Tài liệu Kết quả phẫu thuật cắt dịch kính điều trị vết thương xuyên thấu nhãn cầu – Nguyễn Thị Thu Uyên: 38
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT DỊCH KÍNH
ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG XUYÊN THẤU NHÃN CẦU
NGUYỄN THỊ THU YÊN
Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM TẮT
Trong 2 năm 1999 - 2000 tại Khoa Chấn thương Bệnh viện Mắt Trung ương
điều trị 10 trường hợp có vết thương xuyên thấu nhãn cầu: 9 nam và 1 nữ, tuổi từ 12 -
56 tuổi. Cắt dịch kính đã được tiến hành làm ở cả 10 mắt. Thành công về chức năng 6
mắt (60%) trong đó có 3 mắt thị lực từ 5/10 trở lên.
Vết thương xuyên thấu nhãn cầu
được xác định khi vết thương xuyên qua
giác mạc hoặc củng mạc phần trước và
xuyên qua củng mạc ở phần sau do cùng
một tác nhân gây nên như do vật nhọn,
dao đâm vào hoặc do nổ mìn
Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả
của phẫu thuật cắt dịch kính trong điều
trị vết thương xuyên thấu nhãn cầu và
các yếu tố liên quan đến kết quả phẫu
thuật.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu tiền cứu, theo dõi dọc
(có đánh giá trước và sau phẫu thuật) có
phiếu theo dõi cho bệnh nhân. Nghiên
cứu được tiến hành ở Kh...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 337 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả phẫu thuật cắt dịch kính điều trị vết thương xuyên thấu nhãn cầu – Nguyễn Thị Thu Uyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT DỊCH KÍNH
ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG XUYÊN THẤU NHÃN CẦU
NGUYỄN THỊ THU YÊN
Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM TẮT
Trong 2 năm 1999 - 2000 tại Khoa Chấn thương Bệnh viện Mắt Trung ương
điều trị 10 trường hợp có vết thương xuyên thấu nhãn cầu: 9 nam và 1 nữ, tuổi từ 12 -
56 tuổi. Cắt dịch kính đã được tiến hành làm ở cả 10 mắt. Thành công về chức năng 6
mắt (60%) trong đó có 3 mắt thị lực từ 5/10 trở lên.
Vết thương xuyên thấu nhãn cầu
được xác định khi vết thương xuyên qua
giác mạc hoặc củng mạc phần trước và
xuyên qua củng mạc ở phần sau do cùng
một tác nhân gây nên như do vật nhọn,
dao đâm vào hoặc do nổ mìn
Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả
của phẫu thuật cắt dịch kính trong điều
trị vết thương xuyên thấu nhãn cầu và
các yếu tố liên quan đến kết quả phẫu
thuật.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu tiền cứu, theo dõi dọc
(có đánh giá trước và sau phẫu thuật) có
phiếu theo dõi cho bệnh nhân. Nghiên
cứu được tiến hành ở Khoa Chấn
thương Bệnh viện Mắt Trung ương từ
năm 1999 - 2000 với tổng số 10 bệnh
nhân bị vết thương xuyên thấu nhãn cầu
được điều trị phối hợp cắt dịch kính qua
pars plana. Chẩn đoán vết thương xuyên
thấu nhãn cầu dựa trên những tiêu chuẩn
sau:
Có vết rách ở giác mạc - củng mạc
phía trước và vết rách ở phần sau của
củng mạc, có vết thương ở củng mạc
hoặc giác củng mạc và có dị vật hốc mắt
được ghi trên phim (điều này gợi ý cho
chúng ta thấy dị vật đi qua thành sau
nhãn cầu vào nằm trong hốc mắt).
