Tài liệu Kết quả điều trị dị vật đường tiêu hóa tại Bệnh viện Bình Dân: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 233
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ DỊ VẬT ĐƯỜNG TIÊU HÓA
TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN
Đồng Thanh Thiện*, Phan Quốc Việt*, Đỗ Bá Hùng
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Dị vật tiêu hóa do nuốt phải thường xảy ra ở trẻ từ 06 tháng – 06 tuổi, ở người lớn thường do
dị vật lẩn trong thức ăn như: xương cá, xương gà, tăm xỉa răng, răng giả hay xảy ra ở bệnh nhân uống rượu
bia, có răng giả, bệnh tâm thầncó sự giảm nhạy cảm vùng hầu họng với vật lạ khi nuốt phải. Đa số dị vật được
tống ra ngoài theo đường tự nhiên (80%), 20% được can thiệp nội soi lấy dị vật, 1% có biến chứng thủng cần
phẫu thuật can thiệp, tùy thuộc vào kích thước, hình dạng sắc bén của dị vật như xương cá, tăm xỉa răng, xương
gà. Dị vật đường tiêu hóa để lại nhiều biến chứng nguy hiểm, việc chẩn đoán và điều trị biến chứng của dị vật
đường tiêu hóa còn nhiều khó khăn, cần có sự cảnh báo về mức độ nguy hiểm của dị vật tron...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 210 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều trị dị vật đường tiêu hóa tại Bệnh viện Bình Dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 233
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ DỊ VẬT ĐƯỜNG TIÊU HÓA
TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN
Đồng Thanh Thiện*, Phan Quốc Việt*, Đỗ Bá Hùng
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Dị vật tiêu hóa do nuốt phải thường xảy ra ở trẻ từ 06 tháng – 06 tuổi, ở người lớn thường do
dị vật lẩn trong thức ăn như: xương cá, xương gà, tăm xỉa răng, răng giả hay xảy ra ở bệnh nhân uống rượu
bia, có răng giả, bệnh tâm thầncó sự giảm nhạy cảm vùng hầu họng với vật lạ khi nuốt phải. Đa số dị vật được
tống ra ngoài theo đường tự nhiên (80%), 20% được can thiệp nội soi lấy dị vật, 1% có biến chứng thủng cần
phẫu thuật can thiệp, tùy thuộc vào kích thước, hình dạng sắc bén của dị vật như xương cá, tăm xỉa răng, xương
gà. Dị vật đường tiêu hóa để lại nhiều biến chứng nguy hiểm, việc chẩn đoán và điều trị biến chứng của dị vật
đường tiêu hóa còn nhiều khó khăn, cần có sự cảnh báo về mức độ nguy hiểm của dị vật trong cộng đồng nhằm
giảm thiểu tỷ lệ dị vật đường tiêu hóa, cho nên chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm:
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng chẩn. đoán dị vật đường tiêu hóa. Đánh giá kết quả
điều trị lấy dị vật và biến chứng của đường tiêu hóa tại bệnh viện Bình Dân.
Phương pháp nghiên và đối tượng nghiên cứu: Hồi cứu 63 trường hợp bệnh nhân bị dị vật đường tiêu
hóa được điều trị tại bệnh viện Bình Dân từ tháng 01 năm 2014 đến tháng 09 năm 2017. Phân tích thống kê bằng
phép kiểm T, ².
Kết quả: Có 63 trường hợp dị vật tiêu hóa được chọn vào nghiên cứu, tuổi trung bình 49 tuổi, tỷ lệ
Nam/Nữ: 3/2, dị vật thực quản 27% (17/63), dạ dày 36,5% (23/63), tá tràng 12,7% (8/63), ruột non 11,1%
(7/63), đại trực tràng 11,1% (7/63), 01 trường hợp xuyên đại tràng vào ổ bụng 1,6%. Dị vật xương (cá, gà)
(47,6%), tăm (17,5%), răng giả (11,1%), vỏ thuốc (12,7%), que kim loại (9,5%) nắp chai kim loại (1,6%). Hình
dạng dị vật: dạng que mãnh nhọn ở đầu 63,5%, có móc 14,3%, có nhiều góc cạnh 22,2%. Kích thước dị vật trung
bình 3,3 cm (1,5 cm- 20cm). Cơ chế do dị vật lẫn trong thức ăn 49,2%, do nuốt phải 33,3%, thói quen ngậm tăm
sau ăn 17,5%. Biến chứng thủng 25,4% (thủng thực quản, tá tràng, ruột non, đại tràng). Đa số lấy dị vật thành
công qua nội soi 76,2%, 22,3% phẫu thuật lấy dị vật khi có biến chứng, 1,6% điều trị nội khoa.
