhất được chẩn đoán gây ra gánh nặng kinh tế xã
hội cao. Phẫu thuật Cox-Maze IV là phương pháp tiêu chuẩn điều trị rung nhĩ. Phẫu thuật xâm lấn tối thiểu để
điều trị rung nhĩ là một phương pháp điều trị đầy hứa hẹn.
Mục tiêu: nhằm đánh giá tính khả thi, an toàn và kết quả sớm điều trị cắt đốt rung nhĩ đồng thời ở những
bệnh nhân phẫu thuật van tim xâm lấn tối thiểu qua đường tiếp cận ít xâm lấn.
Bệnh nhân và phương pháp: dữ liệu tiền cứu được thu thập từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 5 năm 2019.
Mười tám bệnh nhân liên tiếp trải qua phẫu thuật Cox Maze IV bằng sóng tần số vô tuyến khi phẫu thuật van
tim qua đường tiếp cận ít xâm lấn mở ngực phải nhỏ.
Kết quả: 1...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 28/06/2023 | Lượt xem: 273 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả sớm của vi phẫu thuật Cox Maze IV bằng sóng tần số radio trên bệnh nhân phẫu thuật van tim qua đường tiếp cân ít xâm lấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
65
KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT COX MAZE IV
BẰNG SÓNG TẦN SỐ RADIO TRÊN BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT VAN TIM
QUA ĐƯỜNG TIẾP CẬN ÍT XÂM LẤN
Phạm Trần Việt Chương*, Nguyễn Hoàng Định*, Võ Tuấn Anh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rung nhĩ là chứng loạn nhịp tim phổ biến nhất được chẩn đoán gây ra gánh nặng kinh tế xã
hội cao. Phẫu thuật Cox-Maze IV là phương pháp tiêu chuẩn điều trị rung nhĩ. Phẫu thuật xâm lấn tối thiểu để
điều trị rung nhĩ là một phương pháp điều trị đầy hứa hẹn.
Mục tiêu: nhằm đánh giá tính khả thi, an toàn và kết quả sớm điều trị cắt đốt rung nhĩ đồng thời ở những
bệnh nhân phẫu thuật van tim xâm lấn tối thiểu qua đường tiếp cận ít xâm lấn.
Bệnh nhân và phương pháp: dữ liệu tiền cứu được thu thập từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 5 năm 2019.
Mười tám bệnh nhân liên tiếp trải qua phẫu thuật Cox Maze IV bằng sóng tần số vô tuyến khi phẫu thuật van
tim qua đường tiếp cận ít xâm lấn mở ngực phải nhỏ.
Kết quả: 18 bệnh nhân đều được thực hiện đốt rung nhĩ bằng đầu đốt đơn cực có tưới nước sử dụng
song Radio. Tuổi trung bình là 58,3 ± 9,2 năm, kích thước LA trung bình là 52 ± 13 mm, 83% mắc rung nhĩ
dai dẳng. Tất cả các trường hợp được phẫu thuật thành công bằng đường tiếp mở ngực phải nhỏ, tỉ lệ
chuyển đường mổ toàn bộ xương ức 0%, không có trường hợp nào mắc suy thận, đột quỵ hoặc tử vong
trong 30 ngày từ khi phẫu thuật, thời gian lưu trú trung bình là 7 ngày (5-7,5 ngày). Sau 30 ngày, 78% các
trường hợp được chuyển nhịp xoang.
Kết luận: chúng tôi có thể kết luận rằng điều trị rung nhĩ bằng cách sử dụng đường tiếp cận ít xâm lấn mở
ngực phải nhỏ và sử dụng năng lượng sóng Radio ở bệnh nhân phẫu thuật van tim là khả thi, an toàn và có tính
ứng dụng.
Từ khóa: rung nhĩ, phẫu thuật ít xâm lấn, sóng tần số Radio
ABSTRACT
CONCOMITANT COX MAZE PROCEDURE USING RADIO FREQUENCY IN MINIMALLY
INVASIVE VALVE SURGERY: PRELIMINARY RESULTS
Pham Tran Viet Chuong, Nguyen Hoang Dinh, Vo Tuan Anh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 23 – No. 6 - 2019: 65 – 71
Background: Atrial fibrillation (AF) is the most common arrhythmia diagnosed in humans and therefore
causes a high socioeconomic burden. The Cox-Maze IV procedure is the gold standard treatment for atrial
fibrillation. Minimally invasive surgery for the treatment of AF is also promising.
Objectives: Our aim is to evaluate the feasibility, safety, and immediate plus medium-term results of
concomitant AF ablation therapy in patients undergoing minimally invasive valve surgery through right-sided
minithoracotomy.
