Kết quả giảm nguy cơ nhập viện bằng điều trị phối hợp thuốc fluticasone/salmeterolởbệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang

Tài liệu Kết quả giảm nguy cơ nhập viện bằng điều trị phối hợp thuốc fluticasone/salmeterolởbệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 148 KẾT QUẢ GIẢM NGUY CƠ NHẬP VIỆN BẰNG ĐIỀU TRỊ PHỐI HỢP THUỐC FLUTICASONE/SALMETEROL Ở BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM TIỀN GIANG Tạ Văn Trầm*, Nguyễn Văn Khai**, Trần Viết An*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Việc quản lý và điều trị dự phòng, tránh các đợt bùng phát cấp tính gây đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính phải nhập viện là điều cần thiết. Mục tiêu: Đánh giá kết quả giảm nguy cơ tái nhập viện bằng biện pháp điều trị dự phòng phối hợp thuốc Fluticasone/ Salmeterol ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Phương pháp: Mô tả cắt ngang có can thiệp không đối chứng. Kết quả: Tỷ lệ tái nhập viện sau 2 tháng được điều trị dự phòng fluticasone/ salmeterol là 6,2%. Liên quan giữa nguy cơ tái nhập viện với mức độ khó thở theo MRC sau 1 tháng. Chưa có liên quan giữa nguy cơ tái nhập viện và nhóm tuổi, mức độ khó thở MRC lúc n...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 154 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả giảm nguy cơ nhập viện bằng điều trị phối hợp thuốc fluticasone/salmeterolởbệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 148 KẾT QUẢ GIẢM NGUY CƠ NHẬP VIỆN BẰNG ĐIỀU TRỊ PHỐI HỢP THUỐC FLUTICASONE/SALMETEROL Ở BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM TIỀN GIANG Tạ Văn Trầm*, Nguyễn Văn Khai**, Trần Viết An*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Việc quản lý và điều trị dự phòng, tránh các đợt bùng phát cấp tính gây đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính phải nhập viện là điều cần thiết. Mục tiêu: Đánh giá kết quả giảm nguy cơ tái nhập viện bằng biện pháp điều trị dự phòng phối hợp thuốc Fluticasone/ Salmeterol ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Phương pháp: Mô tả cắt ngang có can thiệp không đối chứng. Kết quả: Tỷ lệ tái nhập viện sau 2 tháng được điều trị dự phòng fluticasone/ salmeterol là 6,2%. Liên quan giữa nguy cơ tái nhập viện với mức độ khó thở theo MRC sau 1 tháng. Chưa có liên quan giữa nguy cơ tái nhập viện và nhóm tuổi, mức độ khó thở MRC lúc nhập viện, tình trạng rối loạn nhịp tim trên điện tâm đồ, giai đoạn bệnh theo FEV1 và biến chứng suy tim phải. Kết luận: Điều trị dự phòng fluticasone/salmeterol giúp giảm mức độ khó thở MRC và rối loạn nhịp tim trước và sau điều trị. Từ khóa: Fluticasone/salmeterol, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. ABSTRACT EFFECTIVENESS OF FLUTICASONE/SALMETEROL COMBINATION THERAPY ON REDUCING HOPITAL ADMISSION OF PATIENTS WITH CHRONIC OBSTRACTIVE PULMONARY DISEASE AT TIEN GIANG GENERAL HOSPITAL Ta Van Tram, Nguyen Van Khai, Tran Viet An * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 5 - 2016: 148 - 153 Background: The preventive management