Kết quả nghiên cứu ban đầu về ô nhiễm thủy ngân tại các hồ thuỷ điện trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn - Đặng Thị Hà

Tài liệu Kết quả nghiên cứu ban đầu về ô nhiễm thủy ngân tại các hồ thuỷ điện trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn - Đặng Thị Hà: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU BAN ĐẦU VỀ Ơ NHIỄM THỦY NGÂN TẠI CÁC HỒ THUỶ ĐIỆN TRÊN HỆ THỐNG SƠNG VU GIA - THU BỒN Đặng Thị Hà1 Tĩm tắt:Trong thời gian qua, với áp lực phát triển dân số và kinh tế đã cĩ những tác động khơng nhỏ đến chất lượng nước lưu vực sơng Vu Gia - Thu Bồn, trong đĩ việc khai thác khống sản và xây dựng các hồ thuỷ điện trên lưu vực sơng là những ví dụ điển hình. Kết quả nghiên cứu của chúng tơi đã chỉ ra rằng nồng độ thuỷ ngân phân tích được từ các mẫu trầm tích trong lịng các hồ ĐakMi 4 và Sơng Tranh 2 rất cao; đặc biệt, hàm lượng Hg đo được tại hồ ĐakMi4 ở mức báo động khi vượt quá tiêu chuẩn cho phép theo QCVN 43:2012/BTNMT. Ngồi ra, chúng tơi cũng đã tính tốn được khối lượng thuỷ ngân ơ nhiễm tích tụ trong trầm tích ở hai hồ Sơng Tranh 2 và ĐakMi 4 đạt từ 1.3 đến 3.2 tấn Hg sau 6-8 năm đi vào hoạt động. Việc quản lý và sử dụng các trầm tích ơ nhiễm thuỷ ngân này đang là thách thức lớn khơng chỉ với Ban quản lý dự án thuỷ điện mà cịn cả chính q...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 483 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả nghiên cứu ban đầu về ô nhiễm thủy ngân tại các hồ thuỷ điện trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn - Đặng Thị Hà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU BAN ĐẦU VỀ Ơ NHIỄM THỦY NGÂN TẠI CÁC HỒ THUỶ ĐIỆN TRÊN HỆ THỐNG SƠNG VU GIA - THU BỒN Đặng Thị Hà1 Tĩm tắt:Trong thời gian qua, với áp lực phát triển dân số và kinh tế đã cĩ những tác động khơng nhỏ đến chất lượng nước lưu vực sơng Vu Gia - Thu Bồn, trong đĩ việc khai thác khống sản và xây dựng các hồ thuỷ điện trên lưu vực sơng là những ví dụ điển hình. Kết quả nghiên cứu của chúng tơi đã chỉ ra rằng nồng độ thuỷ ngân phân tích được từ các mẫu trầm tích trong lịng các hồ ĐakMi 4 và Sơng Tranh 2 rất cao; đặc biệt, hàm lượng Hg đo được tại hồ ĐakMi4 ở mức báo động khi vượt quá tiêu chuẩn cho phép theo QCVN 43:2012/BTNMT. Ngồi ra, chúng tơi cũng đã tính tốn được khối lượng thuỷ ngân ơ nhiễm tích tụ trong trầm tích ở hai hồ Sơng Tranh 2 và ĐakMi 4 đạt từ 1.3 đến 3.2 tấn Hg sau 6-8 năm đi vào hoạt động. Việc quản lý và sử dụng các trầm tích ơ nhiễm thuỷ ngân này đang là thách thức lớn khơng chỉ với Ban quản lý dự án thuỷ điện mà cịn cả chính quyền và người dân nơi đây. Từ khố: lưu vực sơng Vu Gia - Thu Bồn, trầm tích, ơ nhiễm thuỷ ngân 1 . Mở đầu Cĩ rất nhiều chất ơ nhiễm trong nguồn nước ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, trong đĩ các kim loại nặng như Hg, Pb, As, Cu, Cd, Sb,... được xếp vào loại độc tố ở hàm lượng vết. Nguyên nhân gây ơ nhiễm kim loại nặng trong nước vơ cùng đa dạng, cĩ thể do điều kiện tự nhiên (địa chất) hoặc do các hoạt động của con người như