Tài liệu Kết quả điều trị 52 trường hợp phình động mạch chủ bụng dưới thận bằng can thiệp nội mạch tại Bệnh viện Chợ Rẫy: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 187
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ 52 TRƯỜNG HỢP
PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ BỤNG DƯỚI THẬN
BẰNG CAN THIỆP NỘI MẠCH TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Nguyễn Văn Quảng*, Phạm Minh Ánh*, Trần Quyết Tiến**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị phình động mạch chủ bụng dưới thận bằng can thiệp nội mạch.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả.
Kết quả: Có 52 bệnh nhân phình động mạch chủ bụng (ĐMCB) duới thận được can thiệp với tuổi trung
bình 73,2 ± 6,3; nam giới 40 trường hợp (76,9%). Tăng huyết áp 63,5% và hút thuốc lá chiếm 71,1%; bệnh mạch
vành 59,6%. Chiều dài cổ túi phình trung bình 28 ± 9,1mm; đường kính cổ gần túi phình trung bình 18,3 ±
3,6mm; gập góc cổ túi phình 63,1 ± 9,4 độ; đường kính trung bình của túi phình là 55,17 ± 8,6 mm; chiều dài
ĐMC từ ngay dưới ĐM thận thấp hơn đến chạc ba chủ- chậu trung bình 109 ± 16,7mm. Mổ chương trình chiếm
tỉ lệ cao (96,2%)...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều trị 52 trường hợp phình động mạch chủ bụng dưới thận bằng can thiệp nội mạch tại Bệnh viện Chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 187
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ 52 TRƯỜNG HỢP
PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ BỤNG DƯỚI THẬN
BẰNG CAN THIỆP NỘI MẠCH TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Nguyễn Văn Quảng*, Phạm Minh Ánh*, Trần Quyết Tiến**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị phình động mạch chủ bụng dưới thận bằng can thiệp nội mạch.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả.
Kết quả: Có 52 bệnh nhân phình động mạch chủ bụng (ĐMCB) duới thận được can thiệp với tuổi trung
bình 73,2 ± 6,3; nam giới 40 trường hợp (76,9%). Tăng huyết áp 63,5% và hút thuốc lá chiếm 71,1%; bệnh mạch
vành 59,6%. Chiều dài cổ túi phình trung bình 28 ± 9,1mm; đường kính cổ gần túi phình trung bình 18,3 ±
3,6mm; gập góc cổ túi phình 63,1 ± 9,4 độ; đường kính trung bình của túi phình là 55,17 ± 8,6 mm; chiều dài
ĐMC từ ngay dưới ĐM thận thấp hơn đến chạc ba chủ- chậu trung bình 109 ± 16,7mm. Mổ chương trình chiếm
tỉ lệ cao (96,2%). Gây tê tại chỗ cho đa số các trường hợp (44,2%). Đặt ống ghép nội mạch trong phình ĐMCB
đơn thuần 5,8%; ĐMCB đến ĐM chậu 2 bên 82,7%; ĐMCB đến ĐM chậu 1 bên 11,5%; làm tắc động mạch
chậu trong 25% trường hợp. Thời gian nằm viện trung bình là 5,7 ± 3,2 ngày. Thời gian can thiệp trung bình
195 67,5 phút. Biến chứng nhồi máu cơ tim 3,8%; suy hô hấp 1,9%; tử vong 1,9%; rò ống ghép loại II 17,6%.
Tỷ lệ thành công ngắn hạn trong vòng 30 ngày và trung hạn lần lượt là 98,1% và 96,1%.
Kết luận: Can thiệp nội mạch điều trị phình ĐMCB là phương pháp hiệu quả, với tỷ lệ biến chứng và tử
vong thấp, thời gian hồi phục nhanh, thích hợp cho các bệnh nhân lớn tuổi kèm nhiều bệnh kết hợp.
Từ khóa: Phình động mạch chủ bụng dưới thận, điều trị nội mạch phình ĐMCB, ống ghép nội mạch.
ABSTRACT
OUTCOME OF ENDOVASCULAR REPAIR OF INFRARENAL ABDOMINAL AORTIC ANEURYSM
AT CHO RAY HOSPITAL: 52 CASES
Nguyen Van Quang, Pham Minh Anh, Tran Quyet Tien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 187 - 194
Objective: To evaluate the results of endovascular repair (EVAR) of infrarenal abdominal aortic
aneurysm (AAA).
Methods: Prospective descriptive.