Methods: prospective data were collected from January 2018 to May 2019. Eighteen consecutive patients
underwent radiofrequency ablation during valve surgery through a right-sided minithoracotomy.
Results: All 18 patients underwent radiofrequency ablation. Mean age was 58.3 ± 9.2 years, mean LA size
*Bệnh viện Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Phạm Trần Việt Chương ĐT: 0909492929 Email: phvchuong@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
66
was 52 ± 13mm, 83% had long - standing persistent AF. All procedures performed with no conversion to
midsternotomy, no renal failure, strokes, or operative mortality (<30 days), median length of stay was 7 days (5-
7.5 days). At 30 days, 78% were in sinus rhythm after single intervention.
Conclusions: We can conclude that treatment of AF using a right-sided minithoracotomy approach and RF
energy in patients undergoing cardiac surgery for various valve diseases is feasible, safe, and reproducible.
Keywords: atrial fibrillation, minimal invasive surgery, radiofrequency catheter ablation
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rung nhĩ là loạn nhịp tim phổ biến nhất,
làm gia tăng đáng kể bệnh suất và tử suất.
Rung nhĩ là nguyên nhân của 15% tất cả các
trường hợp đột quỵ(7) và làm gia tăng gấp 4 lần
tỷ lệ tử vong(9,22). Theo thống kê tại các quốc
gia phát triển, trên 2 triệu người Mỹ và trên 4
triệu người Châu Âu được chẩn đoán rung
nhĩ(15,29). Theo Tổ chức Y tế thế giới, 0,3% dân
số Việt Nam tương đương gần 300.000 người
Việt Nam mắc rung nhĩ.
Được giới thiệu lần đầu tiên năm 1987 bởi
Bác sĩ Jame Cox và qua hai lần 2 lần hiệu chỉnh
về mặt kỹ thuật, phương pháp Cox-Maze III
được xem là tiêu chuẩn vàng của phẫu thuật
điều trị rung nhĩ; giúp làm giảm có ý nghĩa nguy
cơ thuyên tắc, đột quỵ và các rối loạn về mặt
huyết động. Nguyên tắc chính của phương pháp
này là tạo các đường cắt và khâu phục hồi ở cả
hai tâm nhĩ nhằm định hướng xung điện từ nút
xoang lan tỏa trong hai tâm nhĩ và đến nút nhĩ
thất đồng thời khóa tất cả các vòng vào lại là
nguyên nhân gây rung nhĩ(10,14). Nhược điểm của
phương pháp này là độ phức tạp cao về mặt kỹ
thuật và cần thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể
kéo dài(25). Năm 2002, phương pháp Cox-Maze
IV được phát triển sử dụng năng lượng sóng có
tần số Radio và nhiệt lạnh tạo ra tổn thương
xuyên thành thay thế các đường cắt và khâu
kinh điển giúp rút ngắn thời gian phẫu thuật,
làm giảm mức độ phức tạp về mặt kỹ thuật mà
vẫn duy trì hiệu quả tương đương(15,21).
Cùng với sự phát triển về kỹ thuật và các
nguồn năng lượng sử dụng trong phẫu thuật
điều trị rung nhĩ; và đặc biệt việc ứng dụng
phẫu thuật tim ít xâm lấn đã được chứng minh
làm giảm thời gian thở máy, thời gian hồi sức, và
thời gian nằm viện, giúp bệnh nhân vận động
sớm và hồi phục nhanh, phẫu thuật điều trị rung
nhĩ qua đường tiếp cận ít xâm lấn đã được thực
hiện và bước đầu đã chứng minh được tính an
toàn và hiệu quả(2,19).
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Từ tháng 01/2018, 18 bệnh nhân được thực
hiện phẫu thuật Cox Maze IV để điều trị rung
nhĩ đồng thời với phẫu thuật van tim bằng
đường tiếp cận ít xâm lấn tại Bệnh viện Đại học
Y dược Thành phố Hồ Chí Minh. Dữ liệu được
thu thập tiến cứu, các thời điểm trước phẫu
thuật, ngay sau phẫu thuật, tại thời điểm 3 sau
phẫu thuật. Phẫu thuật điều trị rung nhĩ thành
công được định nghĩa khi bệnh nhân có nhịp
xoang mà không cần phải tiếp tục đốt rung nhĩ
qua đường can thiệp và được kiểm chứng bằng
điện tim thường và Holter 24 giờ. Phẫu thuật
Cox Maze IV được xem như thất bại khi có bất kì
loạn nhịp nhanh nhĩ nào được ghi nhận trong
khoảng thời gian lớn hơn 30 giây.