luyện kim, khai thác khống sản, sản xuất cơng nghiệp. Hệ thống sơng Vu Gia - Thu Bồn là một trong năm hện thống sơng lớn nhất Viêt Nam với diện tích lưu vực là 10.530 km², chủ yếu nằm trên địa phận tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Trên hệ thống sơng Vu Gia - Thu Bồn, các hoạt động của con người bao gồm hoạt động phá rừng, khai thác cát trong lịng sơng và hoạt động khai thác khống sản, đặc biệt là khai thác vàng gần như mất kiểm sốt đã để lại những hậu quả khơn lường đối với mơi trường và sức khoẻ người dân (Báo cáo ADB, 2008). Các kết quả được thống kê trong một nghiên cứu của World Bank về hàm lương một số kim loại nặng trong nước mặt, nước ngầm và trầm tích một số hệ thống sơng của Việt Nam cho thấy chỉ tiêu các kim loại nặng trong nước tại các con suối của khu vực khai thác vàng tỉnh Quảng Nam vượt nhiều lần quy định cho phép, đặc biệt là kim loại 1 . TS. Viện Kỹ thuật - Kinh tế Biển, Đại Học Bà Rịa - Vũng Tàu 2 thuỷ ngân (Báo cáo World bank, 2015). Nguyên nhân của sự ơ nhiễm các kim loại này được cho là do nước thải chưa được xử lý từ các hoạt động khai thác khống sản trên địa bàn lưu vực sơng. Cụ thể, trên lưu vực sơng Vu Gia - Thu Bồn cĩ khoảng 180 điểm khai thác khống sản được chia là 5 nhĩm: năng lượng, kim loại, phi kim, vật liệu xây dựng và nước khống (theo Báo cáo của World bank, 2015). Trong quá trình khai thác vàng, thuỷ ngân (Hg) và cianua (CN-) được sử dụng làm hố chất chính.Nước thải sau quá trình tuyển quặng này được thải trực tiếp ra hệ thống sơng suối mà khơng qua bất kỳ quá trình xử lý nào.Đây chính là các yếu tố gây ơ nhiễm mơi trường đất, nước, tham gia vào chuỗi thức ăn, từ đĩ gây ảnh hưởng đến mơi trường và sức khoẻ con người. Trong bài báo này, chúng tơi xin trình bày các kết quả nghiên cứu ban đầu về hàm lượng thuỷ ngân tích luỹ trong trầm tích tại các hồ thuỷ điện ĐakMi 4 và sơng Tranh 2 trên lưu vực sơng Vu Gia - Thu Bồn. Các số liệu trình bày trong bài báo này là một một phần kết quả thu được của dự án “Nghiên cứu quá trình xĩi lở bờ biển Hội An và đề xuất các biện pháp bảo vệ bền vững” đã được thực hiện dưới sự tài trợ của Quỹ phát triển Pháp tại Việt Nam (AFD) và Liên minh Châu Âu trong năm 2016-2017. Mục đích của bài báo này là xác định mức độ ơ nhiễm thuỷ ngân trong lịng hai hồ ĐakMi 4 và sơng Tranh 2 để từ đĩ đưa ra các giải pháp quản lý trầm tích một cách phù hợp. 2. Thực nghiệm 2.1 . Lưu vực sơng Vu Gia - Thu Bồn Hệ thống sơng Vu Gia - Thu Bồn là một trong năm hệ thống sơng lớn nhất của Việt Nam (diện tích lưu vực = 10.530 km²). Hệ thống sơng được tạo nên từ con sơng Vu Gia ở phía Đơng Bắc và Thu Bồn ở phía Đơng Nam. Lượng mưa trung bình năm Hình 1: Bản đồ mạng lưới sơng ngịi thuỷ điện trên hệ thống sơng Vu Gia - Thu Bồn và các điểm khai thác khống sản trên lưu vực sơng Vu Gia - Thu Bồn. Đaksa và Bồng Miêu là hai điểm khai thác vàng lớn nhất tại Việt Nam trên tồn lưu vực dao động từ 2,000 đến 4,000 mm/năm.Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12 và chiếm từ 65÷80% lượng mưa tồn lưu vực. 3 Trên lưu vực sơng Vu Gia - Thu Bồn, cĩ 4 hồ thuỷ điện lớn (thể tích, diện tích và cơng suất phát điện) bao gồm: thuỷ điện Sơng Tranh 2, thuỷ điện ĐakMi 4, thuỷ điện Sơng Bung 4 và thuỷ điên A Vương (Hình 1, Bảng 1). Bảng 1. Các hồ thuỷ điện chính trên lưu vực sơng Vu Gia - Thu Bồn Thuỷ điện A Vuong ĐakMi 4 SongTranh 2 Song Bung 4 Sơng A Vuong ĐakMi Tranh Bung Mức nước đầy (m) 380 258 175 222 Năm hoạt động 2008 2012 2010 2014 Diện tích hồ (km2) 682 1120 1100 1477 Mực nước chế (m) 340 220 135 175 Thời gian lưu (ngày) 99 46 50 66 Thể tích trữ nước (Mm3) 344 279 462 494 - Thuỷ điện ĐakMi 4 nằm trên nhánh sơng Vu Gia với tổng cơng suất điện 190 MW, bắt đầu được xây dựng năm 2007 và hồn thành vào năm 2012. Hồ ĐakMi hoạt động bằng cách lấy nước trên nhánh sơng Vu Gia nhưng sau đĩ lại xả nước ra kênh chuyển nước về sơng Thu Bồn. Điều nay đã gây ra nhiều tranh cãi trong quá trình hoạt động của hồ thuỷ điện này. - Thuỷ điện sơng Tranh 2 được xây dựng trên nhánh sơng Tranh (nhánh của sơng Thu Bồn), nằm tại huyện Bắc Trà Mi. Nĩ được khởi cơng xây dựng vào năm 2006 và bắt đầu đi vào hoạt động vào tháng 12/2010. 2.2 . Lấy mẫu và phân tích mẫu - Lấy mẫu và bảo quản mẫu: Các mẫu trầm tích mặt tại hai hồ thuỷ điện là ĐakMi 4 (4 mẫu) và sơng Tranh 2 (5 mẫu) đã được lấy bằng thiết bị lấy mẫu trầm tích chuyên dụng, di chuyển bằng thuyền và cano vào tháng 4/2017 (Hình 2,3). Các mẫu trầm tích sau khi được lấy từ các vị trí khác nhau trong lịng hồ sẽ được đựng vào các hộp nhựa chuẩn bị sẵn (đã được rửa sạch và tráng 3 lần bằng nước cất) và bảo quản trong thùng đá. Sau đĩ, tại phịng thí nghiệm, mẫu được bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4oC đến khi chuyển đi phân tích hàm lượng thuỷ ngân tại Phịng thí nghiệm CNRS 5805 EPOC, Đại học Bordeaux, Cộng hồ Pháp. - Xử lý và phân tích mẫu: Mẫu trầm tích sau khi đã được phơi khơ ở nhiệt độ phịng và nghiền nhỏ đến kích thước mịn khơng đổi, được cân khoảng 0.05 đến 0.1g bằng cân phân tích độ chính xác 0.001g và được phân tích trực tiếp hàm lượng thuỷ ngân bằng phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử AAS (MILESTONE, Direct Mercury Analyzer 80-DMA80) theo tiêu chuẩn của PTN CNRS 5805 EPOC. Độ đúng và độ lặp lại của phương pháp được kiểm tra bằng các mẫu chuẩn trầm tích quốc tế (IAEA 405, [Hg] = 810 µg/kg với độ tin cậy 95%). Hàm lượng Hg trong mẫu chuẩn chúng tơi đo được là 803±17µg/kg. 4 Hình 2: Vị trí các điểm lấy mẫu trầm tích mặt tại hai hồ Sơng Tranh 2 và ĐakMi 4 Hình 3: Hình ảnh hiện trường lấy mẫu trầm tích tháng 4/2017 3. Kết quả 3.1 . Nồng độ Thuỷ ngân trong các mẫu trầm tích Kết quả phân tích thu được được trình bày trong hình 4 cho thấy hàm lượng thuỷ ngân trong các mẫu trầm tích mặt tại hai hồ thuỷ điện Sơng Tranh 2 và ĐakMi 4 dao động mạnh giữa các vị trí lấy mẫu và cĩ sự khác biệt rất lớn giữa hai hồ. Cụ thể là hàm lượng thuỷ ngân đo được tại hồ thuỷ điện Sơng Tranh 2 dao động từ 23 đến 144 µg/ kg, trong khi tại hồ thuỷ điện ĐakMi 4, các giá trị này rất lớn, từ 223 đến 577 