Results: The study has 52 patients with mean ages 73.8 ± 9.2, 40 cases of male (76.9%), hypertension was
63.5%, smoking was 71.1% and coronary disease was 59.6%. Proximal neck average length was 28 ± 9.1mm;
proximal neck diameter average was 18.3 ± 3.6mm mm; neck angulations was 63.1 ± 9.4; AAA average diameter
was 55.1 ± 8.6 mm; length from lowest renal artery to aortic bifurcation average was 110 ± 19.5mm. The elective
EVAR is higher rates (96.2%). Local anesthesia was almost cases (44.2%). The tube stent graft were used in
5.8%, aorto-uni iliac (AUI) stent graft in 11.5% and bifurcated stent graft in 82.7% of cases. The mean of
hospital stay was 5.7 ± 3.2days. The procedure times had 205.5 87.7 minutes. Myocardial infarction was 3.8%,
* Khoa Phẫu thuật Mạch máu, Bệnh viện Chợ Rẫy
** Bộ môn Ngoại Lồng ngực – Tim mạch Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Văn Quảng ĐT: 0918042185 Email: nguyenquangrom@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 188
acute respiratory failure was 1.9%, mortality rate was 1.9%, type II endoleak was 17.6%. The successful rates of
30 days and middle-term results were 98.1% and 96.1%, respectively.
Conclusions: EVAR is safe and effective in treatment of AAA with lower rate of morbility and mortality,
faster of recovery. That were especially suitable in elderly patients which high risk and comorbidities.
Keywords: Abdominal Artery Aneurysm (AAA), EVAR, Stent graft.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phình động mạch chủ bụng là bệnh
thường gặp ở người lớn tuổi. Tần suất bệnh
khoảng 5% dân số trên 60 tuổi ở Mỹ(5), 4-8%
nam và 1-3% nữ trên 60 tuổi ở Châu Âu(1). Ở
Việt Nam, theo nghiên cứu của Văn Tần bệnh
gặp khoảng 0,85% dân số trên 50 tuổi ở thành
phố Hồ Chí Minh(9).
Mặc dù có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán,
điều trị và gây mê hồi sức nhưng tỷ lệ tử
vong, biến chứng sau mổ phình động mạch
chủ bụng vẫn còn là một thách thức cho ngành
phẫu thuật mạch máu, đặc biệt ở các bệnh
nhân có nguy cơ phẫu thuật cao do lớn tuổi, có
nhiều bệnh kết hợp.
Cách đây hơn hai thập kỷ, trên thế giới, can
thiệp đặt ống ghép nội mạch đã được thực hiện
để điều trị một số bệnh lý động mạch chủ. Năm
1987 Volodos, phẫu thuật viên người Ucraina, đã
thực hiện thành công lần đầu tiên trên thế giới
can thiệp đặt ống ghép nội mạch (Stent Graft)
điều trị phình động mạch chủ ngực. Năm 1991,
tại Achentina, Parodi tiến hành thành công phẫu
thuật tương tự nhưng để điều trị phình động
mạch chủ bụng. Năm 1992, tại Mỹ, Veith đã thực
hiện cùng Parodi đặt ống ghép nội mạch điều trị
thành công phình động mạch chủ bụng. Sau đó
phương pháp này được nhiều phẫu thuật viên
tiến hành nhiều nơi trên thế giới.
Ở Việt Nam, tại bệnh viện Chợ Rẫy, chúng
tôi đã tiến hành đặt ống ghép nội mạch điều trị
phình động mạch chủ từ tháng 5/2012 và đã thu
được những kết quả rất khả quan. Vì vậy, chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
“Đánh giá kết quả điều trị phình động mạch chủ
bụng dưới thận bằng can thiệp nội mạch”.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu mô tả
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Lấy mẫu từ tháng 05 năm 2012 đến tháng 12
năm 2015 tại khoa Phẫu thuật Mạch máu bệnh
viện Chợ Rẫy, theo dõi bệnh nhân đến tháng 12
năm 2016.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân phình ĐMCB dưới thận được
điều trị bằng can thiệp nội mạch tại BV Chợ Rẫy.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những trường hợp phình ĐMCB dưới thận
kèm phình động mạch chủ ngực, hoặc có phẫu
thuật mở động mạch chủ bụng trước đó.
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân nghiên cứu được hỏi
bệnh sử, thăm khám lâm sàng, chụp điện toán
cắt lớp dựng hình động mạch chủ.
Các thông số của phình ĐMCB được đo đạc
bằng phầm mềm OsiriX.
Chỉ định can thiệp: Phình ĐMC bụng có
triệu chứng, phình dạng túi, hoặc đường kính túi
phình ≥5cm ở nam, ≥4,5cm ở nữ, phình động
mạch chậu ≥3cm.
