Tài liệu Kết quả sớm của phẫu thuật cắt gan theo cuống bao glisson: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 205
KẾT QUẢ SỚM CỦA PHẪU THUẬT CẮT GAN
THEO CUỐNG BAO GLISSON
Đỗ Bá Hùng*, Võ Văn Hùng*, Nguyễn Cao Cương*, Lê Hữu Phước*, Ngô Viết Thi*, Võ Thiện Lai*,
Nguyễn Đức Tuấn Anh*
TÓM TẮT
Mở đầu: Hiện nay, ung thư gan còn phổ biến ở chân Á trong đó có Việt Nam. Phẫu thuật cắt bỏ phần gan
chứa u được xem là phương pháp điều trị triệt để, an toàn và hạn chế tái phát. Mục tiêu nghiên cứu đánh giá kết
quả sớm kỹ thuật cắt gan theo cuống bao Glisson.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu mô tả 30 TH u gan được cắt gan theo kỹ thuật tiếp cận
cuống bao Glisson trong thời gian từ 06/2016 đến 09/2017 tại bệnh viện Bình Dân.
Kết quả: Tổng cộng 30 trường hợp cắt gan theo cuống bao Glisson. Độ tuổi trung bình 58,9 tuổi, giới nam
chiếm 80%, nữ 20%. Tỉ lệ viêm gan B và C 94,6%. Kích thước u trung bình 76 mm. Thời gian mổ trung bình
154,09 phút đối với mổ mở...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả sớm của phẫu thuật cắt gan theo cuống bao glisson, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 205
KẾT QUẢ SỚM CỦA PHẪU THUẬT CẮT GAN
THEO CUỐNG BAO GLISSON
Đỗ Bá Hùng*, Võ Văn Hùng*, Nguyễn Cao Cương*, Lê Hữu Phước*, Ngô Viết Thi*, Võ Thiện Lai*,
Nguyễn Đức Tuấn Anh*
TÓM TẮT
Mở đầu: Hiện nay, ung thư gan còn phổ biến ở chân Á trong đó có Việt Nam. Phẫu thuật cắt bỏ phần gan
chứa u được xem là phương pháp điều trị triệt để, an toàn và hạn chế tái phát. Mục tiêu nghiên cứu đánh giá kết
quả sớm kỹ thuật cắt gan theo cuống bao Glisson.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu mô tả 30 TH u gan được cắt gan theo kỹ thuật tiếp cận
cuống bao Glisson trong thời gian từ 06/2016 đến 09/2017 tại bệnh viện Bình Dân.
Kết quả: Tổng cộng 30 trường hợp cắt gan theo cuống bao Glisson. Độ tuổi trung bình 58,9 tuổi, giới nam
chiếm 80%, nữ 20%. Tỉ lệ viêm gan B và C 94,6%. Kích thước u trung bình 76 mm. Thời gian mổ trung bình
154,09 phút đối với mổ mở, thời gian mổ trung bình của phẫu thuật nội soi 150 phút. Lượng máu mất trung bình
556,8ml, tỷ lệ truyền máu trong mổ chiếm 40,9%. Thời gian nằm viện trung bình 11,19 ngày. Tỉ lệ biến chứng
10%, 1 trường hợp suy gan (3,3%), 1 trường hợp chảy máu sau mổ (3,3%), 1 trường hợp tụ dịch (3,3%), cả 3
TH được điều trị bảo tồn. Không có tử vong.
Kết luận: Phẫu thuật cắt gan theo cuống bao Glisson là phương pháp phẫu thuật an toàn, triệt để, hạn chế
tái phát, bước đầu cho thấy cải thiện tiên lượng sống cho người bệnh.
Từ khóa: cắt gan, cuống bao Glisson
ABSTRACT
THE EARLY RESULTS OF HEPATECTOMY USING GLISSONEAN PEDICLE APPROACH
Do Ba Hung, Vo Van Hung, Nguyen Cao Cuong, Le Huu Phuoc,
Ngo Viet Thi, Vo Thien Lai, Nguyen Duc Tuan Anh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 205 - 210
Background: liver cancer is common in Asia, including Vietnam. Liver resection is considered as a method
of radical treatment, safe and low recurrence. The objective of this study was to evaluate the early results of the
liver resection using glissonean pedicle approach.