µg/kg (Hình 4). T. h 3 đến 577 µg/kg (ỷ điện ĐakMi 4, các g đo được thấp nhất tại vị trí S3 (được coi là điểm đầu vào của hồ) và giá trị Hg cao nhất tại vị trí S1 (được coi là điểm nước đi ra khỏi hồ). Trong khi đĩ, tại hồ ĐakMi 4, hàm lượng Hg thấp nhất đo được tại vị trí Đ2 (giữa lịng hồ) và cao nhất quan trắc được tại vị trí Đ4 (điểm nước xả ra khỏi hồ). Kết quả này cho thấy tại cả hai hồ quan trắc, thuỷ ngân cĩ xu hướng tích tụ trong trầm tích tại điểm xả ở cửa đập. Tuy nhiên, tại các vị trí S4, S5 trên hồ Sơng Tranh hay vị trí Đ1 trên hồ ĐakMi, hàm lượng thuỷ ngân tương đối cao. Đây 5 là các vị trí tiếp nhận nước từ các con suối đổ về từ thượng nguồn rồi hồ lẫn với nước chảy vào từ cửa đập chính. Do diện tích hồ rất rộng nên sự lưu thơng dịng nước/dịng trầm tích trong lịng hồ cịn là vấn đề cần được nghiên cứu.Bên cạnh đĩ, việc đo đạc cấp phối hạt cũng vơ cùng quan trọng trong việc xác định nguồn gốc gây ơ nhiễm.Ví dụ như việc nghiên cứu từ hơn 40 mẫu trầm tích mặt trong hai mùa mưa và mùa khơ trên lưu vực sơng Hồng trong nghiên cứu của Đặng và cộng sự (2014) đã chỉ ra rằng hàm lượng Hg trên lưu vực sơng Hồng dao động từ 71 đến 475ìg/kg trong mùa khơ và từ 66 đến 241ìg/kg trong mùa mưa. Các giá trị trung bình đo đạc được trên lưu vực sơng Hồng là 126ìg/ kg và 195ìg/kg tương ứng với mùa mưa và mùa khơ. Điều đĩ cho thấy ảnh hưởng của cấp phối hạt đến hàm lượng Hg trong các mẫu trầm tích, cụ thể là vào mùa mưa thì quá trình xĩi mịn vật lý diễn ra mạnh hơn làm cho kích cỡ hạt trong trầm tích lớn hơn, diện tích bề mặt các hạt nhỏ hơn và do đĩ hàm lượng kim loại nặng liên kết sẽ ít hơn. Hình4: Nồng độ Hg trong các mẫu trầm tích mặt của hai hồ thuỷ điện sơng Tranh 2 và ĐakMi 4. Mặc dù các mẫu trầm tích mặt quan trắc được cịn hạn chế về số lượng theo khơng gian và thời gian, nhưng chúng ta vẫn cĩ thể sử dụng các giá trị này để làm cơ sở đánh giá, so sánh với hàm lượng thuỷ ngân trong trầm tích trên các lưu vực sơng khác. Hàm lượng thuỷ ngân trong trầm tích mặt của hai hồ Sơng Tranh 2 và ĐakMi 4 tương đương với giá trị quan trắc được trên lưu vực sơng Hồng.Tuy nhiên, các giá trị này lại cao hơn nhiều lần hàm lượng thuỷ ngân trung bình cĩ trong lớp vỏ trái đất (UCC) 50 ìg/kg (Vier et al., 2008) hay hàm lượng Hg quan trắc được tại các vùng biển Vịnh ở Đà Nẵng (~ 30-80 ìg/kg, Đào, 2008; Phạm và cộng sự, 2009). Chúng tơi xin nhấn mạnh rằng hàm lượng thuỷ ngân đo được tại hai hồ thuỷ điện trên hệ thống sơng Vu Gia - Thu Bồn tương đương với hàm lượng Hg đo được tại vùng ven biển cửa sơng Loire (Pháp, 370~ mg/kg) mà vùng này đang được xếp vào loại bị ơ nhiễm Hg (Coynel et al., 2016) do các hoạt động đơ thị hố và xả thải của các khu cơng nghiệp.Tương tự, nguyên nhân làm cho hàm lượng thuỷ ngân cao bất thường trong các mẫu trầm tích mặt của hai hồ thuỷ điện trên lưu vực sơng Vu Gia - Thu Bồn là do nước thải từ các hoạt động khai thác khống sản nơi đây (như tại Đaksa thuộc huyện Phước Sơn hay Bồng Miêu huyện Tam Kỳ, Hình 1). Trầm tích ơ nhiễm thuỷ ngân chứa trong