Điều kiện giải phẫu học của túi phình
Cổ gần của túi phình có chiều dài trên
15mm, đường kính dưới 32mm, gập góc dưới 60
độ, khi cổ túi phình gập góc trên 60 độ chỉ định
cân nhắc dựa trên chiều dài túi phình, kinh
nghiệm phẫu thuật viên, thành động mạch chủ
đoạn cổ túi phình không vôi hóa nặng, không
huyết khối thành dày.
Đường kính động mạch chậu ≥7mm.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 189
Ghi nhận kết quả phẫu thuật sớm 30 ngày
sau can thiệp và theo dõi sau 1, 3, 6, 12 tháng và
hàng năm sau đó qua khám lâm sàng và chụp
điện toán cắt lớp dựng hình động mạch chủ.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung bệnh nhân nhóm nghiên
cứu
Đặc điểm
Số bệnh nhân
n=52
Tỷ lệ (%)
Tuổi trung bình 73,2 ± 6,3
Giới nam 40 76,9
Tăng huyết áp 33 63,5
Hút thuốc lá 37 71,1
Rối loạn mỡ máu 38 73,1
Đái tháo đường 3 5,8
Bệnh mạch vành 31 59,6
Hẹp động mạch cảnh 9 17,3
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính 4 7,6
Bệnh thận mạn tính 2 3,8
Đặc điểm giải phẫu phình ĐMCB
Bảng 2. Đặc điểm giải phẫu phình ĐMCB
Đặc điểm giải phẫu phình
ĐMCB
Trung bình
Nhỏ
nhất
Lớn
nhất
Chiều dài cổ túi phình (mm) 28 ± 9,1 14 46
Đường kính cổ túi phình (mm) 18,3 ± 3,6 14 26
`Góc cổ túi phình (độ) 63,1 ± 19,4 19 105
Đường kính túi phình (mm) 55,17 ± 8,6 31 87
Chiều dài ĐMC từ dưới ĐM thận
đến ngã 3 chủ- chậu (mm)
109 ± 16,7 84 156
Đường kính ngã 3 chủ-chậu (mm) 21 ± 7,4 17 48
Đặc điểm phương pháp can thiệp nội mạch
và kết quả chu phẫu
Bảng 3. Đặc điểm phương pháp can thiệp đặt ống
ghép nội mạch
Phương pháp can thiệp
Số bệnh
nhân
Tỷ lệ
(%)
Mổ cấp cứu
và mổ
chương trình
Mổ cấp cứu 2 3,8
Mổ chương trình 50 96,2
Phương pháp
vô cảm
Mê nội khí quản 7 13,5
Tê tủy sống 22 42,3
Tê tại chỗ 23 44,2
Phương pháp
đặt ống ghép
nội mạch
ĐMCB đơn thuần 3 5,8
ĐMCB đến ĐM chậu 2 bên 43 82,7
ĐMCB đến ĐM chậu 1 bên 6 11,5
Làm tắc động mạch chậu
trong
13 25
Bảng 4. Tỷ lệ tử vong và biến chứng nghiêm trọng
trong vòng 30 ngày sau can thiệp
Biến chứng nghiêm trọng
Số bệnh nhân
(n=52)
Tỷ lệ
(%)
Tử vong trong 30 ngày sau can thiệp 1 1,9
Đột quỵ 0 0
Nhồi máu cơ tim 2 3,8
Suy thận cần điều trị thay thế thận 0 0
Suy hô hấp 1 1,9
Yếu hoặc liệt hai chi dưới 0 0
Thiếu máu ruột 0 0
Vỡ túi phình sau can thiệp 0 0
Bảng 5. Tỷ lệ biến chứng liên quan kỹ thuật can thiệp
trong 30 ngày
Biến chứng liên quan kỹ thuật và dụng
cụ can thiệp
Số bệnh
nhân
Tỷ lệ
(%)
Tổn thương động mạch đường vào 0 0
Di lệch ống ghép 0 0
Rò ống ghép
Loại I 0 0
Loại II 5 9,6
Loại III 0 0
Loại IV 0 0
Tắc, hẹp ống ghép 0 0
Gãy xoắn ống ghép 0 0
Thiếu máu chi dưới cần can thiệp 0 0
Kết quả chu phẫu: Bung ống ghép thành
công 100% các trường hợp.
Đánh giá kết quả chu phẫu: Thành công: 51
trường hợp, tỷ lệ 98,1%. Không thành công: 1
trường hợp, tỷ lệ 1,9% (1 trường hợp tử vong hậu
phẫu do nhồi máu cơ tim, suy tim, suy hô hấp).