Kết luận: Biến chứng do dị vật tiêu hóa khó chẩn đoán, thường nhầm với viêm ruột thừa, viêm túi thừa đại
tràng hay thủng dạ dày, bệnh nhân thường quên không nhớ có nuốt dị vật khi ăn, cho nên thường được chẩn
đoán muộn khi có dấu hiệu viêm phúc mạc hay áp-xe ổ bụng. Chẩn đoán nguyên nhân chủ yếu dựa vào CT scan
bụng với hình ảnh xương cá cản quang trong ổ viêm. Phẫu thuật khi có biến chứng thủng đường tiêu hóa, có thể
phẫu thuật nội soi hay mổ mở. Cần có sự tuyên truyền, cảnh báo sự nguy hiểm của biến chứng dị vật tiêu hóa
thay đổi thói quen ăn uống để tránh nuốt phải dị vật tiêu hóa.
Từ khóa: Dị vật tiêu hóa.
* Bệnh viện Bình Dân, Tp.HCM
Tác giả liên lạc: ThS.BS.Đồng Thanh Thiện ĐT: 0918977322 Email: Dongthien78@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 234
ABSTRACT
RESULT IN MANAGEMENT OF INGESTED FOREIGN BODIES IN BINH DAN HOSPITAL
Dong Thanh Thien, Phan Quoc Viet, Do Ba Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 233 - 239
Introduction: Foreign-body ingestion is a common event most often seen in children from 6 months to 6
years of age. In adults, foreign bodies are usually ingested accidentally together with food, such as fish bones,
chicken bone, toothpick, denturesThe populations most susceptible to foreign body ingestion is people who wear
dentures; the tactile sensistivity of the soft palate that is vital for the detection and recognition of small intraoral
objects is diministed by the presence of dentures. Also at risk are alcoholic and psychiatric patients. In about 80%
of cases, the ingested material passes uneventfully through the gastrointestinal tract; endoscopy is performed in
about 20% of cases, and surgery in less than 1%. Perforation occurs in about 1% of all foreign bodies ingested
usually due to long and sharp objects such as fish bones, toothpicks, chicken bones and needles. We here in report
the diagnosis and treatment of a patient with omentum-wrapped abscess caused by a fish bone penetrating the
colon and intestine.
Objective: To determine the characteristics and out come of Foreign body ingestion, the safety and
effectiveness in management of ingested foreign bodies.
Patients & method: Retrospective review of medical record of 63 patients had foreign body in digestion
during January 2014 to September 2017 in Binh Dan Hospital. Two-tailed Fisher′s Exact or ² test were used for
statistical analysis.
Results: Sixty three patients had foreign body were included in the study. Mean age 49 years, Male/ female rate:
3/2, location of foreign body: Esophageal 27% (17/63), Stomach 36,5% (23/63), Duodenum 12,7% (8/63), Small
Intestine 11.1% (7/63), Colon Rectal 11,1% (7/63), intraabdomen 1.6% (1/63). Bones (47.6%), toothpick (17,5%),
Dentures (11.1%), Medicine capsule (11.1%), metallic (11.1%). Classification of foreign bodyies: Size mean: 3.3 cm
(1.5- 20cm), sharp (63.5%), Sharp edges (14.3%), rounded (22,2%). Endoscopy is performed in about 76.2% of cases.
Surgical intervention is required in 22.3% of cases. Two patients esophageal foreign bodies had abscess in
mediastinum due to esophageal perforation. The patientssuffered an operation to drain abscess. No complications
ccurred after surgery and the patients was discharged free of symptoms six-seven days after surgery.
Conclustion: Bowel perforation by foreign bodies can mimic other abdominal conditions such as acute
appendicitis, acute diverticulitis, and perforated peptic ulcer. As the patient usually does not remember fish bone
ingestion, diagnosis can be delayed, with months between ingestion and perforation. CT scanning is the most
accurate exam with fish bones appearing like linear images with calcic density inside an inflamed area. Relative
indications for surgery after ingestion of foreign bodies exist in the case of complications that can not be resolved
endoscopically or after unsuccessful attempts at endoscopic recovery. Surgery intervention is indicated in
complications of ingestion of foreign bodies on laparotomy or laparoscopy.