hai hồ này sẽ trở thành 1 nguồn gây ra ơ nhiễm Hg mới về phía hạ lưu trong quá trình tác động lực lên lịng hồ bởi việc nạo vét hay khi xả lũ. Do đĩ, vấn đề quản lý trầm tích trong lịng hồ cần phải được xem xét kỹ lưỡng trong quá trình vận hành, quản lý hồ thuỷ điện. 6 3.2 . Đánh giá chất lượng trầm tích và đề xuất giải pháp Việc xây dựng các hồ thuỷ điện là một trong những mối tác động lớn đến hệ sinh thái thuỷ sinh đã được nghiên cứu và chỉ ra trong nhiều cơng trình cơng bố, với rất nhiều ảnh hưởng đến mơi trường như là một nguồn gây ơ nhiễm từ trầm tích (ví dụ trong cơng trình nghiên cứu Dang et al. 2010, với tỷ lệ bẫy bùn cát là ~88% và điều quan trọng là các trầm tích này chứa lượng lớn các kim loaị nặng so với tiêu chuẩn cho phép). Chúng tơi xin nhắc lại rằng tại thượng lưu của lưu vực sơng Vu Gia -Thu Bồn, khai thác khống sản là một ngành cơng nghiệp chính với hoạt động khai thác và chế biến vàng chủ yếu và tập trung tại các tỉnh miền núi như Bắc Trà My (hồ sơng Tranh), Nam Trà My, Phước Sơn (hồ ĐakMi)... Sự khai thác khống sản một cách ồ ạt, thiếu kiểm sốtđang là mối đe doạ cho mơi trường nơi đây (báo cáo năm 2011 của Sở Tài nguyên Mơi Trường tỉnh Quảng Nam). Tháng 4/2017, với mục đích là xác định chất lượng trầm tích trong lịng hai hồ chính là Sơng Tranh 2 và ĐakMi4, để từ đĩ đề xuất các biện pháp phù hợp cho việc quản lý trầm tích cũng như đưa ra các biện pháp để chống xĩi lở phía hạ lưu (như xả trần tích về phía hạ lưu), chúng tơi đã lấy các mẫu trầm tích mặt trong lịng hai hồ. Kết hợp với các kết quả tính tốn về khối lượng trầm tích trong lịng hồ, chúng tơi cĩ thể ước lượng được khối lượng kim loại nặng cĩ trong hồ và so sánh với các tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện cĩ để đánh giá chất lượng trầm tích, từ đĩ làm cơ sở cho các đề xuất tiếp theo. Các kết quả thu được đã chỉ ra rằng, hàm lượng thuỷ ngân đo được trong tất cả các mẫu trầm tích mặt đều lớn hơn giá trị UCC (lớp vỏ trái đất, Hình 4). Để cĩ thể ước lượng mức độ nguy hiểm của sự ơ nhiễm thuỷ ngân trong trầm tích đến mơi trường và hệ sinh thái, chúng tơi sử dụng các tiêu chuẩn ERL và ERM được thiết lập bởi MacDonald và cs., 1995; Long và cs., 1998 (Hình 4). Các chỉ số ERL và ERM là các thơng số dùng để đánh giá ảnh hưởng của nồng độ kim loại (Hg) đến hệ sinh thái với các giá trị [Hg] <ERL (=150 µg/kg) thì coi như khơng cĩ ảnh hưởng, [Hg] = ERL đến ERM (=710 µg/kg) cĩ ảnh hưởng đến hệ sinh thái với xác suất >50% và [Hg] >ERM thì khả năng ảnh hưởng đến hệ sinh thái là rất cao (>90%). Như vậy, nếu hàm lượng Hg trong các mẫu trầm tích của hồ Sơng Tranh 2 ở dưới mức ERL cĩ thể được coi như khơng cĩ ảnh hưởng đến mơi trường và hệ sinh thái thì hàm lượng Hg đo được tại hồ ĐakMi 4 lại cĩ khả năng ảnh hưởng đến mơi trường và hệ sinh thái. Hơn thế, chúng tơi cũng nhấn mạnh rằng theo QCVN43:2012/BTNMT thì hàm lượng thuỷ ngân trong mẫu trầm tích cho phép đạt giá trị tối đa là 500µg/kg. Như vậy hàm lượng Hg trong mẫu trầm tích hồ ĐakMi 2 ở vị trí 1 và 4 vượt quá ngưỡng cho