Methods: prospective study of 30 cases underwent liver resection using glissonean pedicle approach for liver
tumour from 06/2016 to 09/2017 at Binh Dan Hospital.
Results: A total of 30 cases. The average age is 58.9, 6 female, 24 male. The rate of hepatitis B and C 94.6%.
Mean dimension of tumour was 76 mm. The mean operative time was 154.09 minutes for open surgery, and 150
minutes for laparoscopic surgery. The mean blood loss was 556.8 ml, blood transfusions rate in operating 40.9%.
Average time of hospital stay was 11.19 days. Complication rate was 10%, 1 liver failure (3.3%), 1 postoperative
bleeding (3.3%), 1 liquid collection (3.3%), and treated conservatively. No deaths.
Conclusion: liver resection using glissonean pedicle approach is a safe, radical, low recurrence method, could
improve survival of patients.
* Bệnh viện Bình Dân.
Tác giả liên lạc: TS. BS. Võ Văn Hùng ĐT: 0903851378, Email: vovanhungbvbd@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 206
Keywords: hepatectomy, liver resection, glissonean pedicle
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cho đến hiện nay, mổ cắt gan vẫn là một
phẫu thuật lớn với nguy cơ tử vong lên đến
5%, chủ yếu liên quan đến suy gan sau mổ và
mất máu. Các kỹ thuật cắt gan theo giải phẫu
được công nhận là Honjo, sau đó là Lortat-
Jacob và Robert, các tác giả thực hiện cắt gan
sau khi phẫu tích riêng rẽ ba thành phần ở rốn
gan: động mạch gan, tĩnh mạch cửa và đường
mật. Các kỹ thuật khác như của Lin và cộng
sự, Tôn Thất Tùng và Nguyễn Dương Quang
thực hiện xẻ nhu mô gan, sau đó tiếp cận và
cột các cuống mạch(5).
Glisson và Couinaud nhận thấy rằng bộ ba
cửa được bao quanh bởi một màng xơ, là cơ sở
để Couinaud đề nghị kiểm soát cuống Glisson
thay cho việc kiểm soát mạch máu vào gan. Năm
1986, Takasaki(4) mô tả kỹ thuật thắt cuống
Glisson ở rốn gan, giúp cắt gan đúng giải phẫu,
an toàn và hiệu quả. Kỹ thuật đã được áp dụng
rộng rãi tại nhiều nơi trên thế giới. Tiếp cận
cuống Glisson trong gan ngã trước, cuống gan
được kẹp nhưng không phẫu tích, phẫu thuật
viên tiếp cận cuống Glisson bắt đầu từ các rãnh
trên bề mặt gan và tĩnh mạch gan. Cuống gan
được cắt sau khi cắt nhu mô gan. Tiếp cận cuống
Glisson ngã sau (Takasaki 1986), giúp xác định
chính xác ranh giới giữa các phân thùy, hạn chế
thiếu máu phần gan để lại và tránh phát tán tế
bào ung thư sang các phân thùy gan kế cận trong
khi mổ(7).
Hiện nay, cắt gan theo Takasaki là cắt gan
phân thùy hay hạ phân thùy, được dựa trên
những hiểu biết về sự phân bố các cuống Glisson
được đánh giá là an toàn, hiệu quả. Nhưng kỹ
thuật này vẫn có nguy cơ tai biến biến chứng với
tỷ lệ khá cao như chảy máu khi bóc tách cuống
Glisson, rò mật sau mổ và gặp khó khăn khi có
bất thường về giải phẫu.