Nội khoa
Tất cả bệnh nhân nếu không có chống chỉ
định, được sử dụng Amiodarone liều 200 mg hai
lần một ngày trong 5 ngày đầu tiên sau phẫu
thuật, sau đó 200 mg một lần mỗi ngày trong 3
tháng nhằm giảm thiểu khả năng tái phát rối
loạn nhịp nhĩ sớm sau mổ. Tại thời điểm 3 tháng
sau phẫu thuật, nếu bệnh nhân trở về nhịp
xoang, Amiodarone được ngưng sử dụng.
Tất cả bệnh nhân, trừ khi có chống chỉ định
vì nguy cơ chảy máu cao, được sử dụng
Acenocoumarol nhằm duy trì chỉ số INR nằm
trong khoảng 2-2,5. Tại thời điểm 3 tháng sau
phẫu thuật, nếu bệnh nhân có nhịp xoang,
không cần sử dụng thuốc chống loạn nhịp và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
67
siêu âm cho thấy tiểu nhĩ trái đã được loại trừ
hoàn toàn, không có sự ứ trệ dòng máu trong
buồng tim trái, bệnh nhân được ngưng thuốc
kháng đông và duy trì Aspirin.
Ngoại khoa
Rạch da 4-5cm ở đường nách giữa ngực phải
tương ứng khoang liên sườn IV song song với
quầng vú ở nam và dưới nếp vú ở nữ. Vào ngực
qua khoang liên sườn IV, vén cơ và mô dưới da
để bộc lộ khoang ngực.
Camera nội soi được đặt ở khoang liên sườn
VI đường nách sau, đường hút tim trái và đường
bơm khí CO2 được đặt ở khoang liên sườn VII
đường nách giữa.
Chạy tuần hoàn ngoài cơ thể, hạ thân nhiệt
320C. Phổi được làm xẹp. Mở màng tim song
song và phía trên thần kinh hoành 2cm, từ cơ
hoành đến giữa động mạch chủ lên. Khâu treo
màng tim qua vết mổ giúp đẩy phổi và cơ hoành
ra khỏi tầm nhìn.
Di động tĩnh mạch chủ dưới và tĩnh mạch
chủ trên. Khoảng không bên dưới tĩnh mạch chủ
trên, giữa tĩnh mạch phổi trên phải và động
mạch phổi phải, xoang chếch được bộc lộ. Phẫu
tích rãnh Waterson.
Kẹp động mạch chủ được đặt ở liên sườn II
đường nách giữa. Đường truyền liệt tim được
đặt và cố định bằng chỉ túi phía dưới vị trí đặt
kẹp động mạch chủ 2cm, ở mặt bên của động
mạch chủ. Kẹp ngang động mạch chủ, liệt tim
Cutodiol được đẩy thuận dòng qua gốc động
mạch chủ để làm ngưng tim.
Thực hiện đường đốt MAZE bên trái: Nhĩ
trái được vén bằng hệ thống vén đi qua thành
ngực trước ở khoang liên sườn IV, tránh đường
đi của động mạch ngực trong phải. Nhĩ trái
được mở dọc theo rãnh liên nhĩ, phía trên lên
đến trần nhĩ trái, phía dưới vòng theo chân của
tĩnh mạch phổi dưới phải, cách lỗ đổ của tĩnh
mạch phổi ít nhất 1cm. Hệ thống vén giúp bộc lộ
nhĩ trái và van hai lá. Tiểu nhĩ trái được khâu bít
hai lượt bằng chỉ đơn sợi, không tan
Polypropylene 4/O có miếng đệm. Thực hiện
đường đốt xung quanh lỗ đổ các tĩnh mạch phổi
phải và trái bằng đầu đốt đơn cực. Để tăng tỷ lệ
đốt xuyên thành, đầu đốt đơn cực được di
chuyển chậm với tốc độ 1mm/s, với mức năng
lượng 30W. Các đường đốt được lập lại ít nhất 3
lần và đồng thời dời nhẹ đầu đốt để tạo thành
các đường đốt song song cạnh nhau. Tiếp tục sử
dụng đầu đốt đơn cực tạo sang thương hình hộp
bằng cách nối hai đỉnh của hai đường đốt xung
quanh lỗ đổ của các tĩnh mạch phổi phải và trái.
Kế đến đốt nối đường khâu bít tiểu nhĩ trái và
đường đốt quanh lỗ đổ tĩnh mạch phổi trái. Sơ
đồ Cox-Maze IV bên trái được hoàn thành bằng
đường đốt nối từ chân tĩnh mạch phổi dưới trái
đến vị trí 5 giờ của vòng van hai lá tránh động
mạch mũ. Sau khi hoàn thành sơ đồ đốt bên trái,
các phẫu thuật sửa hoặc thay van hai lá nếu có
được thực hiện. Cuối cùng ống hút tim trái được
đặt vào trong thất trái, nhĩ trái được đóng lại
bằng chỉ đơn sợi, không tan Polypropylene có
miếng đệm.