Keywords: Foreign body, Fish bone.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dị vật tiêu hóa do nuốt phải thường xảy ra ở
trẻ từ 06 tháng – 06 tuổi, ở người lớn thường do
dị vật lẩn trong thức ăn như: xương cá, xương
gà, tăm xỉa răng, răng giả hay xảy ra ở bệnh
nhân uống rượu bia, có răng giả, bệnh tâm
thầncó sự giảm nhạy cảm vùng hầu họng với
vật lạ khi nuốt phải.
Đa số dị vật được tống ra ngoài theo đường
tự nhiên (80%), 20% được can thiệp nội soi lấy dị
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 235
vật, 1% có biến chứng thủng cần phẫu thuật can
thiệp(1,4), tùy thuộc vào kích thước, hình dạng sắc
bén của dị vật như xương cá, tăm xỉa răng,
xương gà(8).
Mục tiêu nghiên cứu
Đặc điểm dị vật tiêu hóa.
Đánh giá kết quả điều trị dị vật đường tiêu
hóa tại bệnh viện Bình Dân.
PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Hồi cứu 63 trường hợp bệnh nhân bị dị vật
đường tiêu hóa được điều trị tại bệnh viện Bình
Dân từ tháng 01 năm 2014 đến tháng 09 năm
2017. Phân tích thống kê bằng phép kiểm T,ᵡ².
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Các bệnh nhân bị dị vật đường tiêu hóa
không phân biệt nam nữ, tuổi lớn hơn 16 được
chọn vào nhóm nghiên cứu.
Các dữ kiện thu thập
Giới, tuổi, tiền căn mắc bệnh, thói quen ăn uống
Triệu chứng lâm sàng
Cận lâm sàng, XQ bụng, CT bụng
Phương pháp điều trị: nội soi lấy dị vật,
phương pháp phẫu thuật
Kết quả điều trị
Tỷ lệ tử vong, biến chứng: thủng thực quản,
dạ dày tá tràng, xì rò chỗ khâu, nhiễm trùng vết
mổ, áp xe tồn lưu trong ổ bụng,viêm phúc mạc
hậu phẫu....
Nhập dữ liệu, xử lý và phân tích thống kê
Các dữ liệu thu thập sẽ được nhập và xử lý
bằng phần mềm SPSS 16,0.
Các số trung bìnhh ± độ lệch chuẩn sẽ được
tính cho số liệu định lượng. Tỷ lệ sẽ tính cho các
số liệu định tính. Dùng phép kiểm T, X², Anova,
các khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ
Cả 63 trường hợp dị vật tiêu hóa được chọn
vào nghiên cứu, tuổi trung bình 49 tuổi,
Nam/Nữ: 3/2, dị vật thực quản 27%(17/63), dạ
dày 36,5%(23/63), tá tràng 12,7%(8/63), ruột non
11,1%(7/63), đại trực tràng 11,1%(7/63), 01 trường
hợp xuyên đại tràng vào ổ bụng 1,6%. Dị vật
xương cá 47,6%, tăm 17,5%, răng giả 11,1%, vỏ
thuốc 11,1%, nắp chai kim loại 1,6%. Hình dạng
dị vật: dạng que mãnh nhọn ở đầu 63,5%, có móc
14,3%, có nhiều góc cạnh 22,2%. Kích thước dị
vật trung bình 3,3 cm (1,5 cm- 20cm). Cơ chế do
dị vật trong thức ăn 49,2%, nuốt phải 33,3%, thói
quen ngậm tăm sau ăn 17,5%. Biến chứng thủng
25,4% (thủng thực quản, tá tràng, ruột non, đại
tràng). Đa số lấy dị vật thành công qua nội soi
76,2%, 22,3% phẫu thuật lấy dị vật khi có biến
chứng, 78% (11/14) trường hợp mổ mở,
21,4%(3/14) mổ nội soi, 1,6% điều trị nội khoa.