Trong phiếu nghiên cứu các bệnh
nhân đều được ghi vào các mục như:
tuổi, giới, loại chấn thương, vị trí vết
thương chỗ vào, ra, thị lực khi vào viện,
tổn hại kèm theo, cách thức xử trí, thời
gian cắt dịch kính, kết quả điều trị về
chức năng và giải phẫu. Nguyên nhân
gây chấn thương, hoàn cảnh gây chấn
thương. Các bệnh nhân đều được theo
dõi 1 năm.
Bệnh nhân có vết thương xuyên
thấu nhãn cầu được xử trí cấp cứu như
khâu giác mạc, củng mạc, cắt tổ chức
phòi kẹt như mống mắt, dịch kính, màng
39
bồ đào. Nếu vết thương được xử trí
trước 6 giờ và tổ chức mống mắt, màng
bồ đào còn tốt không bị nát mủn, không
có dấu hiệu nhiễm trùng có thể bảo tồn
đặt lại đúng vị trí giải phẫu. Khâu giác
mạc với chỉ nylon 10-0, đảm bảo mép
vết thương không bị kẹt tổ chức như
mống mắt, dịch kính, màng bồ đào,
màng xuất tiết, dị vật... Vết thương củng
mạc khâu với chỉ tiêu chậm 7- 0. Sau
khi khâu giác mạc, củng mạc, chúng tôi
kiểm tra củng mạc bằng cách mở kết
mạc 3600, thăm dò tìm vết thương củng
mạc phần sau, kéo các cơ trực, thăm dò
từng 1/4 chu vi củng mạc (bên trong,
bên ngoài, dưới trong dưới ngoài) ra sau
cơ trực. Khâu vết thương củng mạc
phần sau khi nhìn rõ vị trí vết thương
bộc lộ tốt tổ chức xung quanh. Nếu vết
thương < 2mm ở sâu cực sau, khó khâu
thì có thể để lại không khâu. Sau đó
bệnh nhân được làm đầy đủ các xét
nghiệm để chuẩn bị mổ tiếp theo như:
xét nghiệm toàn thân, chụp X-quang hốc
mắt có khu trú Baltin (chú ý: không
chụp khu trú Baltin khi vết thương nhãn
cầu chưa được khâu kín), làm siêu âm,
điện võng mạc để đánh giá tình trạng
võng mạc, tình trạng dịch kính.
Tiến hành cắt dịch kính theo 3
đường tiêu chuẩn qua pars plana.
Chúng tôi đánh giá kết quả theo
tiêu chuẩn của Ryan và Allen: thành
công về thị lực > 5/200 (đếm ngón tay
từ 1m trở lên). Thành công về giải phẫu
được coi là phục hồi, giữ lại được nhãn
cầu nhưng thị lực không tăng.
KẾT QUẢ
Tổng số 10 bệnh nhân. Nam: 9
bệnh nhân, nữ: 1 bệnh nhân. Tuổi <15: 1
bệnh nhân, tuổi từ 16 – 55: 9 bệnh nhân.
Cắt dịch kính được làm từ 7 - 10 ngày: 8
bệnh nhân, sau 15 ngày: 2 bệnh nhân.
Hoàn cảnh chấn thương: do tai nạn
lao động 9 bệnh nhân, tai nạn sinh hoạt:
1 bệnh nhân. Nguyên nhân do sắt chọc
vào 6, do mìn nổ 4. Thị lực khi vào
viện: tất cả 10 bệnh nhân đều có thị lực
ST (+) hoặc BBT. Dị vật nằm trong hốc
mắt 6 bệnh nhân. Viêm mủ nội nhãn 1
mắt. Số mắt bị bong võng mạc: 4 mắt.
Xuất huyết dịch kính: 8 mắt, tổ chức
hoá dịch kính: 2 mắt. Vị trí vết thương:
ở giác mạc: 5; củng mạc: 2; giác củng
mạc: 3 mắt,
Kết quả thị lực khi ra viện: 6/10
bệnh nhân có thị lực từ 5/200 trở lên
trong đó có 1 bệnh nhân có thị lực
10/10, 2 bệnh nhân có thị lực: 0,5. Hai
mắt có nhận thức ánh sáng, 2 mắt teo
nhãn cầu.