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh
giá kết quả của kỹ thuật cắt gan theo phương
pháp Takasaki. Nghiên cứu được tiến hành tại
bệnh viện Bình Dân từ 2016 đến năm 2017, các
bệnh nhân được phẫu thuật cắt bỏ phần gan
bệnh lý theo phương pháp tiếp cận cuống
Glisson. Nghiên cứu nhằm chứng minh đây là
phương pháp điều trị triệt để, an toàn, hạn chế
các tai biến, biến chứng và giảm di căn.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Các bệnh nhân được cắt gan theo phương
pháp Takasaki trong gan ngã sau, trong khoảng
thời gian từ 06/2016 đến 09/2017 tại Khoa Ngoại
Gan mật bệnh viện Bình Dân. Bệnh nhân ung
thư gan còn chỉ định phẫu thuật: dựa vào chụp
cắt lớp điện toán hoặc chụp cộng hưởng từ, chức
năng gan còn tốt.
Tiêu chuẩn loại trừ
Có nguy cơ phẫu thuật cao: ASA > 3.
Bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật.
Gan còn lại không đủ đảm bảo chức năng
gan, xơ gan Child C.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả tiền cứu, hàng loạt
trường hợp.
Phương pháp nghiên cứu lâm sàng và cận lâm
sàng
Đặc điểm chung, các đặc điểm lâm sàng, cận
lâm sàng đánh giá tình trạng tắc mật, chức năng
gan thận, tim mạch, hô hấp, nội tiết, thể trạng
dinh dưỡng, huyết họcĐánh giá chức năng
gan dựa vào phân độ Child. Đặc điểm u, vị trí
kích thước, thể tích gan còn lại.
Trang thiết bị, dụng cụ
Bộ dụng cụ đại phẫu, có các kẹp mạch máu,
siêu âm trong khi mổ, dao Harmonic, Ligasure,
X quang đường mật trong khi mổ (khi có giải
phẫu bất thường).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 207
Kỹ thuật
Đánh giá tình trạng di căn ổ bụng và các cơ
quan trong ổ bụng: Đánh giá tình trạng di căn,
phúc mạc, các hạch vùng đầu tụy, rốn gan...
Đánh giá khả năng cắt được bướu rất quan trọng
có thể kết hợp siêu âm trong khi mổ.
Di động gan.
Cắt túi mật trong trường hợp cần bộc lộ các
cuống Glisson bên P.
Bên dưới giường túi mật là cuống thùy giữa.
Tách rốn gan khỏi nhu mô gan sẽ bộc lộ
được cuống gan phải và cuống gan trái.
Kẹp cuống sẽ giúp xác định vùng gan tím
cần cắt bỏ.
Thắt cuống Glisson hạ phân thùy trong
trường hợp cắt riêng hạ phân thùy.
Cắt nhu mô gan bằng đốt điện đơn cực
hay dao siêu âm. Chừa lại phần tĩnh mạch gan
dẫn lưu hạ phân thùy tương ứng. Kiểm tra và
cột lại cuống Glisson hạ phân thùy, phân thùy
được cắt.
Hình 1. Bộc lộ cuống Glisson phân thùy trước và sau(9)
Bệnh nhân được thời gian hậu phẫu, sau khi
xuất viện tại phòng khám ngoại trú, với SGOT,
SGPT, Bilirubin, Albumin, siêu âm bụng hay CT
bụng sau mổ. Tử vong sau phẫu thuật được định
nghĩa là tử vong xảy ra trong vòng 30 ngày sau
khi phẫu thuật. Các tai biến biến chứng sau mổ
gồm chảy máu sau mổ phải mổ lại, rò mật hoặc
áp xe quanh gan. Rò mật được định nghĩa là khi
Bilirubin trong dịch dẫn lưu cao gấp 2 lần so với
Bilirubin huyết tương.
KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu chúng tôi thực
hiện 30 trường hợp phẫu thuật cắt gan theo giải
phẫu bằng phương pháp phẫu tích theo cuống
Glisson. Trong đó có 2 TH phẫu thuật nội soi cắt
phân thùy bên của gan T.
Độ tuổi trung bình 58,9, trẻ nhất 25 tuổi, cao
nhất 76 tuổi.
Giới nam chiếm 80%, nữ 20% (24/6 TH).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 208
Viêm gan kèm theo: Viêm gan B 81%, viêm
gan C 4,5%, viêm gan B và C 9,1%. Nói chung tỉ
lệ viêm gan chiếm 94,6% trường hợp.