Một trường hợp dị vật gây đau thượng vị hạ
sườn (P) 20 ngày, CT bụng thấy hình ảnh dị vật
cản quang cạnh tá tràng DII trong lòng tĩnh
mạch cửa gây huyết khối, được phẫu thuật lấy dị
vật là que kim loại mãnh 4 cm đâm xuyên tá
tràng và xuyên vào lòng tĩnh mạch cửa gây
huyết khối tĩnh mạch cửa. Một trường hợp đau
¼ bụng trên (P) 1 tháng, CT bụng ghi nhận cấu
trúc hình que cản quang sau phúc mạc, sau đầu
tụy trước TM chủ dưới, cạnh tá tràng DII dài
22mm, được phẫu thuật lấy dị vật là 1 que kim
loại mãnh ghim sâu vào mô đầu tụy đến sát TM
chủ dưới. Trong số 16 trường hợp dị vật ở thực
quản: 8/ 16 ở 1/3 trên, 6/16 ở1/3 giữa, 3/16 ở1/3
dưới. Hai trường hợp dị vật 1/3 trên thực quản
có biến chứng thủng thực quản gây abscess cạnh
cổ (T) lan xuống trung thất gây abscess trung
thất, được phẫu thuật khâu lại chổ rách thực
quản và dẫn lưu trung thất, cả hai bệnh nhân hồi
phục tốt không có biến chứng hẹp thực quản.
Trong lô nghiên cứu của của chúng tôi ghi nhận
02 trường hợp dị vật xuyên khỏi thành ruột
được mạc nối lớn bao bọc tạo thành áp xe mạc
nối lớn, được phẫu thuật cắt mạc nối lớn chứa ổ
áp-xe và dị vật.
Thời gian nằm viện trung bình 4,7 ngày,
không có biến chứng do phẫu thuật.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 236
Bảng 1: Đặc điểm và biến chứng của mẫu nghiên cứu
Thực quản
n= 17
Dạ dày
n= 23
Tá tràng
n= 8
Ruột non
n= 7
Đại trực tràng
n= 8
Giá trị P
X
2
Hình dạng dị vật
Que nhọn 7 (11,1%) 15 (23,8%) 7 (11,1%) 6 (7,9%) 5 (8%) P> 0,05
Có móc 6 (9,5%) 01 (1,6%) 0 0 2 (3,2%)
Nhiều góc cạnh 4 (6,3%) 7 (11,1%) 1 (3,2%) 1 (1,6%) 1 (1,6%)
Kích thước dị vật(cm) 2,4 3,2 5,2 3,5 3,3 P> 0,05 Anova
Nội soi 17(100%) 23(100%) 8 (100%) 0 6 (75%) P< 0,005
CT 4(23,5%) 2(8,7%) 3(37,5%) 5(71,4%) 6(75,0%)
Biến chứng do dị vật 2(11,8%) 2(8,7%) 3(37,5%) 6(85,7%) 3(37,5%)
Phương pháp điều trị
Nội soi lấy dị vật 16(94,1%) 21(91,3%) 5(62,5%) 0 6(75,0%)
Phẫu thuật
Mổ mở 1(5,9%) 1(4,3%) 3(37,5%) 4(57,1%) 2(25,0%)
Mổ nội soi 0(0%) 1(4,3%) 0(0%) 2(28,6%) 0(0%)
Nội khoa 0 0 0 1(14,3%) 0
Hình 1. CT scan bụng trường hợp 1
Hình 2. CT scan bụng trường hợp 2
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 237
Hình 3. Dị vật xương cá (trường hợp 1)
Hình 4. Dị vật xương cá đại tràng (trường hợp 2)
BÀN LUẬN
Dị vật tiêu hóa do nuốt phải thường xảy ra ở
trẻ từ 06 tháng – 06 tuổi, ở người lớn thường do
dị vật trộn lẩn thức ăn như: xương cá, xương gà,
tăm xỉa răng, răng giả hay xảy ra ở bệnh nhân
uống rượu bia, có răng giả, bệnh tâm thần, sa sút
trí tuệ..có sự giảm nhạy cảm vùng hầu họng với
vật lạ khi nuốt phải.
Đa số dị vật được tống ra ngoài theo đường
tự nhiên (80%), 20% được can thiệp nội soi lấy dị
vật, 1% có biến chứng thủng cần phẫu thuật can
thiệp. Tùy thuộc vào vị trí kích thước, hình dạng,
độ sắc, vật liệu của dị vật và kích thước, độ gập
góc của ống tiêu hóa mà dị vật có thể thoát qua
được hay không, biến chứng thủng thường xảy
ra ở những nơi hẹp hay gập góc như thực quản,
môn vị, tá tràng, vale hồi manh tràng, và đại
tràng (T) thì dị vật khó thoát qua và dễ đâm
xuyên thành gây thủng. Ngoài ra hình dạng và
kích thước của dị vật cũng là yếu tố nguy cơ gây
biến chúng thủng ống tiêu hóa, dị vật sắc nhọn
và dài có nguy cơ gây biến chứng thủng đường
tiêu hóa. Một số tác giả cho rằng dị vật dài hơn
6cm và đường kính trên 2,5cm thì khả năng tống
qua tá tràng khó khăn (9,14). Tuy nhiên trong
nghiên cứu chúng tôi chiều dài trung bình của
vật 3,3cm, không có sự tương quan giữa kích
thước, hình dạng của dị vật và vị trí đị vật trên
đường tiêu hoá (P> 0,005).