40
Số
th
ứ
tự
Tuổi,
giới, mắt
Ng.
nhâ
n
Ngà
y
CD
K
Thị lực
Bình luận Trướ
c mổ
Sau
mổ
1 46, nam, P đá 7 < 0,02 0,5 CDK + thủy tinh thể
2 35, nữ, T sắt 13 < 0,02 <
0,02
CDK, trao đổi khí dịch, lạnh đông, có
bong võng mạc, lỗ ra không khâu
được do xuất huyết nội nhãn không
nhìn thấy.
3 26, nam,
T
sắt 5 < 0,02 0,5 Khâu củng mạc, áp lạnh seo hắc võng
mạc, lấy được DV từ phía ngoài (DV
cắm HVM), CDK, theo dõi 2 năm.
4 56, nam,
T
sắt 12 < 0,02 0,5 CDK, đai silicon, trao đổi khí dịch,
sẹo hắc võng mạc cực sau.
5 27, nam,
T
sắt 30 đnt 1,0 CDK (Tổ chức hoá dịch kính, dị vật
hốc mắt), theo dõi 2 năm
6 30, nam,
T
sắt 5 đnt 0,1 CDK, cắt thủy tinh thể lạnh đông
võng mạc rách, trao đổi khí dịch
7 45, nam,
T
sắt 12 đnt- 0,5 CDK có vết khâu (sẹo) ở hậu cực, cắt
dịch kính
8 20, nam, P mìn 720 đnt ST(+) CDK, lạnh đông, khí nở SF6, bong
võng mạc sau mổ 3 tháng
9 38, nam,
T
đá 8 ST
(+)
ST (-) CDK, mủ nội nhãn, bong võng mạc,
không mổ bong võng mạc
10 12, nam,
T
que 8 ST(+) ST (-) CDK, ngay sau mổ võng mạc không
áp.
(T: mắt trái, P: mắt phải, CDK: cắt dịch kính)
BÀN LUẬN
Abrams G.W. (1979) [1] và cộng sự
đã làm thực nghiệm vết thương xuyên thấu
nhãn cầu trên thỏ và thấy rằng có sự tăng
sinh nguyên bào sợi (xơ) trong dịch kính
dọc theo đường đi của vết thương ở mắt bị
chấn thương.
Cleary P.E. và Ryan S.J. (1979) [2]
cũng tiến hành thực nghiệm vết thương
xuyên thấu nhãn cầu trên mắt khỉ bằng
cách rạch củng mạc ở pars plana, tiêm
vào mắt khỉ máu tự thân thì thấy có bong
võng mạc và bong dịch kính sau. Ở lô
chứng chỉ tiêm nước muối thì không có
41
bong võng mạc, điều này gợi ý rằng xuất
huyết máu trong dịch kính có vai trò
quan trọng trong sự hình thành màng co
kéo xuyên dịch kính gây bong võng mạc.
Trong nghiên cứu của chúng tôi,
khi có bong võng mạc, kết quả thị lực
sau điều trị rất kém. Điều này cũng phù
hợp với các tác giả khác cho rằng bong
võng mạc là một yếu tố xấu về tiên lượng
thị lực trong điều trị vết thương xuyên
thấu nhãn cầu. Theo tác giả Abuel -
Arsar A.M. (1999) [3] trong trường hợp
có viêm mủ nội nhãn kèm theo thì lại
càng xấu.
Có một trường hợp vừa có bong
võng mạc lại vừa có viêm mủ nội nhãn,
sau điều trị thị lực ST(-), nhãn cầu có xu
hướng teo. Ba trường hợp bong võng
mạc còn lại thì không trường hợp nào có
thị lực hữu ích (>5/200). Bong võng mạc
ở mắt có vết thương xuyên thấu nhãn cầu
do hậu quả của co kéo ở buồng dịch kính
gây bong võng mạc có rách võng mạc.