Kết quả trung hạn
Đến cuối tháng 12/2016, thời gian theo dõi
trung bình là 21,3 ± 8,7 tháng; ngắn nhất 12 tháng
và dài nhất 54 tháng. Ngoại trừ 1 trường hợp tử
vong chu phẫu, 51 bệnh nhân còn lại được
chúng tôi liên lạc theo dõi định kỳ. Trong số đó,
1 bệnh nhân tử vong vào tháng thứ 6 do nhiễm
trùng huyết, 1 bệnh nhân tử vong do già yếu suy
kiệt 44 tháng sau can thiệp.
Đánh giá kết quả trung hạn: Thành công: 49
trường hợp, chiếm tỷ lệ 96,1%. Không thành
công: 2 trường hợp, chiếm tỷ lệ 3,9%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 190
Bảng 6. Tỷ lệ tử vong và biến chứng nghiêm trọng
sau 30 ngày
Biến cố nghiêm trọng
Số bệnh
nhân (n=51)
Tỷ lệ
(%)
Tử vong 2 3,9
Đột quỵ 0 0
Nhồi máu cơ tim 0 0
Suy thận cần điều trị thay thế thận 0 0
Suy hô hấp 0 0
Yếu liệt hai chi dưới 0 0
Thiếu máu nuôi ruột 0 0
Tăng kích thước túi phình >5mm 0 0
Vỡ túi phình 0 0
Can thiệp lại 0 0
Bảng 7. Tỷ lệ các biến chứng liên quan kỹ thuật can
thiệp sau 30 ngày
Biến chứng liên quan kỹ thuật và dụng
cụ can thiệp
Số bệnh
nhân
Tỷ lệ
(%)
Nhiễm trùng vết mổ 0 0
Rò ống ghép 9 17,6
Loại I 0 0
Loại II 9 17,6
Loại III 0 0
Loại IV 0 0
Tắc hẹp ống ghép 0 0
Gãy, xoắn ống ghép 0 0
Thiếu máu chi dưới cần can thiệp 0 0
Nhiễm trùng ống ghép 0 0
Rò ống ghép-ruột 0 0
BÀN LUẬN
Bảng 8. So sánh đặc điểm tuổi, yếu tố nguy cơ, bệnh lý kèm theo
Đặc điểm EVAR1
(2)
DREAM
(4)
ACE
(1)
OVER
(5)
Chúng tôi
Tuổi trung bình 74,1 70 69 70 73,2
Hút thuốc lá 90,5% 59,6% 49,2% 95,5% 71,1
Tăng huyết áp 56,4% 64,9% 76,8% 63,5
Rối loạn lipid máu 49,8% 67,2% 73,1
Đái tháo đường 10,3% 16,4% 22,7% 5,8
Bệnh mạch vành 42,3% 43,8% 38,1% 40,7% 59,6
Bệnh phổi mạn 23% 23,7% 29,4% 7,6
Bệnh thận mạn 8% 12% 31,3% 3,8
Trong nhóm nghiên cứu, tỷ lệ bệnh mạch
vành chiếm 59,6% với 18 trường hợp cần can
thiệp mạch vành trước can thiệp động mạch
chủ bụng.
Đặc điểm phương pháp can thiệp
Trong nghiên cứu, có 2 trường hợp phình
ĐMCB vỡ phải can thiệp cấp cứu, còn 50 trường
hợp can thiệp chương trình. Can thiệp đặt ống
ghép nội mạch đã dần trở thành thường quy.
Một ưu thế của can thiệp nội mạch so với mổ mở
trong điều trị phình ĐMCB là bệnh nhân không
cần gây mê toàn thân. Trong nghiên cứu này, chỉ
có 7 trường hợp (13,5%) được gây mê, đây là
những trường hợp đầu tiên thực hiện can thiệp,
dự tính thời gian can thiệp có thể kéo dài. 22
trường hợp (42,3%) được gây tê tuỷ sống. Có 23
trường hợp (44,2%) được gây tê tại chỗ trong đó
2 trường hợp là bệnh nhân phình ĐMCB vỡ,
được can thiệp cấp cứu. Tất cả đều không xảy ra
biến chứng liên quan đến phương pháp vô cảm.
Trong điều trị phình ĐMCB, phương pháp
can thiệp tiêu chuẩn là đặt ống ghép từ ngay
dưới ĐM thận thấp hơn đến ĐM chậu chung 2
bên. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có tổn thương
hay giải phẫu không phù hợp, cần có sự điều
chỉnh đối với từng trường hợp cụ thể. Chẳng
hạn như chỉ đặt ống ghép ĐMCB đơn thuần,
hoặc đặt ống ghép ĐMCB đến ĐM chậu chung 1
bên, hoặc đặt ống ghép ĐMCB đến ĐM chậu
ngoài kèm làm tắc ĐM chậu trong. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, có 3 trường hợp (5,8%) được
đặt ống ghép ĐMCB đơn thuần, đây là bệnh
nhân chỉ có phình ĐMCB, không kèm phình ĐM
chậu chung, và đoạn ĐMCB trên và dưới túi
phình đủ tiêu chuẩn về chiều dài, đường kính và
chất lượng thành mạch để ống ghép bám vào
nên chỉ cần đặt ống ghép ĐMCB đơn thuần.