Marker ung thư (AFP, PIVKA II) tăng trong
40,9% trường hợp ung thư tế bào gan (25 TH), có
2 TH u kết quả giải phẫu bệnh lý lành tính.
Bảng 1. Chỉ định cắt gan.
Tổn thương Số TH Tỉ lệ (%)
Ung thư tế bào gan 27 81
Ung thư gan thứ phát 1 6,6
U lành tính 2 3,3
Tổng cộng 30 100
Trong 30 TH u gan, có 2 Th u gan lành tính, 1
TH u HPT I (u có kích thước to 90x90x50 mm,
được cắt HPT I), 1 TH u HPT II, III, IV (cắt gan
T). Trường hợp u gan thứ phát: bênh nhân ung
thư trực tràng đã được thực hiện phẫu thuật
Miles trước đây 2 năm, u thứ phát tại HPT 3,
kích thước 40x45x46 mm.
Kích thước u trung bình 76 mm tính theo
đường kính lớn nhất.
Thời gian mổ trung bình 154,09 phút (90 –
210 phút) đối với mổ mở, thời gian mổ trung
bình của phẫu thuật nội soi 150 phút (120 –
180 phút).
Lượng máu mất trung bình 556,8ml (200 –
1600 ml), tỷ lệ truyền máu trong mổ
chiếm 40,9%.
Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình
11,18 ngày.
Biến chứng rò mật 1 TH, suy gan có 1 TH, tụ
dịch có 1 TH, tất cả trường hợp được điều trị nội
khoa bảo tồn, không có trường hợp nào cần mổ
lại. Không có tử vong. Tỉ lệ biến chúng chung
10% (3/30 TH) (Bảng 2).
Bảng 2. Vị trí u.
Vị trí PP mổ Số TH Tỉ lệ (%)
HPT I Cắt HPT I 1 3,3
HPT II, III Cắt thùy bên 5 16,7
HPT II,III,IV Cắt gan T 4 13,3
HPT IV Cắt HPT IV 2 6,6
HPT V Cắt HPT V 5 16,7
HPT V,VIII Cắt phân thùy trước 5 16,7
HPT VI Cắt HPT VI 2 6,6
HPT VI,VII Cắt phân thùy sau 1 3,3
HPT V,VI,VII,VIII Cắt gan P 5 16,7
Tổng cộng 30 100
Bảng 3. Tỉ lệ biến chứng.
Loại phẫu thuật cắt
gan
Biến chứng
Chảy máu Suy gan Tụ dịch
HPT I
HPT II, III
HPT II,III,IV
HPT IV
HPT V
HPT V,VIII 1
HPT VI
HPT VI,VII
HPT V,VI,VII,VIII 1 1
Tổng cộng 1 1 1
Chúng tôi theo dõi tình trạng tái phát của
người bệnh trong suốt thời gian nghiên cứu, ghi
nhận 1 TH tái phát sau 3 tháng, 2 TH tái phát sau
6 tháng, hiện chưa ghi nhận các trường hợp tái
phát sau 12 tháng. Các trường hợp tái phát do
phát hiện sớm, kích thước tổn thương nhỏ, bệnh
nhân được điều trị hủy u bằng sóng cao tần.
Hình 2. Cắt gan thùy giữa theo cuống Glisson.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 209
BÀN LUẬN
Bệnh ung thư tế bào gan là bệnh phổ biến tại
châu Á, chiếm 75 – 80% ung thư tế bào gan trên
thế giới, nằm trong top 5 nguyên nhân gây tử
vong hàng đầu tại châu Á(3). Bệnh có liên quan
với viêm gan siêu vi, nghiên cứu của BV Trung
ương Quân đội 108 có 76,7% bệnh nhân viêm
gan siêu vi B(8), tại Hàn Quốc, tỉ lệ viêm gan B
chiếm 70 – 75%, viêm gan C chiếm 10 – 15%
bệnh nhân ung thư tế bào gan(3). Tại Hồng Kông,
80% bệnh nhân ung thư tế bào gan viêm gan B
và 7% viêm gan C(3). Nghiên cứu của chúng tôi
có tỉ lệ viêm gan rất cao, viêm gan B 81%, viêm
gan C 4,5%, viêm gan B và C 9,1%, như vậy có
đến 94,6% trường hợp có viêm gan. Tuổi trung
bình của bệnh nhân trong nghiên cứu là 58,9
tuổi, tương đương với các nghiên cứu tại Việt
Nam và trên thế giới từ 50 – 60 tuổi(8), nghiên cứu
của Bai Ji (2012) là 55 ± 12(1).