Đốt theo sơ đồ nhĩ phải: mở nhĩ phải theo
đường nối điểm giữa 2/3 trên và 1/3 dưới đường
nối tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch chủ dưới
sát rãnh liên nhĩ đến sát rãnh nhĩ thất phải. Qua
chỗ mở nhĩ phải, đốt từ phía nội tâm mạc và
quan sát sự thay đổi màu sắc từ phía ngoài, dọc
theo thành ngoài nhĩ phải từ 2cm trên chỗ đổ
vào của TMC trên tới vị trí sát lỗ hoành của TMC
dưới. Khi đốt qua TMC trên, chú ý đi sát ra bờ
ngoài và hơi ra phía sau, tránh xa vị trí nút
xoang. Đốt từ tiểu nhĩ phải hướng tới chân TMC
dưới và dừng lại cách đường mở nhĩ phải
khoảng 2cm. Đốt mặt trong dưới quan sát trực
tiếp, từ đầu trên đường mở nhĩ phải (sát rãnh
nhĩ thất phải) tới vòng van 3 lá vị trí commisure
giữa lá trước và lá sau. Đốt từ chân của tiểu nhĩ
phải hướng về đỉnh của đường đốt tĩnh mạch
chủ trên, dừng lại 2cm cách đường này để tránh
tổn thương nút xoang. Hoàn thành sơ đồ nhĩ
phải bằng đường đốt từ chân tiểu nhĩ phải đến
vòng van 3 lá vị trí 11 giờ. Phẫu thuật sửa van ba
lá hay đóng thông liên nhĩ nếu có được thực
hiện. Nhĩ phải được đóng bằng chỉ đơn sợi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
68
không tan Polypropylene 4/O có miếng đệm.
Thả kẹp động mạch chủ, sau khi làm ấm,
bệnh nhân được cai tuần hoàn ngoài cơ thể. Siêu
âm qua thực quản được sử dụng để đánh giá
chức năng tim, chất lượng các sửa chữa trong
tim và bóng khí tồn lưu trong tim.
Bệnh nhân được đặt điện cực tạm thời ở nhĩ
và thất. Ống dẫn lưu màng phổi được đặt qua
chỗ rạch da vào khoang liên sườn VII, ống dẫn
luu màng tim được đặt qua chỗ rạch da vào
khoang liên sườn VI.
Phân tích thống kê
Các số liệu thu thập được sẽ được xử lý theo
các thuật toán thống kê y học bằng phần mềm
SPSS để tính toán các thông số: trung bình,
phương sai, độ lệch chuẩn.
Các kết quả được biểu diễn dưới dạng bảng
hoặc đồ thị thống kê thích hợp: các biến định
lượng kiểu số liên tục được biểu diễn dưới dạng
trung bình ± độ lệch chuẩn, các biến định tính
(phân loại) được biểu diễn dưới dạng tần suất
hoặc %, mức ý nghĩa thống kê được tính ở mức
95%, khoảng tin cậy cũng được tính trong
khoảng 95% (95% CI).
Y Đức
Bài nghiên cứu được chấp thuận bởi Hội
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học của
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh với quyết định
số 1200/QĐ - ĐHYD ngày 04 tháng 05 năm 2017.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân (n=18)
Đặc điểm Mẫu nghiên cứu
Tuổi 58,3 ± 9,2
Nữ 78
BMI 24,1 ± 4,2
EF 57,7 ± 8,8
ĐTĐ II 2 (11,11)
THA 5 (27,77)
Bệnh mạch máu ngoại biên 1 (5,55)
Tai biến mạch máu não 1 (5,55)
Kích thước nhĩ trái 52 ± 13
Rung nhĩ dai dẳng 15 (83)
Đốt rung nhĩ qua da 0 (0)
EuroSCORE II 1,8 ± 0,5
Tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là
58,3 ± 9,2 tuổi, kích thước nhĩ trái trung bình
52 ± 13 cm, trong đó khoảng 1/3 bệnh nhân có
kích thước nhĩ trái lớn hơn 5,5cm. Tình trạng
rung nhĩ dai dẳng được chẩn đoán ở 83% trường
hợp. Nguy cơ phẫu thuật tính theo thang điểm
EuroSCORE là 1,8 ± 0,5%. Tỉ lệ bệnh nhân nữ
chiếm 78% (Bảng 1).