Chúng tôi có 6 bệnh nhân được đặt ống ghép
ĐMCB đến ĐM chậu 1 bên, kèm với làm tắc ĐM
chậu chung bên đối diện và thực hiện phẫu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 191
thuật cầu nối ĐM đùi-đùi. Trong 6 trường hợp
kể trên, 1 trường hợp có đường kính ngã 3 chủ-
chậu nhỏ (14mm) và 1 trường hợp cổ túi phình
dài đi kèm với túi phình ngắn (42 mm). 2 trường
hợp này không thích hợp để bung ống ghép từ
ĐMCB đến ĐM chậu 2 bên. Các trường hợp còn
lại bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao, phình
ĐMCB lớn (65 - 77mm) kèm phình ĐM chậu
chung 1 bên kích thước rất lớn (80mm) nên
phương án được chọn lựa là đặt ống ghép
ĐMCB đến ĐM chậu chung 1 bên, làm tắc ĐM
chậu bị phình và cầu nối ĐM đùi-đùi, vừa giúp
rút ngắn thời gian can thiệp, vừa điều trị triệt để
phình ĐM chậu chung kích thước lớn. Smit
nghiên cứu về vấn đề can thiệp đặt ống ghép
ĐMCB đến ĐM chậu 1 bên kèm bắc cầu ĐM đùi
– đùi, 33 trường hợp được can thiệp đều thành
công với thời gian phẫu thuật trung bình là 148
phút (dao động từ 40 đến 237 phút), với thời
gian theo dõi trung bình 24,4 tháng, tỷ lệ tử vong
là 30,3%, chỉ có 1 trường hợp (3%) tắc cầu nối
ĐM đùi-đùi và ổn định sau khi được can thiệp
tái thông(8). Trong nghiên cứu của chúng tôi, cầu
nối ĐM đùi-đùi trong 6 trường hợp trên hiện
vẫn còn thông tốt. Việc can thiệp đặt ống ghép
ĐMCB đến ĐM chậu 1 bên kèm cầu nối ĐM đùi-
đùi giúp mở rộng chỉ định can thiệp đặt ống
ghép nội mạch trong điều trị phình ĐMCB, có
thể được sử dụng trong những trường hợp:
Hẹp hoặc tắc ĐM chậu, ĐM đùi 1 bên.
ĐM chậu, ĐM đùi quá ngoằn ngoèo.
ĐM chậu, ĐM đùi vôi hoá nhiều.
Bóc tách ĐM chậu, ĐM đùi.
Việc bung chân đối diện của ống ghép trong
lòng ĐMCB khó khăn.
Lòng túi phình ĐMCB nhỏ do huyết khối
bám thành nhiều.
Đường kính ngã 3 chủ-chậu nhỏ.
Túi phình ngắn.
Những trường hợp cấp cứu cần rút ngắn
thời gian can thiệp.
Một vấn đề cần quan tâm trong kỹ thuật và
chiến lược can thiệp đặt ống ghép nội mạch điều
trị phình ĐMCB là làm tắc ĐM chậu trong.
Trong 52 trường hợp được can thiệp, có 13
trường hợp (25%) được làm tắc ĐM chậu trong.
Mục đích chính của việc làm tắc ĐM chậu trong
để tránh biến chứng rò ống ghép loại 2 sau khi
đặt ống ghép kéo dài đến ĐM chậu ngoài. Làm
tắc ĐM chậu trong được áp dụng trong những
trường hợp can thiệp nội mạch đặt ống ghép
ĐMCB đến ĐM chậu 1 hay 2 bên mà đoạn ĐM
chậu chung để ống ghép bám vào không đủ
chiều dài, hoặc bệnh nhân có kèm theo phình
ĐM chậu trong cần điều trị, cụ thể:
ĐM chậu chung ngắn (<10 mm).
Phình ĐM chậu chung mà đoạn ĐM chậu
chung còn lại < 10 mm.
Phình ĐM chậu trong.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy việc
làm tắc ĐM chậu trong là cần thiết và an toàn.