Bong dịch kính sau tự phát xảy ra ở
5 bệnh nhân. Khi có bong dịch kính sau,
phẫu thuật cắt dịch kính thực hiện thuận
lợi hơn, cắt dịch kính sạch hơn. Gregor
Z. và Ryan S.J. (1983) [4] trên thực
nghiệm đã chứng tỏ rằng cắt sạch dịch
kính toàn bộ thì ít gây tăng sinh nội
nhãn, ít co kéo bong võng mạc hơn là chỉ
cắt dịch kính ở trung tâm. Ở mắt chỉ cắt
dịch kính trung tâm (cắt dịch kính một
phần) đã thấy có sự tăng sinh tế bào ở
nền dịch kính từ trước ra sau. Trong
nghiên cứu của chúng tôi 6/10 bệnh nhân
có dị vật, dị vật xuyên từ giác mạc hoặc
củng mạc phần trước ra củng mạc phần
sau. Có một trường hợp dị vật nội nhãn
nằm ở vị trí xa rìa, ở cực sau nhãn cầu,
chúng tôi lấy được dị vật từ phía ngoài
nhãn cầu bằng cách dựa theo vị trí của dị
vật (theo khu trú của phim X-quang) đặt
nam châm hút được dị vật.
Một trường hợp có lỗ thủng ở cực
sau rộng không khâu được, có bong võng
mạc kèm theo đã được khâu cấp cứu vết
thương ở phần trước. Khi mổ bong võng
mạc, bơm khí vào nội nhãn, do lỗ thủng
củng mạc ở cực sau không khâu được nên
bóng khí chui qua mép vết thương xuống
dưới kết mạc nhãn cầu (phía 1/2 dưới). Kết
quả là nhãn cầu teo sau 1 tháng.
Về thời gian cắt dịch kính, vấn đề
hiện còn đang được tranh luận khá nhiều.
Theo Coleman D.J. (1982) [5] kết quả thị
lực tốt đạt 65% số bệnh nhân được cắt
dịch kính trong 72 giờ đầu sau chấn
thương. Cắt dịch kính sau 72 giờ kết quả
thị lực thấp hơn (40%). Tuy nhiên tác giả
lại không nói rõ do loại chấn thương nào
trong nghiên cứu.
Chúng tôi tiến hành cắt dịch kính từ
7 - 13 ngày sau chấn thương cho bệnh
nhân: 8 mắt, ở ngày thứ 30: 1 mắt và sau
2 năm: 1 mắt( bệnh nhân này bị chấn
thương do nổ mìn có kèm bong võng
mạc, bệnh nhân được làm lạnh đông phía
ngoài và cho khí nở (SF6) vào nội nhãn,
kết quả bong võng mạc 3 tháng sau mổ).
Có 1 mắt bị teo nhãn cầu do tổn thương
quá nặng ngay từ đầu (viêm mủ nội nhãn
và bong võng mạc kèm theo). Chúng tôi
thấy rằng tiên lượng rất xấu ở những bệnh
nhân có viêm mủ nội nhãn và bong võng
mạc.
Có 3 trường hợp có thị lực 5/10 trở
lên, 3 trường hợp này đều có dị vật nằm
42
trong hốc mắt, vết thương nhỏ ở cực sau
tự liền (cắt dịch kính: 2 mắt, 1 mắt cắt
dịch kính và lạnh đông + đai silicon củng
mạc).
Theo Martin D.F.(1991)[6], thời
gian cắt dịch kính không có ý nghĩa
quyết định kết quả thị lực.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, do
số bệnh nhân còn ít nên chưa kết luận
được. Tuy nhiên trong 1 công trình khác
chúng tôi thấy rằng kết quả thị lực không
phụ thuộc vào thời gian tiến hành cắt
dịch kính (2002) [7].