and prophylactic therapy to reduce the risk of acute exacerbation of chronic obstructive pulmonary disease (COPD) requiring hospital admissions are urgent issues. Objective: To evaluate effectiveness of prophylactic therapy with Fluticasone/ Salmeterol combination on reduction of rehospitalization in COPD patients. Methods: Cross-sectional intervention without case-control studies. Results: Rehospitalization rate of patients received fluticasone/ salmeterol combination therapy within two months was 6.2%. The association between the risk of rehospitalization and MRC breathlessness scales was found after one month. There was no relation of the risk of rehospitalization with age, degree of dyspnea according to MRC breathlessness scale, arrhythmia by ECG, stages of COPD based on FEV1, and right- sided heart failure complications. Conclusion: Prophylactic therapy with fluticasone/salmeterol combination would reduce degree of MRC breathlessness and arrhythmia. Keywords: Fluticasone/salmeterol, COPD. * Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang ** Trung tâm Y tế Châu Thành ***Trường Đại học Y Dược Cần Thơ Tác giả liên lạc: PGS TS Tạ Văn Trầm ĐT: 0913771779 Email: tavantram@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 149 ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã xác định các yếu tố nguy cơ nặng cho đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) nhập viện. Trong các nghiên cứu này, đợt cấp nặng được định nghĩa là bệnh nhân tử vong, hoặc không đáp ứng với điều trị kháng sinh, hoặc thời gian nằm viện kéo dài. Các yếu tố tiên lượng tử vong gồm tuổi, mức độ khó thở theo MRC, FEV1 so với giá trị dự đoán, nhiều đợt cấp trong tiền sử, bệnh đồng phát, tiền sử sử dụng Corticosteroid đường uống kéo dài, triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng nguy cơ(2,5,8). Một số nghiên cứu ở Việt Nam nhận xét tỷ lệ bệnh nặng và tử vong trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là 10% đến 18%. Các yếu tố tiên lượng nặng cho bệnh nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính gồm rối loạn tri giác, nhịp thở > 30 lần/ phút, chỉ số pH, PaCO2, PaO2/FiO2, FEV1 so với giá trị dự đoán(2). Ngày nay việc điều trị COPD đã được GOLD phân nhóm lại thành mục tiêu trước mắt và lâu dài(4). Việc quản lý và điều trị dự phòng, tránh các đợt bùng phát cấp tính gây đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính phải nhập viện là điều cần thiết và nên làm nhằm đem lại hiệu quả thiết thực, cải thiện được chức năng hô hấp, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Vì vậy chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Hiệu quả giảm nguy cơ nhập viện bằng điều trị phối hợp thuốc Fluticasone/Salmeterol ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang”. Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá kết quả giảm nguy cơ tái nhập viện bằng biện pháp điều trị dự phòng phối hợp thuốc Fluticasone/ Salmeterol ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Bệnh nhân đợt cấp BPTNMT nhập viện tại khoa Hồi sức cấp cứu và khoa Nội thuộc Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang từ 01/02/2014 đến 31/12/2014. Tiêu chuẩn chọn mẫu Tiêu chuẩn chẩn đoán BPTNMT Bệnh nhân đã có chẩn đoán BPTNMT trước đó: dựa vào kết quả đo chức năng hô hấp từ hồ sơ quản lý ngoại trú trong vòng 12 tháng với FEV1/FVC < 70% sau dùng thuốc dãn phế quản. Bệnh nhân chưa được chẩn đoán BPTNMT: chẩn đoán sơ bộ theo bảng điểm CT-COPD (bảng 2.1): tiêu chuẩn lâm sàng ≥ 140 điểm hoặc tiêu chuẩn lâm sàng và X quang ngực ≥ 210 điểm. Các bệnh nhân này được tái chẩn đoán BPTNMT sau xuất viện 8 tuần bằng cách đo chức năng hô hấp ở phòng khám hô hấp: FEV1/FVC < 0,7 sau dùng thuốc dãn phế quản. Tiêu chuẩn chẩn đoán đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính Dựa trên 3 triệu chứng lâm sàng chính là: khó thở, tăng lượng đàm và đàm có nhày mủ(1). Tiêu chuẩn lọai trừ Tiền căn mắc bệnh hen phế quản. Mắc các bệnh viêm phổi, tràn khí màng phổi, ung thư phổi được xác định bằng phim X quang quy ước. Bệnh nhân thuyên tắc phổi, nhồi máu cơ tim cấp, suy tim cấp. Bệnh nhân hôn mê. Không đồng ý tham gia nghiên cứu. Thiết kế nghiên cứu Mô tả cắt ngang có can thiệp không đối chứng. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu Phần mềm SPSS 16.0. KẾT QUẢ Có 120 mẫu được đưa vào nghiên cứu. Nguy cơ tái nhập viện với nhóm tuổi Bảng 1. Nguy cơ tái nhập viện với nhóm tuổi Nhóm tuổi Tái nhập viện P Có Không <70 tuổi 0 (0%) 23 (100%) 0,330 ≥70 tuổi 6 (8,2%) 67 (91,8%) Tổng cộng 6 (6,2%) 90 (93,8%) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 150 Nguy cơ tái nhập viện với mức độ khó thở MRC1 Bảng 2. Nguy cơ tái nhập viện với mức độ khó thở MRC1 Độ khó thở MRC1 Tái nhập viện p Có Không Độ 2 0 (0%) 10 (100%) 0,161 Độ 3 2 (3,6%) 53 (96,4%) Độ 4 4 (12,9%) 27 (87,1%) Tổng cộng 6 (6,2%) 90 (93,8%) Nguy cơ tái nhập viện so với mức độ khó thở theo MRC2 Bảng 3. Nguy cơ tái nhập viện so với mức độ khó thở theo MRC2 Độ khó thở MRC2 Tái nhập viện p Có Không Độ 2 0 (0%) 43 (100%) 0,031 Độ 3 6 (11,3%) 47 (88,7%) Tổng cộng 6 (6,2%) 90 (93,8%) Sự thay đổi mức độ khó thở theo MRC trước và sau quản lý điều trị dự phòng Bảng 4. Sự thay đổi mức độ khó thở theo MRC trước và sau quản lý điều trị dự phòng Mức độ khó thở Mức độ khó thở MRC2 p Độ 2 Độ 3 MRC1 Độ 2 8 (80,0%) 2 (20,0%) <0,001 Độ 3 35 (63,6%) 20 (36,4%) Độ 4 0 (0%) 31 (100%) Tổng cộng 43 (44,8%) 53 (55,2%) Nguy cơ tái nhập viện và rối loạn nhịp tim sau 2 tháng Bảng 5. Nguy cơ tái nhập viện và rối loạn nhịp tim sau 2 tháng Rối loạn nhịp tim sau 2 tháng Tái nhập viện p Có Không Có 2 (16,7%) 10 (83,3%) 0,162 Không 4 (4,8%) 80 (95,2%) Tổng cộng 6 (6,2%) 90 (93,8%) Sự thay đổi rối loạn nhịp tim trước và sau quản lý điều trị dự phòng Bảng 6. Sự thay đổi rối loạn nhịp tim trước và sau quản lý điều trị dự phòng Rối loạn nhịp tim lúc nhập viện Rối loạn nhịp tim sau 2 tháng (RL nhịp-2) P Không Có RL nhịp-1 Không 68 (100%) 0 (0%) <0,001 Có 16 (57,1%) 12 (42,9%) Tổng cộng 84 (87,5%) 12 (12,5%) So sánh nguy cơ tái nhập viện so với giai đoạn BPTNMT Bảng 7. So sánh