Tính an toàn
Phẫu thuật Cox Maze IV được thực hiện an
toàn ở nhóm bệnh nhân có rung nhĩ đi kèm bệnh
van tim được nghiên cứu. Tất cả bệnh nhân
được chỉ định phẫu thuật do tổn thương van hai
lá, trong đó có 2 trường hợp có tổn thương van 3
lá đi kèm. Đa số bệnh nhân (16 trường hợp
chiếm tỉ lệ 88,89%) được thay van hai lá. Ở
những bệnh nhân này van hai lá và bộ máy dưới
van tổn thương do thấp rất nặng, tất cả các
trường hợp được thay van 2 lá sinh học. Không
có trường hợp nào cần chuyển đường mổ giữa
xương ức. Không ghi nhận biến chứng tử vong,
đột quỵ hay suy thận. Hai trường hợp (11,11%)
có chảy máu cần bổ sung các chế phẩm máu sau
mổ, không có trường hợp nào cần can thiệp lại
do chảy máu. Thời gian nằm hồi sức trung bình
45 giờ (26-65 giờ), thời gian nằm viện trung bình
7 ngày (5-7,5 ngày). Tỉ lệ đặt máy tạo nhịp do rối
loạn chức năng nút xoang là 0%. Không ghi
nhận tình trạng tái thông thương tiểu nhĩ trái ở
bất kì bệnh nhân nào trong nhóm nghiên cứu.
Tính hiệu quả
Tỉ lệ phục hồi nhịp xoang ngay sau phẫu
thuật đạt 45,7% và tại thời điểm 3 tháng sau
phẫu thuật đạt 78%.
Phẫu thuật Cox Maze IV qua đường tiếp cận
ít xâm lấn với sự hỗ trợ của tuần hoàn ngoài cơ
thể có thể được thực hiện với độ an toàn cao,
không có trường hợp nào tử vong liên quan đến
phẫu thuật trong vòng 30 ngày hậu phẫu. Điều
trị rung nhĩ trên bệnh nhân phẫu thuật van tim
có thể được thực hiện hoàn toàn bằng đường
tiếp cận ít xâm lấn mà không cần phải chuyển
hướng tiếp cận, tỉ lệ cần chuyển sang đường mổ
giữa xương ức trong nhóm nghiên cứu là 0%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
69
Được thực hiện bằng phương pháp ít xâm lấn
giúp rút ngắn thời gian hồi sức, và thời gian nằm
viện, đa số bệnh nhân xuất viện trong khoảng 5-
7 ngày sau phẫu thuật. Các biến chứng chu phẫu
như đột quỵ, suy thận, hay chảy máu cần phải
can thiệp lại không được ghi nhận. Ghi nhận tỉ lệ
phục hồi nhịp xoang tại thời điểm 3 tháng sau
phẫu thuật đạt 78%. Những trường hợp này đều
được khảo sát siêu âm tim thực quản để đánh
giá huyết khối và tình trạng ứ trệ dòng máu
trong tim trái, không có sự tạo lập huyết khối
mới nào được phát hiện.
BÀN LUẬN
Nguyên nhân vì sao rung nhĩ là yếu tố nguy
cơ của tử vong ở bệnh nhân phẫu thuật tim vẫn
chưa được hiểu biết rõ ràng. Tuy nhiên, nhóm
bệnh nhân phẫu thuật tim mắc rung nhĩ trước
phẫu thuật có bệnh suất sau mổ cao hơn có ý
nghĩa thống kê, làm ảnh hưởng đến kết quả
phẫu thuật(19,23,24). Mặc dù hiệu quả của phẫu
thuật điều trị rung nhĩ đồng thời với phẫu thuật
van tim chưa đạt được sự đồng thuận về khả
năng cải thiện tỉ lệ sống còn sau phẫu thuật(4,8),
nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng tỉ lệ tái
lập nhịp xoang sau phẫu thuật tim là rất thấp (5-
33%)(1). Do đó, phẫu thuật điều trị rung nhĩ nên
được cân nhắc thực hiện cùng lúc với các phẫu
thuật khác trong tim.
Phẫu thuật tim ít xâm lấn hiện nay là
phương pháp tiêu chuẩn của nhiều trung tâm
trong điều trị bệnh lí van tim. Một phân tích hệ
thống được công bố gần đây cho thấy điều trị
rung nhĩ qua đường tiếp cận ít xâm lấn đạt hiệu
quả không thấp hơn so với tiếp cận mở xương
ức(11). Nhiều tác giả(5,16) cho thấy kết quả đáng
khích lệ cả về bệnh suất, tử suất và tỉ lệ phục hồi
nhịp xoang ở theo dõi ngắn hạn và trung hạn.