Trong khi phẫu thuật, lượng máu mất trung
bình 556,8ml (200 – 1600 ml), tỉ lệ truyền máu
trong mổ chiếm 40,9%. Lượng máu mất và tỉ lệ
truyền máu của chúng tôi tương đối cao, do tỉ lệ
cắt gan lớn chiếm 33,4%, và đa số trường hợp u
có kích thước lớn, kích thước trung bình là
76mm. Nghiên cứu của Vũ Văn Quang lượng
máu mất trung bình 230 ml, tỉ lệ truyền máu
10%(8). Nghiên cứu của Bai Ji lượng máu mất
trung bình 145 ml(1). Nghiên cứu của Trần Hiếu
Học tại BV Bạch Mai, gồm 30 TH cắt gan theo
phương pháp Tôn Thất Tùng và 5 TH theo
phương pháp Takasaki, lượng máu mất trung
bình 210 ml, có 15/35 TH phải truyền máu(6).
Phẫu thuật cắt gan vẫn là một phẫu thuật lớn
với nguy cơ tử vong lên đến 5%, chủ yếu liên
quan đến đến các biến chứng như suy gan sau
mổ và mất máu. Các biến chứng thường gặp
khác như rò mật, tụ dịch, tràn dịch màng phổi,
hẹp đường mật, nhiễm trùng vết mổ. Nghiên
cứu của Vũ Văn Quang có tỉ lệ biến chứng 15%
với tràn dịch màng phổi 5 TH (8,3%), cổ chướng
3 TH (5%), rò mật 1 TH (1,7%)(8). Kết quả nghiên
cứu của Trần Hiếu Học có tỉ lệ biến chứng chảy
máu 5,7%, tụ dịch 5,7%, rò mật 5,7%, hẹp ống
gan P 2,9%, tràn dịch màng phổi 2,9%, có 1 TH
tử vong do chảy máu sau mổ(6). Nghiên cứu của
Karamarkovic A. có tỉ lệ tràn dịch màng phổi
9,8%, tụ dịch 3,9%, chảy máu 2%, rò mật 1,9%,,
báng bụng 4,9%, nhiễm trùng vết mổ 5,9%,
không có trường hợp nào suy gan(2). Tỉ lệ biến
chứng của chúng tôi 10% (3/30 TH), bao gồm rò
mật 1 TH, suy gan 1 TH, tụ dịch 1 TH, tất cả
trường hợp được điều trị nội khoa bảo tồn,
không có trường hợp nào cần mổ lại. Không có
tử vong.
Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện
Bình Dân được thực hiện trong thời gian ngắn,
số trường hợp chưa nhiều nhưng cũng đã cho
thấy nhiều tín hiệu khả quan, lượng máu mất
trong mổ và thời gian mổ ngày càng giảm,
không có tai biến tử vong mặc dù có 1 trường
hợp suy gan nhẹ, bệnh nhân ổn định sau khi
điều trị nội khoa. Trường hợp này bệnh nhân
được cắt toàn bộ gan P, tình trang gan xơ CHILD
B, lượng máu mất khoảng 1000ml, điều đó cho
thấy việc đánh giá chức năng gan và khối lượng
gan còn lại là cần thiết để đảm bảo cuộc mổ an
toàn. Hạn chế mất máu trong mổ cũng rất quan
trọng, chúng tôi đã sử dụng dao siêu âm, và điều
chỉnh áp lực tĩnh mạch trung tâm chủ động để
hạn chế chảy máu từ tĩnh mạch gan, điều này đã
giúp thời gian xử lý mạch máu trong mổ đơn
giản hơn, giảm thời gian mổ và hạn chế chảy
máu đáng kể.