nguy cơ tái nhập viện so với giai đoạn BPTNMT (theo FEV1) Giai đoạn BPTNMT Tái nhập viện p Có Không II: Trung bình 0 (0%) 19 (100%) 0,431 III: Nặng 6 (7,9%) 70 (92,1%) IV: Rất nặng 0 (0%) 1 (100%) Tổng cộng 6 (6,2%) 90 (93,8%) Nguy cơ tái nhập viện với biến chứng suy tim phải Bảng 8. Nguy cơ tái nhập viện với biến chứng suy tim phải Suy tim phải Tái nhập viện p Có Không Có 3 (9,1%) 30 (90,9%) 0,401 Không 3 (4,8%) 60 (95,2%) Tổng cộng 6 (6,2%) 90 (93,8%) BÀN LUẬN Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Tuổi Đa số trong độ tuổi 60 - >80 tuổi (91,66 %), với độ tuổi trung bình 75,32 tuổi. Trong đó tuổi trung bình của nam: 74,95; nữ: 77,39. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đó của Đỗ Thị Tường Oanh (tuổi trung bình 65,39±9,32, trung bình của nam: 65,5±9,47, trung bình của nữ: 64,71±8,96)(2); Trần Quốc Hùng (tuổi trung bình 70,88±9,96, trung bình của nam: 70,45±10,19, trung bình của nữ: 73±8,58)(10). Độ tuổi này cũng tương tự như công bố của các tác giả Stolz Daiana là 70,3±9,9(9). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 151 Giới tính Kết quả nhận thấy nam giới chiếm đa số (85%), nữ giới chiếm 15%. Tỉ lệ này tương đương với công trình nghiên cứu của Đỗ Thị Tường Oanh (nam 86,5%, nữ 13,5%)(2) và công trình nghiên cứu của Trần Quốc Hùng (nam 83,2%, nữ 16,8%)(10). Tỉ lệ nghiên cứu này của chúng tôi cũng tương đương với công trình nghiên cứu ở nước ngoài của Gunen (nam 87,9 %, nữ 12,1 %)(6). Sự khác biệt tỉ lệ nam/nữ này được cho là do vai trò của thuốc lá. Theo kết quả nghiên cứu dịch tễ học mới được công bố gần đây về tỉ lệ mắc BPTNMT trong cộng đồng trên toàn quốc ở nam là 3,4%, nữ 1,1% (nam/nữ là 3/1). Tuy nhiên tỉ lệ này thay đổi nhiều theo vùng dân cư, giữa thành thị và nông thôn; giữa các miền Nam, miền Trung và miền Bắc. Trong nghiên cứu của tác giả Phan Thu Phương, Ngô Qúy Châu tại một huyện ở miền núi phía Bắc cho thấy tỉ lệ mắc chung cho cả 2 giới là 3,85%, trong đó nam là 6,92%, nữ là 1,42% (nam/nữ: 4,9/1)(7). Mẫu nghiên cứu của chúng tôi thu thập tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang nên đa số bệnh nhân sống tại thành phố Mỹ Tho và các huyện lân cận thuộc địa phận tỉnh Tiền Giang chủ yếu sống ở thành thị và khu vực nông thôn, nên tỉ lệ mắc nam/nữ của chúng tôi là 5,7/1 là phù hợp với dân số BPTNMT vùng dân cư này. Hút thuốc lá Đại đa số bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đều có yếu tố nguy cơ hàng đầu của BPTNMT là hút thuốc lá, tỉ lệ bệnh nhân đang hút thuốc hay đã từng hút thuốc lá là rất cao (86,67 %). Trong đó tỉ lệ nam hút thuốc lá là 100 % và tỉ lệ nữ hút thuốc lá là 11,1 %. Số gói/năm trung bình 22,071, trong đó trung bình của nam là 25,691 , trung bình của nữ là 1,556. Điều đáng lưu ý là đa số bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đều đã ngưng thuốc lá. Nhiều bệnh nhân ngưng thuốc lá khi đã xuất hiện bệnh hoặc bệnh bắt đầu diễn tiến nặng, một số do nghe theo lời khuyên của bác sĩ, một số tự ý thức được tác hại của thuốc lá lên căn bệnh của mình. Tỉ lệ bệnh nhân đã