Điều trị rung nhĩ ở bệnh nhân mắc rung nhĩ
dai dẳng và rung nhĩ dai dẳng còn nhiều thử
thách(27,26,28). Phẫu thuật Cox Maze đã được phát
triển, nghiên cứu và chứng minh hiệu quả đối
với tất cả bệnh nhân mắc rung nhĩ. Phẫu thuật
Maze kinh điển không được ứng dụng rộng rãi
do thời gian mổ kéo dài, và cần mở toàn bộ
xương ức mà không thể thực hiện bằng tiếp cận
ít xâm lấn với ưu điểm giúp bệnh nhân hồi phục
sớm(10). Những giới hạn nêu trên dẫn đến sự
phát triển các thiết bị đốt rung nhĩ có thể sử
dụng trong phẫu thuật ít xâm lấn(12,30).
Đa số các nghiên cứu đốt rung nhĩ qua ống
thông hay phẫu thuật trên tim còn đập được
thực hiện trên dân số bệnh nhân rung nhĩ kịch
phát và có thời gian theo dõi ngắn hạn(6,18). Nhiều
nghiên cứu từ các trung tâm lớn cho thấy đốt
rung nhĩ qua ống thông cho kết quả không như
mong đợi ở nhóm bệnh nhân có biến đổi cơ chất
tâm nhĩ phức tạp. Một vấn đề được đặt ra là
phẫu thuật đốt rung nhĩ tim đập có (hybrid) hay
không kèm theo đốt rung nhĩ qua ống thông có
ưu thê hơn phẫu thuật Cox Maze IV được thực
hiện qua đường tiếp cận ít xâm lấn và có sự hỗ
trợ của tuần hoàn ngoài cơ thể về độ an toàn và
hiệu quả ở nhóm bệnh nhân rung nhĩ dai dẳng
hay không(2). Một số phân tích hệ thống cho thấy
phẫu thuật đốt rung nhĩ tim đập không thực sự
an toàn hơn phẫu thuật Cox Maze IV ít xâm
lấn(2). Một nghiên cứu đối đầu cho thấy đốt rung
nhĩ qua ống thông ít an toàn và hiệu quả hơn khi
so sánh(13).
Đa số bệnh nhân (83%) trong nhóm nghiên
cứu mắc rung nhĩ dai dẳng, kích thước nhĩ trái
trung bình khá lớn 52mm là những yếu tố liên
quan trực tiếp đến khả năng thất bại của phẫu
thuật đốt rung nhĩ. Nhiều nghiên cứu bao gồm
đốt rung nhĩ qua ống thông và cả phẫu thuật
nhấn mạnh thời gian mắc rung nhĩ trước phẫu
thuật là yếu tố quan trọng dẫn đến tái cấu trúc
cơ nhĩ, ảnh hưởng đến hiệu quả chuyển nhịp
xoang và làm gia tăng tỉ lệ tái phát rung nhĩ(2,17,25).
Trong nhóm nghiên cứu, phẫu thuật Cox Maze
IV đã được thực hiện an toàn, không có bệnh
nhân nào tử vong sau 30 ngày theo dõi, tỉ lệ
phục hồi nhịp xoang đạt 78% các trường hợp.
Các biến chứng đột quỵ, suy thận không xuất
hiện, thời gian nằm viện ngắn trung bình 7 ngày
sau phẫu thuật. Kết quả như trên nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc phát hiện và tiến hành
điều trị sớm rung nhĩ bằng phẫu thuật Cox
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
70
Maze IV, đặc biệt ở nhóm bệnh nhân có bệnh lí
van tim cần phải phẫu thuật khi phẫu thuật Cox
Maze IV được thực hiện đồng thời không làm
ảnh hưởng đến tính an toàn và các biến chứng
liên quan đến phẫu thuật.
Tuy nhiên, kết quả được trình bày trong
bài báo này là những phân tích đầu tiên khi
phẫu thuật Cox Maze IV được thực hiện qua
đường tiếp cận ít xâm lấn ở những bệnh nhân
phẫu thuật van tim mắc rung nhĩ, tại một
trung tâm thực hành y khoa nơi phẫu thuật ít
xâm lấn được thực hiện thường quy. Dân số
nghiên cứu còn giới hạn và thời gian theo dõi
chưa đủ dài. Một nghiên cứu lớn hơn với dân
số nghiên cứu lớn hơn, thời gian theo dõi dài
hơn cần được thực hiện.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật Cox Maze IV điều trị rung nhĩ
trên bệnh nhân phẫu thuật van tim qua đường
tiếp cận ít xâm lấn bước đầu chứng minh được
tính an toàn, tỉ lệ phục hồi nhịp xoang đáng
khích lệ. Tỉ lệ tử vong và bệnh suất không khác
biệt dân số chung và tương đương những
nghiên cứu quan trọng đã được nêu trong y văn.