Việc chẩn đoán dị vật tiêu hóa ở thực quản
và dạ dày thường đơn giản, đa số bệnh nhân có
triệu chứng nuốt đau, đau tức sau xương ức đối
với dị vật thực quản, đau thượng vị đối với dị
vật dạ dày tá tràng và được chẩn đoán chính xác
qua nội soi dạ dày tá tràng. Nhưng đối với dị vật
đã xuống ruột non thì chẩn đoán gặp nhiều khó
khăn do triệu chứng không điển hình và thường
nhầm lẫn với các bệnh lý khác trong ổ bụng, nội
soi thông thường không thể soi hết ruột non.
Dị vật tiêu hóa đa số không có triệu chứng
lâm sàng 90%(3), 10% có biểu hiện lâm sàng khi
có biến chứng. Đối với dị vật có tính cản quang
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 238
thì việc chẩn đoán đơn giản bằng X- Quang
bụng, với dị vật không cản quang thì việc chẩn
đoán khó khăn hơn do đó thường được chẩn
đoán muộn khi có biến chứng thủng, dấu hiệu
đau bụng, viêm phúc mạc, áp-xe ổ bụng. CT
scan có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, khảo sát
được hình ảnh, vị trí và bản chất của dị vật,
những bóng hơi tự do trong ổ bụng. Việc chẩn
đoán lâm sàng biến chứng thủng ruột thường bị
trì hoãn và kéo dài do bệnh nhân thường không
nhớ có nuốc dị vật, và thường chẩn đoán nhầm
với bệnh lý viêm ruột thừa cấp, viêm túi thừa đại
tràng, thủng dạ dày. Trong hai trường hợp của
chúng tôi dị vật xương cá mãnh dài và sắc đi
xuyên qua thành ruột vào ổ bụng được mạc nối
bao quanh và tạo áp-xe mạc nối lớn, do xương cá
có đường kính nhỏ nên thương tổn thủng thành
ruột có kích thước nhỏ nên tự diễn tiến lành bít
lổ thủng nên không gây viêm phúc mạc.
Việc điều trị dị vật tiêu hóa ngày nay khá
đơn giản nhờ có sự tiến bộ của nội soi tiêu hóa,
đa số lấy dị vật thành công qua nội soi đối với dị
vật tiêu hóa trên hay đại trực tràng nếu phát
hiện sớm chưa có biến chứng thủng viêm phúc
mạc hay abscess ổ bụng. Đối với dị vật thực
quản thì nội soi lấy dị vật cần có kỹ năng tốt
tránh rách thủng thực quản do thao tác thô bạo
gây hậu quả nặng nề như áp-xe trung thất hay
ap-xe vùng cổ, việc can thiệp phẫu thuật giải
quyết biến chứng này khó khăn và cơ biến
chứng sau mổ cao. Trong nghiên cứu chúng tôi
có hai trường hợp thủng thực quản có biến
chứng áp-xe cổ (T) và trung thất được phẫu
thuật khâu lại thực quản cổ và dẫn lưu trung
thất, kết quả tốt không để lại di chứng hẹp thực
quản hay ap-xe tồn lưu sau mổ. Tuy nhiên bệnh
nhân cần được chăm sóc và hồi sức chuyên sâu,
thời gian nằm viện dài (26 ngày).