ngưng thuốc lá 66,67%, và tỉ lệ bệnh nhân còn đang hút 20%. Các tỉ lệ này tương tự như các nghiên cứu trước đó. Tuy nhiên tỉ lệ nữ hút thuốc lá trong nghiên cứu này có thấp hơn 11,1 % so với 28,6%(2), và 14,28%(1). Sự khác biệt này có lẻ là do đặc điểm về yếu tố địa l ý, tập quán sinh hoạt của từng vùng. Những bệnh nhân của chúng tôi nghiên cứu chủ yếu sống ở vùng thành thị, thị trấn nơi tập trung dân cư đông đúc, một số sống ở các huyện thị và nông thôn nên có thể yếu tố nguy chủ yếu đối với nhóm bệnh nhân này là khói thuốc lá thụ động và ô nhiễm môi trường không khí và khí thải. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu ở nước ngoài về tỉ lệ người hút thuốc hay đã từng hút thuốc lá rất nhiều(9). Tiền căn lao phổi cũ Tiền căn lao phổi cũ trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm tỉ lệ khá cao 20%; tỉ lệ này thấp hơn so với nghiên cứu của Đỗ Thị Tường Oanh (52,9 %)(2), và Trần Quốc Hùng (23,5%)(10). Sự khác biệt này có lẻ do nghiên cứu của tác giả Đỗ Thị Tường Oanh thực hiện tại Bệnh viện Lao và bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch, nơi chuyên khoa về lao phổi nên số lượng bệnh nhân có bệnh lao phổi đông hơn và nghiên cứu của tác giả Trần Quốc Hùng thực hiện tại khoa Hô hấp bệnh viện Chợ Rẫy nơi tập trung những bệnh nhân nặng từ các tỉnh về đây nên tỉ lệ bệnh lao phổi có lẽ cao hơn. Tuy nhiên vì nhiều bệnh nhân không lưu giữ đầy đủ hồ sơ điều trị lao trước đó nên không thể xác định được là có tìm thấy hay không tìm thấy vi trùng lao trong đàm. Tình hình lao ở Việt Nam vẫn còn phổ biến, tần suất nhiễm lao và mắc lao khá cao, lưu hành độ nhiễm lao ở thành phố Hồ Chí Minh là 19.6%(2), sau khi bị lao phổi các tổ thương để lại trên phổi có thể là các thương tổn dạng sẹo và xơ, hậu quả là làm cho các khoang chứa khí giãn rộng dẫn đến khí phế Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 152 thủng(2). Trong khi đó chúng tôi không thấy đề cập vấn đề lao phổi cũ ở bệnh nhân BPTNMT trong các y văn nước ngoài đặc biệt là các nước phát triển, có thể do ở các nước này vấn đề chăm sóc sức khỏe phát triển nên hầu như đã thanh toán được bệnh lao. Vì vậy chúng tôi không xác định được có phải là lao phổi cũ là yếu tố nguy cơ trong BPTNMT hay không. Riêng kết quả của chúng tôi, khi khảo sát mối tương quan giữa FEV1 và tiền căn lao phổi cũ không thấy có mối liên hệ này (p = 0,390) . Để xác định vấn đề này cần có những nghiên cứu sâu rộng hơn. Tỉ lệ tái nhập viện Trong tổng số 120 bệnh nhân nhập viện vì đợt cấp BPTNMT có 23 bệnh nhân tử vong, còn lại 97 bệnh nhân được điều trị ổn định cho xuất viện và được đưa vào danh sách quản l ý điều trị dự phòng bằng thuốc Fluticasone/Salmeterol dạng xịt và tái khám theo dõi trong 02 tháng, kết quả ghi nhận như sau. Có 06 bệnh nhân (6,19%) tái nhập viện vì đợt cấp BPTNMT, trong đó có 01 bệnh nhân (giai đoạn 3) nhập viện ở tuần thứ 5, 5 bệnh nhân (giai đoạn 3) nhập viện từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 8. Có 1 bệnh nhân không tuân thủ điều trị và đổi phương pháp điều trị khác. Qua