Theo dõi 12 tháng, tỷ lệ đau cách hồi vùng mông
dao động từ 27-57%, không thấy trường hợp nào
thiếu máu trực tràng hay tuỷ sống(6). 13 trường
hợp của chúng tôi không ghi nhận các biến
chứng trên. Việc làm tắc ĐM chậu trong có thể
thực hiện cùng lúc với đặt ống ghép hoặc trước
khi đặt ống ghép. Nếu làm tắc cả 2 ĐM chậu
trong thì cần thực hiện cách nhau 1 tuần để tránh
thiếu máu đột ngột vùng chậu. Tuy nhiên, hiện
nay các trung tâm trên thế giới đang hướng tới
việc bảo tồn ĐM chậu trong, nếu ĐM chậu trong
không có bệnh lý (phình hay tắc), bằng cách đặt
ống ghép nội mạch vào tới tận ĐM chậu trong.
Đánh giá kết quả chu phẫu
Tất cả các trường hợp đều bung ống ghép
thành công. Các nghiên cứu lớn trên thế giới cho
thấy tỷ lệ can thiệp thất bại, phải chuyển mổ mở
là 0,7 – 1,7%, tỷ lệ lấp ĐM thận do ống ghép là
0,3%(1,3,4,6). Không có biến chứng trong 30 ngày
như chảy máu vết mổ, nhiễm trùng vết mổ, tắc
mạch chi, rò bạch huyết. Không có trường hợp
nào dị ứng, sốc phản vệ, suy thận do thuốc cản
quang. Có 2 trường hợp nhồi máu cơ tim hậu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 192
phẫu 1 trường hợp tử vong và 1 trường hợp ổn
định sau điều trị nội khoa. Theo y văn trên thế
giới, tỷ lệ nhồi máu cơ tim trong các nghiên cứu
can thiệp nội mạch từ 2,5-10%(4).
Thời gian nằm viện trung bình là 5,7 ngày, ít
nhất là 3 ngày và nhiều nhất là 17 ngày. Các
bệnh nhân đều trở lại sinh hoạt và thực hiện các
hoạt động bình thường sau 2 ngày can thiệp.
Đây là ưu điểm của can thiệp nội mạch, bệnh
nhân nhanh chóng hồi phục và trở về với sinh
hoạt thường ngày. Theo dõi các bệnh nhân trong
30 ngày sau can thiệp, chúng tôi phát hiện 5
trường hợp rò ống ghép loại II, 1 trường hợp rò
từ ĐM mạc treo tràng dưới, các trường hợp còn
lại rò từ ĐM thắt lưng.
Tỷ lệ rò ống ghép loại II chu phẫu dao động
từ 15-20%(2). Sau 1 năm, tỷ lệ này giảm còn
khoảng 5-10%. Rò ống ghép loại II thường được
điều trị bảo tồn khi túi phình không tăng kích
thước. Trong trường hợp rò ống ghép loại II kèm
tăng kích thước túi phình trên 10 mm, cần phải
điều trị. Hầu hết các trường hợp có thể can thiệp
thành công bằng các phương pháp làm tắc mạch
ít xâm lấn. ĐM mạc treo tràng dưới có thể làm
tắc bằng cách can thiệp nội mạch thả coil qua
cung Riolan từ ĐM mạc treo tràng trên. Một
phương pháp khác có thể sử dụng là chọc kim
vào túi phình dưới sự hướng dẫn của CT Scan và
bơm keo sinh học làm tắc. Phẫu thuật nội soi ổ
bụng ngoài phúc mạc và kẹp ĐM mạc treo tràng
dưới hoặc ĐM thắt lưng cũng là một lựa chọn
thay thế. Không có trường hợp rò loại I hay loại
III. Theo một số nghiên cứu, tần suất rò ống ghép
loại I có thể lên đến 10%, có thể xảy ra ngay sau
khi đặt ống ghép nội mạch hay trong thời gian
theo dõi sau đó. Rò loại I dẫn đến nguy cơ vỡ
phình rất cao nên được khuyến cáo xử trí trong
mọi trường hợp. Phần lớn rò loại I được điều trị
thành công bằng can thiệp nội mạch. Nếu thất
bại, chuyển mổ mở cắt túi phình và ghép mạch
nhân tạo.
Kết quả chu phẫu thành công chiếm 98,1%,
tương đương với nhiều trung tâm trên thế giới.
Với ưu điểm là xâm lấn tối thiểu, kết quả ngắn
hạn đáng khích lệ, can thiệp đặt ống ghép nội
mạch đã bước đầu khẳng định được vai trò
trong điều trị phình ĐMCB.