Trong khi tiến hành phẫu thuật,
chúng tôi gặp 2 trường hợp rách võng
mạc, một trường hợp do đã có bong võng
mạc, khi cắt dịch kính đã cắt vào võng
mạc. Một trường hợp khác do dịch kính
đục lẫn máu nên đã cắt vào võng mạc ở
phía ngoài hoàng điểm 2 đường kính gai
thị.
Chúng tôi đã tiến hành cắt dịch
kính trong 2 tuần đầu 8/10 mắt. Theo
chúng tôi, khi cắt dịch kính ở tuần thứ 2
thường đã có bong dịch kính sau, nên
phẫu thuật tiến hành dễ dàng hơn, tác giả
Alfaro D.V.(1992) [8] cũng cho rằng khi
có bong dịch kính sau thì tiên lượng tốt
hơn khi so sánh với trường hợp không có
bong dịch kính sau.
Thành công về thị lực trong nhóm
nghiên cứu của chúng tôi là 60%, thành
công về giải phẫu là 80%, kết quả này
cũng gần tương đương với kết quả của
các tác giả như Martin và Alfaro.
KẾT LUẬN
Cắt dịch kính qua pars plana đã có
kết quả khả quan trong điều trị vết thương
xuyên thấu nhãn cầu có kèm theo nhiều
tổn thương như tổ chức hoá dịch kính,
xuất huyết dịch kính, bong võng mạc. Tuy
nhiên kỹ thuật cắt dịch kính đòi hỏi phải
có trang thiết bị hiện đại, phẫu thuật viên
phải hiểu rõ cơ chế sinh bệnh học của vết
thương xuyên nhãn cầu và có kinh
nghiệm xử lý những biến chứng xảy ra.
Kết quả điều trị vết thương xuyên thấu
nhãn cầu có liên quan đến tổn thương ban
đầu, mức độ nặng của vết thương. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ thành
công về chức năng: 60%, tỷ lệ thành công
về giải phẫu: 80%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ABRAMS G.W., TOPING T.M., MACHEMER R. (1979), “Vitrectomy
for injury. The effect on intraocular proliferation following perforation of
the posterior segment of the rabbit eye”, Arch. Ophthalmol, 97, pp. 743-
748.
2. CLEARY P.E., RYAN S.J. (1979), “Histology of wound, vitreous and
retina in experimental posterior penetrating eye injury in the rhesus
monkey“, Am. J. Ophthalmol, 88, pp. 221-231.
3. ABUEL-ARSAR A.M., AL-AMRO S.A., MOSALLAM A.A. et al (1999),
“Post-traumatic endophthalmitis: causative organisms and visual
outcome”, Eur. J.Ophthalmol, 9, pp. 21-31.
43
4. GREGOR Z., RYAN S.J. (1983), “Complete and core vitrectomies in the
treatment of experimental posterior penetrating eye injury in the rhesus
monkey. I. Clinical features“, Arch Ophthalmol, 101, pp. 441-445.
5. COLEMAN D.J. (1982), ”Early vitrectomy in the management of the
severely traumatized eye”, Am. J. Ophthalmol, 93, pp. 543-551.
6. MARTIN D.F., MEREDITH T.A., TOPPING T.M. et al (1991),
“Perforating (through - and - through) injuries of the globe. Surgical results
with vitrectomy“, Arch. Ophthalmol, 109, pp. 951-956.
7. NGUYỄN THỊ THU YÊN (2002), “Thời gian cắt dịch kính sau chấn
thương nhãn cầu hở”, Nội san nhãn khoa, 5, tr. 16-23.
8. ALFARO D.V., TRAN V.T., RUNYAN T. et al (1992), “Vitrectomy for
perforating eye injuries from shotgun pellets”, Am. J. Ophthalmol, 114, pp.
81-85.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_phau_thuat_cat_dich_kinh_dieu_tri_vet_thuong_xuyen_t.pdf