Hiệu quả của cắt gan theo giải phẫu đã đươc
nhiều nghiên cứu chứng minh giúp cải thiện
hiệu quả điều trị, giảm tai biến, biến chứng và
hạn chế tái phát, do kỹ thuật này giúp cắt trọn
vẹn tận gốc phân thùy gan có chứa u, do u di căn
theo tĩnh mạch cửa, nên việc cắt tận gốc cũng
giúp hạn chế việc u di căn sớm đến các hạ phân
thùy lân cận mà không thể đánh giá được trước
mổ bằng MRI, CT hay siêu âm.
Các trường hợp tái phát vẫn được xử lý và
theo dõi tiếp tục mỗi 3 tháng bằng siêu âm, chụp
cắt lớp điện toán, những U nhỏ ≤ 3cm được hủy
u bằng song cao tần. Hiện tại, chúng tôi chưa ghi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 210
nhận trường hợp nào có tái phát ngay diện cắt.
Tỉ lệ bệnh nhân có tiền căn viêm gan siêu vi cao,
u thường tái phát tại các vị trí khác, như vậy vấn
đề theo dõi, điều trị viêm gan và tầm soát sau
mổ rất quan trọng để phát hiện và xử trí ung thư
tế bào gan tái phát.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật cắt gan theo giải phẫu là phương
pháp triệt để, an toàn, đem lại nhiều lợi ích cho
người bệnh. Việc phát triển kỹ thuật này cũng
thúc đẩy các kỹ thuật bổ trợ như hủy u, hoá trị,
thuyên tắc mạch và các kỹ thuật thuộc lĩnh vực
khác như điều chỉnh áp lực tĩnh mạch trung tâm,
các thiết bị cắt kiểm soát chảy máu. Nghiên cứu
vẫn được chúng tôi tiếp tục thực hiện để đánh
giá dự hậu của người bệnh và hoàn thiện hơn về
kỹ thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bai Ji et al, (2012), Curative resection of hepatocellular
carcinoma using modified glisson pedicle transection versus
the pringle maneur: a case control study, Int. J. Med. Sci., 9(10),
pp. 843-852.
2. Karamarkovic A. et al, (2014), Pre-resectional inflow vascular
control: extrafascial dissection of Glissonean pedicle in liver
resections, Hepatobiliary, 3, pp. 227-337.
3. Kudo M. et al, (2010), Liver Cancer Working Group Report.
Jpn J Clin Oncol, 40(1), pp. 19–27.
4. Takasaki K., (2007), Glissonean pedicle transection method for
hepatic resection, Tokyo Springer.
5. Tôn Thất Tùng, Nguyễn Dương Quang, (1963), A new
technique for operating on the liver, Lancet, 26, pp. 192–3.
6. Trần Hiếu Học và cs, (2016), Kết quả cắt gan tại bệnh viện
Bạch Mai, Tạp chí Ngoại khoa VN, 66(3), trang 35-39.
7. Trần Công Duy Long, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Hoàng
Bắc, Lê Tiến Đạt, Đặng Quốc Việt, (2013), Áp dụng kỹ thuật
phẫu tích cuống glisson ngã sau trong cắt gan theo giải phẫu
điều trị ung thư tế bào gan, Tạp chí Y học TP HCM, tập 13(1),
trang 48-53.
8. Vũ Văn Quang, Lê Văn Thành, (2016), Đánh giá kết quả sớm
của cắt gan ứng dụng kỹ thuật kiểm soát cuống Glisson theo
Takasaki điều trị ung thư biểu mô tế bào gan, Tạp chí Ngoại
khoa VN, 66(3), trang 11-17.
9. Yamamoto M., Katagiri S., Ariizumi S., Kotera Y., Takahashi
Y., (2012), Glissonean pedicle transection method for liver
surgery, J Hepatobiliary Pancreat Sci, 19, pp. 3-8.
Ngày nhận bài báo: 10/10/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_som_cua_phau_thuat_cat_gan_theo_cuong_bao_glisson.pdf