Đánh giá kết quả trung hạn
Thời gian theo dõi trung bình là 21,3 tháng,
ngắn nhất là 12 tháng, dài nhất là 54 tháng. Có 1
trường hợp tử vong vào tháng thứ 6 do nhiễm
trùng huyết và 1 trường hợp tử vong sau 44
tháng do bệnh nhân già yếu suy kiệt; chiếm
3,9%. Các nghiên cứu lớn trên thế giới cho thấy
tỷ lệ tử vong tăng dần theo thời gian, chủ yếu do
bệnh mạch vành và bệnh lý ung thư. Nghiên
cứu ACE theo dõi 2,5 năm, tử vong 11,3%,
nghiên cứu OVER theo dõi 5,2 năm, tử vong
32,9%, nghiên cứu DREAM theo dõi 6,4 năm, tử
vong 33,5%, nghiên cứu EVAR1 theo dõi 7,5
năm, tử vong 41,5%(1,2,4,5). Chỉ riêng trong nghiên
cứu EVAR1, khi chia thời gian theo dõi qua các
khoảng cho thấy trong 6 tháng đầu tử vong
4,2%, trong 4 năm tử vong 24,1% và sau 7,5 năm
tử vong là 41,5%(4). Đặc điểm chung của bệnh
nhân phình ĐMCB là lớn tuổi, nhiều bệnh phối
hợp và tiên lượng sống lâu dài không cao. So với
mổ mở, các nghiên cứu đều cho thấy can thiệp
nội mạch có tỷ lệ tử vong chung khi theo dõi dài
hạn khác nhau không có ý nghĩa thống kê. Tuy
nhiên, tỷ lệ tử vong trong 2 năm đầu của can
thiệp nội mạch thấp hơn và đặc biệt tử vong chu
phẫu thấp hơn mổ mở có ý nghĩa thống kê.
Bên cạnh nhồi máu cơ tim, các nghiên cứu về
tim mạch còn quan tâm đến biến cố đột quỵ.
Trong nghiên cứu này, qua 32 tháng từ trường
hợp đầu tiên được can thiệp, không có trường
hợp đột quỵ nào được ghi nhận. Nghiên cứu
EVAR1 ở Anh qua 7,5 năm có tỷ lệ đột quỵ là
4,8%, cao hơn nhồi máu cơ tim(2). Đa số các
trường hợp đột quỵ là nhồi máu não do bệnh lý
mạch máu não, một biểu hiện của bệnh lý mạch
máu toàn thân, ảnh hưởng đến tỷ lệ sống còn và
chất lượng sống của các bệnh nhân phình
ĐMCB. Do đó, sau khi can thiệp điều trị phình
ĐMCB, bệnh nhân cần tiếp tục được điều trị nội
khoa liên tục tình trạng tăng huyết áp, rối loạn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 193
mỡ máu,... để phòng ngừa các yếu tố nguy cơ
tim mạch.
Bảng 9. So sánh tỷ lệ các biến chứng nghiêm trọng
Đặc điểm EVAR1 DREAM OVER
Chúng
tôi
Số BN được can thiệp
điều trị phình ĐMCB
626 173 444 52
Thời gian theo dõi trung
bình
7,5 năm 6,4 năm 5,2 năm
1,75nă
m
Tổng số tử vong 41,5% 33,5% 32,9% 3,9%
Tử vong do tim mạch
(tính trên tổng tử vong)
38,8% 27,6% 33,6% 33,33%
Nhồi máu cơ tim không
tử vong
4,2% 1,9%
Đột quỵ 4,8% 0%
Suy thận 1,9% 0%
Vỡ túi phình sau can
thiệp
0,6% 1,4% 0%
Can thiệp lại 23,2% 27,7% 22,1% 0%
Chức năng thận là một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian sống của
bệnh nhân. Quy trình can thiệp nội mạch điều trị
phình ĐMCB cần sử dụng chất cản quang để
chụp động mạch là chất độc thận nên việc theo
dõi chức năng thận là cần thiết. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, không có trường hợp nào xảy
ra bệnh thận do thuốc cản quang sau can thiệp.
Với thời gian theo dõi trung bình 21,3 tháng,
chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào xảy ra
suy thận không hồi phục dẫn đến cần điều trị
thay thế thận. Các nghiên cứu trên thế giới qua
thời gian theo dõi lâu dài (>5 năm) ghi nhận suy
thận xảy ra ở khoảng 2% các trường hợp được
can thiệp nội mạch điều trị phình ĐMCB.