Phẫu thuật Cox Maze IV được thực hiện cùng
lúc với phẫu thuật trên van tim không làm tăng
nguy cơ khi thực hiện qua đường tiếp cận ít xâm
lấn. Đầu đốt đơn cực có tưới nước sử dụng sóng
Radio được ứng dụng với độ an toàn và hiệu
quả khá tốt. Tuy nhiên một nghiên cứu dài hơn
cần được tiếp tục nhằm theo dõi khả năng duy
trì nhịp xoang và các biến chứng liên quan đến
phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abreu Filho CA, Lisboa LA, Dallan LA, Spina GS, Grinberg M,
Scanavacca M, et al (2005). Effectiveness of the maze procedure
us-ing cooled-tip radiofrequency ablation in patients with
permanent atrial fibrillation and rheumatic mitral valve disease.
Circulation, 112(9S):I20–5.
2. Ad N, Holmes SD (2014). Prediction of sinus rhythm in patients
undergoing con-comitant Cox maze procedure through a
median sternotomy. J Thorac Cardiovasc Surg, 148:881-886;
discussion 886.
3. Asmundis C, Chierchia GB, Mugnai G, Van Loo I, Nijs J, Czapla
J, Conte G, Velagic V, Rodrigues Mañero M, Ciconte G, Ströker
E, Umbrain V, Poelaert J, Brugada P, La Meir M (2017). Midterm
clinical outcomes of concomitant thoracoscopic epicardial and
transcatheter endocardial ablation for persistent and long-
standing persistent atrial fbrillation: a single-centre experience.
Europace, 19:58-65.
4. Bando K, Kobayashi J, Kosakai Y, Hirata M, Sasako Y, Nakatani
S, et al (2002). Impact of Cox maze procedure on outcome in
patients with atrial fibrillation and mitral valve disease. J Thorac
Cardiovasc Surg, 124(3):575–83.
5. Bevilacqua S, Gasbarri T, Cerillo AG, Mariani M, Murzi M,
Nannini T, et al (2009). A new vacuum-assisted probe for
minimally invasive ra-diofrequency ablation. Ann Thorac Surg,
88(4):1317-21.
6. Boersma LV, Castella M, van Boven W, Berruezo A, Yilmaz A,
Nadal M, Sandoval E, Calvo N, Brugada J, Kelder J, Wijffels M,
Mont L (2012). Atrial fibrilla-tion catheter ablation versus
surgical ablation treatment (FAST): a 2-center randomized
clinical trial. Circulation, 125:23-30.
7. Callans DJ (2008). In the clinic. Atrial fibrillation. Ann Intern
Med, 149 ITC5-1-15; quiz ITC5-16.
8. Chaput M, Bouchard D, Demers P, Perrault LP, Cartier R,
Carrier M, et al (2005). Conversion to sinus rhythm does not
improve long-term survival after valve surgery: insights from a
20-year follow-up study. Eur J Cardiothorac Surg, 28(2):206-10.
9. Chen LY, Benditt DG, Alonso A (2014). Atrial fibrillation and its
association with sudden cardiac death. Circ J, 78(11):2588-2593.
10. Cox JL, Ad N, Palazzo T (1999). Impact of the maze procedure
on the stroke rate in patients with atrial fbrillation. J Thorac
Cardiovasc Surg, 118:833-40.
11. De Cecco CN, Buffa V, David V, Fedeli S (2010). Novel
approaches for the surgical treatment of atrial fibrillation: time
for a guideline revi-sion? Vasc Health Risk Manag, 6:439-47.
12. Doll N, Fabricius AM, Meyer R, Walther T, Rastan A, Mohr FW
(2005). Surgical treatment of atrial fibrillation with argon-based
cryotechnology. Future Cardiol, 1:381-391.
13. Edgerton Z, Perini AP, Horton R, Trivedi C, Santangeli P, Bai R,
Gianni C, Mohanty S, Burkhardt JD, Gallinghouse GJ, Sanchez
JE, Bailey S, Lane M, DI Biase L, Santoro F, Price J, Natale A
(2016). Hybrid procedure (endo/epi-cardial) versus standard
manual ablation in patients undergoing ablation of
longstanding persistent atrial fibrillation: results from a single
center. J Cardiovasc Electrophysiol, 27:524-530.
14. Feinberg MS, Waggoner AD, Kater KM, et al (1994). Restoration
of atrial function after the maze procedure for patients with
atrial fbrillation. Assessment by Doppler echocardiography.
Circulation, 90:II285-92.
15. Fuster V, Ryden LE, Cannom DS, et al (2006). ACC/AHA/ESC
2006 guidelines for the management of patients with atrial
fibrillation. Europace, 8:651-745.
16. Gillinov AM, Svensson LG (2007). Ablation of atrial fibrillation
with min-imally invasive mitral surgery. Ann Thorac Surg,
84(3):1041-2.