khảo sát những bệnh nhân tái nhập viện này đa số đều có chỉ số FEV1 thấp, có suy tim phải và đồng mắc nhiều bệnh phối hợp. Không có bệnh nhân nào tử vong thêm trong thời gian 2 tháng theo dõi điều trị dự phòng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, trong điều tra tiền sử của bệnh nhân nhập viện vì đợt cấp BPTNMT thì số lần nhập viện trung bình là 3,36 lần/năm, số lần nhập viện vì đợt cấp BPTNMT của 2 tháng trước là 81 bệnh nhân (67,5%). Qua can thiệp điều trị dự phòng 2 tháng bằng thuốc ICS/LABA thì chúng tôi nhận thấy rằng số bệnh nhân tái nhập viện là 6/97 bệnh nhân (6,19%). Như vậy là qua nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy tỉ lệ tái nhập viện này có giảm đi rất là rõ rệt là sau khi điều trị dự phòng so với trước khi điều trị dự phòng là 6,19% so với 67,5%. Nguyên nhân giảm tỉ lệ nhập viện này có thể là do: Bệnh nhân được quản l ý điều trị dự phòng tốt, bệnh nhân có ý thức tự giác tuân thủ điều trị và tái khám định kỳ đầy đủ và dùng thuốc đều đặng, tình trạng bệnh đáp ứng có hiệu quả với thuốc điều trị ICS/LABA. Tỉ lệ tái nhập viện theo mức độ khó thở MRC Trong tổng số 97 bệnh nhân trong danh sách quản lý điều trị dư phòng, có 96 bệnh nhân tuân thủ điều trị và tái khám định kỳ đúng hẹn và dùng thuốc theo toa, có 01 bệnh nhân bỏ trị và chuyển sang phương pháp điều trị khác, sau 2 tháng điều trị và đánh giá lại mức độ khó thở (mức độ khó thở sau 2 tháng so với mức độ khó thở ban đầu) chúng tôi nhận thấy như sau. Có 43/10 bệnh nhân khó thở độ 2, có 53/55 bệnh nhân khó thở độ 3 và 0/31 bệnh nhân khó thở độ 4. Như vậy không còn bệnh nhân khó thở độ 4, số bệnh nhân (31 bệnh nhân) khó thở độ 4 và khó thở độ 3 ban đầu đã giảm mức độ khó thở xuống còn khó thở độ 3 hoặc độ 2 nên làm cho số bệnh nhân khó thở độ 2 tăng lên. Tuy nhiên sự giảm mức độ khó thở này không có ý nghĩa thống kê (p >0,005). Tỉ lệ tái nhập viện theo rối loạn nhịp tim Có 84 bệnh nhân BPTNMT không bị rối loạn nhịp tim, trong đó có 4 bệnh nhân (4,76%) tái nhập viện vì đợt cấp BPTNMT. Có 12 bệnh nhân bị rối loạn nhịp tim (ngọai tâm thu thất và rung nhĩ), trong đó có 2 bệnh nhân (16,7%) tái nhập viện vì đợt cấp BPTNMT. Bệnh nhân BPTNMT có rối loạn nhịp tim có tỉ lệ tái nhập viện cao hơn bệnh nhân không có rối loạn nhịp tim với tỉ lệ là 16,7%/4,76%, tỉ lệ này có sự khác biệt nhưng không có ý nghĩa thống kê (p=0,159). So sánh sự khác biệt về tần số rối loạn nhịp tim của bệnh nhân lúc nhập viện vì đợt cấp Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 153 BPTNMT với tần số rối loạn nhịp tim sau 2 tháng quản lý điều trị dự phòng ICS/LABA. Trong danh sách 96 bệnh nhân BPTNMT đưa vào quản lý, trong đó có 28 bệnh nhân bị rối loạn nhịp tim, sau 2 tháng quản lý điều trị dự phòng thì còn 12 bệnh nhân bị rối loạn nhịp tim. Tỉ lệ rối loạn nhịp tim sau 2 tháng quản lý điều trị dự phòng so với số rối loạn nhịp tim lúc đầu là 12/28 bệnh nhân, tỉ lệ này có sự khác biệt rất rõ rệt và có ý nghĩa thống kê (p=0,001). Tỉ lệ tái nhập viện theo giai đoạn BPTNMT Có 19 bệnh nhân BPTNMT giai đoạn trung bình, không có bệnh nhân tái nhập viện. Có 77 bệnh nhân BPTNMT giai đoạn nặng, trong đó có 6 bệnh nhân (7,8%) tái nhập viện vì đợt cấp. Có 1 bệnh nhân BPTNMT giai đoạn rất nặng nhưng không tái nhập viện vì đợt cấp. Như vậy bệnh nhân tái nhập viện trong 2 tháng được điều trị dự phòng ICS/LABA chủ yếu là ở giai đọan nặng của bệnh đa số đều có chỉ số FEV1 thấp, có suy tim phải và đồng mắc nhiều bệnh phối hợp kèm theo. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). KẾT LUẬN Tỷ lệ tái nhập viện sau 2 tháng được điều trị dự phòng fluticasone/ salmeterol là 6,2%. Liên quan giữa nguy cơ tái nhập viện với mức độ khó thở theo MRC sau 1 tháng. Chưa có liên quan giữa nguy cơ tái nhập viện và nhóm tuổi, mức độ khó thở MRC lúc nhập viện, tình trạng rối loạn nhịp tim trên điện tâm đồ, giai đoạn bệnh theo FEV1 và biến chứng suy tim phải. Qua điều trị dự phòng fluticasone/ salmeterol, nghiên cứu cho thấy hiệu quả giảm mức độ khó thở MRC và rối loạn nhịp tim trước và sau điều trị. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cao Thị Mỹ Thúy (2003), Chẩn đoán, điều trị và theo dõi bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính ngoại trú theo chiến lược toàn cầu đối với bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (GOLD 2001), tr 41-80. 2. Đỗ Thị Tường Oanh (2000), Khảo sát các yếu tố tiên lượng trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, Luận văn thạc sĩ y học, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Donnell, Parker (2006), COPD exacerbations-Pathophysiology, Thorax, pp 354-361. 4. Global Initiative for Obstructive Lung Disease (2011), Global Strategy for the Diagnosis, Management, and Prevention of Chronic Obstructive Pulmonory Disease. 5. Groenewegen KH, Annemie MWJS, Emiel FMW . (2003), “Mortality and Mortality-Related Factors After Hospitalization for Acute Exacerbation of COPD”, CHEST, 124, pp. 459 - 467. 6. Gunen H, Kosar F. (2005), Factors affecting survival of hospitalised patients with COPD, Eur Respir. J, pp 234-241. 7. Phan Thị Phương, Ngô Quý Châu (2009), “Nghiên cứu dịch tễ học bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính trong dân cư huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang”, Y học thực hành, số 12/2009, tr 12-16. 8. Soler-Catalunar JJ, Martinez-Garcia MA, Roman Sanchez P et al (2005), “Severe acute exacerbations and mortality in patients with chronic obstructive pulmonary disease”, Thorax, 60, pp. 925 - 931. 9. Stolz D. (2008), Use of B – Type natiuretic peptide in the risk stratification of Acute Exacerbation of COPD, Chest, pp 1088- 1094. 10. Trần Quốc Hùng (2011), Xác định một số yếu tố tiên lượng tử vong trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, Luận án Bác sĩ chuyên khoa cấp II, Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nhận bài báo: 15/8/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/8/2016 Ngày bài báo được đăng: 05/10/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_giam_nguy_co_nhap_vien_bang_dieu_tri_phoi_hop_thuoc.pdf
Tài liệu liên quan