Mục đích của việc can thiệp ngoại khoa điều
trị phình ĐMCB, cho dù là can thiệp đặt ống
ghép nội mạch hay mổ mở, đều giúp ngăn ngừa
nguy cơ vỡ phình ĐMCB, một biến chứng nguy
hiểm dẫn đến tử vong cao. Tuy vậy, sau khi can
thiệp thành công, vẫn tồn tại một tỷ lệ các bệnh
nhân vỡ túi phình. Nghiên cứu của chúng tôi
chưa ghi nhận trường hợp nào vỡ túi phình sau
can thiệp. Các nghiên cứu trên thế giới theo dõi
lâu dài ghi nhận tỷ lệ vỡ túi phình sau can thiệp
là 0,6 - 2%, khác nhau không có ý nghĩa thống kê
so với mổ mở(2,4,5). Đây là biến chứng nặng, nếu
không phát hiện và can thiệp kịp thời sẽ dẫn đến
tử vong nhanh chóng. Chính vì vậy, việc theo
dõi định kỳ những bệnh nhân phình ĐMCB sau
can thiệp là quan trọng, nhằm đánh giá các biến
chứng rò ống ghép cũng như thay đổi kích thước
túi phình, nếu có chỉ định cần can thiệp sớm để
tránh vỡ phình.
Qua theo dõi 51 bệnh nhân, với thời gian
dài nhất là 54 tháng và ngắn nhất là 12 tháng
sau phẫu thuật, tất cả đều được chụp cắt lớp
điện toán kiểm tra. Hình ảnh cho thấy có 9
trường hợp (17,6%) rò ống ghép loại II, rò từ
ĐM mạc treo tràng dưới và ĐM thắt lưng. Cả
9 trường hợp đều không có tăng kích thước túi
phình trên 5mm, chưa có chỉ định can thiệp
làm tắc đường rò. Một nghiên cứu phân tích
gộp trên 10288 bệnh nhân ghi nhận 41% có sự
gia tăng kích thước túi phình sau 5 năm. Một
điểm cần chú ý là 30% các trường hợp túi
phình gia tăng kích thước sau can thiệp 3
năm(7). Ngoài ra, các biến chứng khác liên
quan đến ống ghép như di lệch ống ghép, tắc
ống ghép, đứt gãy hay xoắn vặn ống ghép
chưa được ghi nhận cho đến thời điểm này.
KẾT LUẬN
Can thiệp nội mạch là phương pháp điều trị
hiệu quả với tỷ lệ biến chứng và tử vong thấp,
thời gian hồi phục nhanh. Kết quả sau can thiệp
và trung hạn với tỉ lệ thành công cao. Đặc biệt
thích hợp cho các bệnh nhân lớn tuổi có nhiều
yếu tố nguy cơ và bệnh kết hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Becquemin JP, et al (2011). A randomized controlled trial of
endovascular aneurysm repair versus open surgery for
abdominal aortic aneurysms in low-to- moderate-risk patients.
J Vasc Surg, 53(5):1167-1173.
2. Brown LC, et al (2012). The UK Endovascular Aneurysm repair
(EVAR) trials: randomised trials of EVAR versus standard
therapy. Health Technology Assessment, 16(9):1-212.
3. Collin J, et al. (1988). Oxford screening programme for
abdominal aortic aneurysm in men aged 65 to 74 years. Lancet,
2(8611):613-615.
4. DeBruin JL, et al (2010). Long-Term of Open or Endovascular
Repair of Abdominal Aortic Aneurysm. New England Journal of
Medicine, 362(20):1881-1889.
5. Lederle FA, et al (2012). Long-Term Comparison of
Endovascular and Open Repair of Abdominal Aortic
Aneurysm. New England Journal of Medicine, 367(21):1988-1997.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 194
6. Rhodes K, et al (2011). Bilateral internal iliac artery occlusion
for EVAR. Vascular disease management, 8:E1-E5.
7. Schanzer A, Greenberg RK, Hevelone N, et al (2011). Predictors
of abdominal aortic aneurysm sac enlargement after
endovascular repair. Circulation, 123(24):2848–2855.
8. Smit JGM, Marle JV (2012). Repair of abdominal aortic
aneurysms with aorto-uni-iliac stentgraft and femoro-femoral
bypass. S Afr J Surg, 50(2):33-36.
9. Văn Tần, Phan Thanh Hải, Lê Hoàng Ninh và cs (2008). Phình
động mạch chủ bụng dưới động mạch thận tại Tp HCM: Tần
suất và các yếu tố nguy cơ mẫu điều tra 4807 người trên 50
tuổi. Y học Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Y Dược TP.HCM, chuyên
đề hội nghị khoa học kỹ thuật bệnh viện Bình Dân, tập 12, phụ
bản số 1, tr. 5-77.
Ngày nhận bài báo: 15/02/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/02/2017
Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_dieu_tri_52_truong_hop_phinh_dong_mach_chu_bung_duoi.pdf