Phẫu thuật điều trị đươc chỉ định khi: nội soi
lấy dị vật có biến chứng, nội soi lấy dị vật thất bại,
dị vật có biến nội soi không lấy được. Tỷ lệ phẫu
thuật trong nghiên cứu của chúng tôi12,3% cao
hơn các tác giả khác (1%) có Điều trị dị vật tiêu
hóa có biến chứng là phẫu thuật, làm sạch mủ ổ
bụng, lấy hết dị vật và khâu phục hồi thành tiêu
hóa nếu có thể. Tỷ lệ tử vong vào thập niên 80
khoảng 50% và nghiên cứu gần đây (2012)
khoảng 2%(3), chúng tôi không có trường hợp tử
vong. Phẫu thuật nội soi gắp dị vật và khâu lại
chỗ thủng, hay mổ mở giải quyết các biến chứng
nhiễm trùng, tùy thuộc vào điều kiện và trình độ
của phẫu thuật viên. Trong hai trường hợp, chúng
tôi mổ nội soi thám sát và giải phóng khối mạc nối
chứa áp-xe, kết hợp với mở bụng đường nhỏ cắt
trọn ổ áp-xe, không gây vấy bẩn ổ bụng. Hậu
phẫu không ghi nhận có xì, rò tiêu hóa, và bệnh
được xuất viện ngày thứ 6- 7.
KẾT LUẬN
Biến chứng do dị vật tiêu hóa khó chẩn đoán,
thường nhầm với viêm ruột thừa, viêm túi thừa
đại tràng hay thủng dạ dày, bệnh nhân thường
quên không nhớ có nuốt dị vật khi ăn, cho nên
thường được chẩn đoán muộn khi có dấu hiệu
viêm phúc mạc hay áp-xe ổ bụng. Chẩn đoán
nguyên nhân chủ yếu dựa vào CT scan bụng với
hình ảnh dị vật cản quang trong ổ viêm.
Đa số dị vật thực quản được chẩn đoán dễ
dàng thông qua nội soi, tuy nhiên biến chứng
ở thực quản để lại hậu quả nặng nề: áp-xe
vùng cổ, trung thất phẫu thuật giải quyết
biến chứng này rất khó khăn và nặng nề cần
phẫu thuật viên chuyên khoa sâu. Do đó nội
soi lấy dị vật thực quản đòi hỏi bác sĩ nội soi
có kỹ năng tốt, tránh biến chứng thủng hay
rách thực quản để lại hậu quả nghiêm trọng
như rò thực quản, áp-xe trung thất
Phẫu thuật là biện pháp duy nhất giải quyết
biến chứng của vật gây thủng đường tiêu hóa, có
thể phẫu thuật nội soi hay mổ mở.
Cần có sự tuyên truyền rộng rãi, cảnh báo
sự nguy hiểm của biến chứng dị vật tiêu hóa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 239
thay đổi thói quen ăn uống để tránh nuốt phải
dị vật tiêu hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ali FE, Al-Busairi WA, Esbaita EY, Al-Bustan MA.
Chronic perforation of the sigmoid colon by foreign body.
Curr Surg. 2005;62:419–422.
2. De Bakker JK, Nanayakkara PW, Geeraedts LM, Jr, et al.
Body packers: a plea for conservative treatment.
Langenbecks Arch Surg. 2012;397:125–130.
3. Mesina C, Vasile I, Valcea DI, Pasalega M, Calota F,
Paranescu H, Dumitrescu T, Mirea C, Mogoanta S.
Problems of diagnosis and treatment caused by ingested
foreign bodies. Chirurgia (Bucur) 2013;108:400–406.
4. Sierra-Solís A. [Bowel perforations due to fish bones: rare
and curious] Semergen. 2013;39:117–118.
5. Joglekar S, Rajput I, Kamat S, Downey S. Sigmoid
perforation caused by an ingested chicken bone
presenting as right iliac fossa pain mimicking
appendicitis: a case report. J Med Case Rep. 2009;3:7385.
6. Sarliève P, Delabrousse E, Michalakis D, Robert A,
Guichard G, Kastler B. Multidetector ct diagnosis of
jejunal perforation by a chicken bone. JBR-BTR.
2004;87:294–295.
7. Rodríguez-Hermosa JI, Codina-Cazador A, Sirvent JM,
Martín A, Gironès J, Garsot E. Surgically treated
perforations of the gastrointestinal tract caused by
ingested foreign bodies. Colorectal Dis. 2008;10:701–707.
8. Sierra-Solís A. [Bowel perforations due to fish bones: rare
and curious] Semergen. 2013;39:117–118.
9. Yao CC, Yang CC, Liew SC, Lin CS. Small bowel
perforation caused by a sharp bone: laparoscopic
diagnosis and treatment. Surg Laparosc Endosc Percutan
Tech. 1999;9:226–227.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/12/2017
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_dieu_tri_di_vat_duong_tieu_hoa_tai_benh_vien_binh_da.pdf