17. Je HG, Shuman DJ, Ad N (2015). A systematic review of
minimally invasive surgi-cal treatment for atrial fibrillation: a
comparison of the Cox-Maze pro-cedure, beating-heart
epicardial ablation, and the hybrid procedure on safety and
efficacy. Eur J Cardiothorac Surg, 48:531–540; discussion 540.
18. La Meir M, Gelsomino S, Lucà F, Pison L, Parise O, Colella A,
Gensini GF, Crijns H, Wellens F, Maessen JG (2013). Minimally
invasive surgical treatment of lone atrial fibrillation: early results
of hybrid versus standard mini-mally invasive approach
employing radiofrequency sources. Int J Cardiol, 167:1469-1475.
19. Lawrance CP, Henn MC, Miller JR, Sinn LA, Schuessler RB,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
71
Maniar HS, Damiano RJ (2014). A minimally invasive Cox maze
IV procedure is as effective as sternotomy while decreasing
major morbidity and hospital stay. J Thorac Cardiovasc Surg,
148:955-961; discussion 962.
20. Lim E, Barlow CW, Hosseinpour AR, Wisbey C, Wilson K,
Pidgeon W, et al (2001). Influence of atrial fibrillation on
outcome following mitral valve repair. Circulation, 104(12Suppl
1):I59-63.
21. Melby SJ, Gaynor SL, Lubahn JG, et al (2006). Efficacy and safety
of right and left atrial ablations on the beating heart with
irrigated bipolar radiofrequency energy: a long-term animal
study. J Thorac Cardiovasc Surg, 132:853-860.
22. Miyasaka Y, et al (2007). Mortality trends in patients diagnosed
with first atrial fibrillation: a 21-year community-based study. J
Am Coll Cardiol, 49(9):986-992.
23. Ngaage DL, Schaff HV, Barnes SA, Sundt TM, Mullany CJ,
Dearani JA, et al (2006). Prognostic implications of preoperative
atrial fibrilla-tion in patients undergoing aortic valve
replacement: is there an argument for concomitant arrhythmia
surgery? Ann Thorac Surg, 82(4):1392-9.
24. Ngaage DL, Schaff HV, Mullany CJ, Sundt TM, Dearani JA,
Barnes S, et al (2007). Does preoperative atrial fibrillation
influence early and late outcomes of coronary artery bypass
grafting? J Thorac Cardiovasc Surg, 133(1):182-9.
25. Prasad SM, Maniar HS, Camillo CJ, et al (2003). The Cox maze
III procedure for atrial fbrillation: long-term effcacy in patients
undergoing lone versus concomitant procedures. J Thorac
Cardiovasc Surg, 126:1822-8.
26. Scherr D, Khairy P, Miyazaki S, Aurillac-Lavignolle V, Pascale
P, Wilton SB, Ramoul K, Komatsu Y, Roten L, Jadidi A, Linton
N, Pedersen M, Daly M, O’Neill M, Knecht S, Weerasooriya R,
Rostock T, Manninger M, Cochet H, Shah AJ, Yeim S, Denis A,
Derval N, Hocini M, Sacher F, Hais-saguerre M, Jais P (2015).
Five-year outcome of catheter ablation of persistent atrial
fibrillation using termination of atrial fibrillation as a procedural
endpoint. Circ Arrhythm Electrophysiol, 8:18-24.
27. Schreiber D, Rostock T, Fröhlich M, Sultan A, Servatius H,
Hoffmann BA, Lüker J, Berner I, Schäffer B, Wegscheider K,
Lezius S, Willems S, Steven D (2015). Five-year follow-up after
catheter ablation of persistent atrial fibrillation using the
stepwise approach and prognostic factors for suc-cess. Circ
Arrhythm Electrophysiol, 8:308-317.
28. Tilz RR, Rillig A, Thum AM, Arya A, Wohlmuth P, Metzner A,
Mathew S, Yoshiga Y, Wissner E, Kuck KH, Ouyang F (2012).
Catheter ablation of long-standing persistent atrial fibrillation: 5-
year outcomes of the Hamburg Sequential Ablation Strategy. J
Am Coll Cardiol, 60:1921-1929.
29. Valderrama AL, Dunbar SB, Mensah GA (2005). Atrial
fibrillation: public health implications. Am J Prevent Med, 29:75-
80.
30. Viola N, Williams MR, Oz MC, Ad N (2002). The technology in
use for the surgical ablation of atrial fibrillation. Semin Thorac
Cardiovasc Surg, 14:198-205.
Ngày nhận bài báo: 10/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 05/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_som_cua_vi_phau_thuat_cox_maze_iv_bang_song_tan_so_r.pdf