phép theo QCVN43:2012/BTNMT, sẽ gây những ảnh hưởng nghiêm trọng cho mơi trường và hệ sinh thái (Hình 4). Cuối cùng, với nồng độ Hg trung bình trong các mẫu trầm tích trong lịng hồ ĐakMi4 là ~400 µg/kg và khối lượng trầm tích lắng trong lịng hồ khoảng 0.8 triệu tấn/năm, chúng tơi đã tính được tổng khối lượng thuỷ ngân đã tích tụ trong lịng hồ ĐakMi kể từ lúc đi vào hoạt động (năm 2012) khoảng ~2,0tấn. Đối với hồ sơng Tranh 2, tổng khối lượng thuỷ ngân đã tích tụ trong lịng hồ kể từ khi đi vào hoạt động (năm 2010) ~1,2 tấn. Từ năm 2004, bờ biển Hội An bị rơi vào tình trạng sạt lở nghiêm trọng và nguyên nhân được xác định là do thiếu hụt một lượng lớn bùn cát bồi đắp từ hệ thống sơng Vu Gia - Thu Bồn do việc xây dựng tràn lan đập thuỷ điện trên lưu vực sơng. Một trong những giải pháp được đề xuất là xả bùn cát tích tụ trong các hồ chứa về phía hạ lưu để bù đắp lượng bùn cát đã mất. Tuy nhiên nghiên 7 cứu của chúng tơi đã chỉ ra rằng hàm lượng Hg và cĩ thể các kim loại nặng khác tích tụ trong trầm tích các lịng hồ ở mức độ cao và cĩ thể gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến mơi trường và hệ sinh thái. Do đĩ giải pháp xả bùn cát về phía hạ lưu cần phải xem xét tính tốn kỹ lưỡng để khơng gây ảnh hưởng nghiêm trọng sau này. 4 . Kết luận Hồ thuỷ điện được xây dựng trên các lưu vực sơng, ngồi những lợi ích kinh tế mang lại thì những nguy cơ ảnh hưởng đến mơi trường là điều cần được xem xét cẩn trọng.Hồ thuỷ điện Sơng Tranh 2 và ĐakMi 4 trên lưu vực sơng Vu Gia - Thu Bồn, mặc dù mới đi vào hoạt động từ năm 2010 (Sơng Tranh 2) và 2012 (ĐakMi 4) nhưng lượng trầm tích tích tụ trong lịng hai hồ rất lớn, khơng chỉ ảnh hưởng đến cơng suất hoạt động của các hồ mà cịn đặt ra những thách thức trong việc quản lý những trầm tích này. Một trong những mục tiêu nghiên cứu của dự án “HoiAn project” là tìm ra giải pháp để bảo vệ bờ biển Hội An, trong đĩ việc bù đắp lượng bùn cát xĩi lở bằng bùn cát lắng phía thượng lưu được coi là một trong những giải pháp cứng. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu thu được cho thấy hàm lượng kim loại nặng (thuỷ ngân) tích tụ trong trầm tích hai hồ tại một số vị trí vượt quá tiêu chuẩn cho phép theo QCVN43:2012/ BTNMT, gây nguy cơ đến mơi trường, hệ sinh thái cũng như sức khoẻ con người. Việc sử dụng và xử lý các trầm tích ơ nhiễm này phải được cân nhắc kỹ lưỡng để khơng xảy ra các hậu quả đáng tiếc. Trong các nghiên cứu tiếp theo, chúng tơi sẽ đánh giá mức độ ơ nhiễm của các kim loại nặng khác cũng như nghiên cứu ơ nhiễm kim loại dạng hồ tan và lơ lửng, khơng chỉ trong nước lịng hồ mà cả nước sơng phía thượng lưu và hạ lưu của lưu vực sơng, từ đĩ cĩ thể đánh giá đúng đắn nhất nguyên nhân gây ơ nhiễm, dạng ơ nhiễm và các ảnh hưởng về sức khoẻ và mơi trường do ơ nhiễm kim loại nặng gây ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Alexandra Coynel, Laureline Gorse, Cécile Curti, Jưrg Schafer, Cécile Grosbois, Guia Morelli, Emmanuelle Ducassou, Gérard Blanc, Grégoire M. Maillet, Meryem Mojtahid (2016),Spatial distribution of trace elements in the surface sediments of a major European estuary (Loire Estuary, France): Source identification and evaluation of anthropogenic contribution. J. Sea Res. (2016), org/10.1016/j.seares.2016.08.005. [2] Báo cáo của World bank (2015), Tiếng Anh ( en /323821468127184247/ pdf/E29930REVISED00ronmental0Background.pdf) [3] Báo cáo khoa học Sở Tài nguyên và Mơi trường tỉnh Quảng Nam ( 1/2011),RETA 6470: Managing water in Asia’s river basins: Charting progress and facilitating investment, 71 trang. [4] Đặng Thị Hà, Alexandra Coynel, Marine Deschatre(2014),‘Mercury contamination in the Red River basin (China/Vietnam): A review of the contaminated sites’, Vietnam Journal of Earth sciences, Vol 36 (4), 2014, 497-503. [5] Đào Mạnh Tiến (2008),“Điều tra, đánh giá tài nguyên, mơi trường vùng vịnh Đà Nẵng”,Lưu trữ ĐC, Hà Nội. 8 [6] Long, E.R., Field, L.J., MacDonald, D.D. (1998), Predicting toxicity in marine sediments withnumerical sediment quality guidelines. Environ. Toxicol. Chem. 17, 714-727. [7] MacDonald, D.D., Carr, R.S., Calder, F.D., Long, E.R., Ingersoll, C.G. (1995),Development and evaluation of sediment quality guidelines for Florida coastal waters. Ecotoxicology 5, 253-278, Tiếng Anh. [8] Phạm Thị Nga, Lê Văn Đức, Nguyễn Duy Duyến, Lê Việt Thành (2009), Đánh giá ơ nhiễm kim loại nặng trong trầm tích Vịnh Đà Nẵng : kiến nghị và giải pháp phịng ngừa.( [9] QCVN 43 : 2012/BTNMT, “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng trầm tích”, National Technical Regulation on Sediment Quality. [10] Viers, J., Dupréa, B., Gaillardet, J. (2008), Chemical composition of suspended sediments in World Rivers: New insights from a new database. doi:10.1016/j. scitotenv.2008.09.053. Title: THE INITIAL RESULT OF RESEARCH ON MERCURY POLLUTION IN HYDROPOWERS OF THE VUGIA - THUBON RIVER SYSTEM DANG THI HA Ba Ria - Vung Tau University Abstract: In recent years, with the pressure of population and economic development, there have been significant impacts on the water quality of the VuGia - ThuBon River, including the exploitation of minerals and the construction of hydropowers in the basin. The results show that the mercury concentration of sediment from the reservoirs Dakmi4 and SongTranh2 was very high. In particular, the Hg level measured in sediment of the Dakmi4 reservoir exceeded the standard permission of QCVN 43: 2012/BTNMT. In addition, we have calculated that after 6 to 8 years of reservoir operation, mercury contamination flux in sediment in SongTranh2 and Dakmi4 reservoirs in VuGia-ThuBon river basin obtained from 1.3 to 3.2 tons. The management and useof these mercury-contaminated sediments is a major challenge, not only for the hydropower project management but also for the authorities and people of QuangNam province. Keywords: the VuGia - ThuBon River, sediments, mercury pollution.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf1_ket_qua_nghien_cuu_ban_dau_ve_o_nhiem_0904_2130351.pdf
Tài liệu liên quan