Tài liệu Kết quả can thiệp nội mạch điều trị phình động mạch chủ ngực đoạn xuống tại Bệnh viện Chợ Rẫy: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 304
KẾT QUẢ CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ
NGỰC ĐOẠN XUỐNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Trần Quyết Tiến*, Phan Quốc Hùng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả can thiệp nội mạch điều trị phình động mạch chủ ngực (ĐMCN) tại bệnh viện
Chợ Rẫy.
Phương pháp: Mô tả tiến cứu.
Kết quả: Từ 4/2014 đến tháng 4/2016, 30 bệnh nhân phình động mạch chủ ngực đoạn xuống đã được điều
trị đặt ống ghép nội mạch tại bệnh viện Chợ Rẫy, trong đó tuổi trung bình là 65,7 ± 11,4, lớn nhất là 87, nhỏ nhất
41, nam giới 73,3%. Đau ngực 50%, khàn tiếng 16,7%. 19 trường hợp (63,3%) cần chuyển vị các nhánh ĐM
trên quai ĐMC ngực, trong đó 5 trường hợp (16,7%) chuyển vị toàn bộ 3 nhánh của quai động mạch chủ, 14
trường hợp (46,6%) chuyển vị động mạch dưới đòn trái-cảnh chung trái-cảnh chung phải. 1 trường hợp (3,3%)
bít ĐM dưới đòn T. Thời gian can thiệp trung bình 151 ± 73.1 phút, thời gian nằm viện sa...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả can thiệp nội mạch điều trị phình động mạch chủ ngực đoạn xuống tại Bệnh viện Chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 304
KẾT QUẢ CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ
NGỰC ĐOẠN XUỐNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Trần Quyết Tiến*, Phan Quốc Hùng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả can thiệp nội mạch điều trị phình động mạch chủ ngực (ĐMCN) tại bệnh viện
Chợ Rẫy.
Phương pháp: Mô tả tiến cứu.
Kết quả: Từ 4/2014 đến tháng 4/2016, 30 bệnh nhân phình động mạch chủ ngực đoạn xuống đã được điều
trị đặt ống ghép nội mạch tại bệnh viện Chợ Rẫy, trong đó tuổi trung bình là 65,7 ± 11,4, lớn nhất là 87, nhỏ nhất
41, nam giới 73,3%. Đau ngực 50%, khàn tiếng 16,7%. 19 trường hợp (63,3%) cần chuyển vị các nhánh ĐM
trên quai ĐMC ngực, trong đó 5 trường hợp (16,7%) chuyển vị toàn bộ 3 nhánh của quai động mạch chủ, 14
trường hợp (46,6%) chuyển vị động mạch dưới đòn trái-cảnh chung trái-cảnh chung phải. 1 trường hợp (3,3%)
bít ĐM dưới đòn T. Thời gian can thiệp trung bình 151 ± 73.1 phút, thời gian nằm viện sau can thiệp là 9.38 ±
6.52 ngày. Tất cả các trường hợp bung ống ghép thành công. Biến chứng tổn thương động mạch đường vào
(động mạch chậu ngoài) 1 trường hợp 3,3%. Tử vong chu phẫu 3,3% do suy hô hấp, tràn khí màng phổi-trung
thất. Thời gian theo dõi trung bình 12 ± 1,8 tháng. Tử vong trong thời gian theo dõi 2 trường hợp (6,9%) nguyên
nhân do vỡ phình, yếu 2 chi dưới 1 trường hợp (3,4%) rò ống ghép loại Ia 1 trường hợp (3,4%), di lệch ống ghép
1 trường hợp (3,4%).
Kết luận: Đặt ống ghép nội mạch điều trị phình động mạch chủ ngực đoạn xuống cho kết quả tốt, biến
chứng và tử vong thấp. Kết quả lâu dài: cần theo dõi, đánh giá tiếp.
Từ khoá: ống ghép nội mạch, phình động mạch chủ ngực xuống, chuyển vị động mạch
ABSTRACT
THE RESULTS OF ENDOVASCULAR STENT-GRAFTING FOR TREATMENT OF DESCENDING
THORACIC AORTIC ANEURYSMS AT CHORAY HOSPITAL
Tran Quyet Tien, Phan Quoc Hung
*Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 304 - 310
Purpose: To evaluate the results of stent-grafting for treatment of descending thoracic aortic aneurysms
(DTAA) at Choray hospital.
Method: Prospective.
Results: From April, 2014 to April, 2016, 30 patients with DTAA treated by endovascular surgery at Cho
Ray hospital. Average age is 65.7 ± 11.4, oldest patient is 87 years old, youngest patient is 41 years old, 73.3% of
patients is male. Chest pain 50%, hoarseness 16.7%. 63.3% supra-aortic arteries debranching (total debranching
16.7%, left subclavian-carotid artery transposition 46.6%). Left subclavian coverage 3.3%. Average operative
time 151 ± 73.1 minutes. Stent-graft deployment success rate is 100%. Perioperative complication rate 3.3%.
Perioperative mortality rate 3.3% due to respiratory failure. Average follow-up time is 12 ± 1.8 months. Endoleak
Ia 3.4%, migration 3.4%, lower lim paraplegia 3.4%, follow-up mortality rate 6.9% due to ruptured aneurysms.
Conclusion: Endovascular surgery for treatment of DTAA has good results. Mortality and complications
*Bộ môn Phẫu thuật Tim - Mạch và Lồng ngực
Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS Trần Quyết Tiến ĐT: 0983997725 Email: tienchoray@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 305
rate are low. Long-term result: need further evaluation.
Key words: stent graft, descending thoracic aortic aneurysm, artery debranching
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật kinh điển điều trị phình động
mạch chủ ngực (ĐMCN) đến nay vẫn là một
thách thức không nhỏ đối với phẫu thuật viên
trên toàn thế giới. Theo báo cáo của nhiều trung
tâm phẫu thuật mạch máu có kinh nghiệm trên
thế giới, tỷ lệ tử vong chu phẫu cao trong phẫu
thuật cấp cứu từ 25 - 35%, trong phẫu thuật
chương trình từ 2,8 - 12%(1). Tỷ lệ liệt tuỷ sau mổ
của phẫu thuật cấp cứu là 10 - 12,5%, của phẫu
thuật chương trình là 2,8 - 5%. Tỷ lệ đột quỵ sau
mổ của phẫu thuật cấp cứu là 8 - 25,1 %, của
phẫu thuật chương trình là 4,1 - 7%(2). Mặc dù
hiện nay ngành gây mê hồi sức đã phát triển rất
nhiều nhưng nhìn chung phẫu thuật trong điều
trị phình ĐMCN đoạn xuống vẫn là một cuộc
phẫu thuật lớn, đường mổ dài, tỷ lệ tử vong và
biến chứng sau mổ cao, thời gian cuộc mổ kéo
dài, thời gian nằm hồi sức và nằm viện lâu.
Hơn 15 năm qua, điều trị phình động
mạch chủ ngực đã có những thay đổi đáng kể
do sự phát triển của kỹ thuật can thiệp nội
mạch. Can thiệp nội mạch là phương pháp lựa
chọn đối với những bệnh nhân phình động
mạch chủ ngực nguy cơ cao. Năm 1987,
Volodos, phẫu thuật viên Ucraina, đã tiến
hành thành công đầu tiên trên thế giới trường
hợp đặt ống ghép nội mạch (Stent Graft) điều
trị phình động mạch chủ ngực(3). Năm 1994,
Dake đặt ống ghép nội mạch điều trị phình
động mạch chủ ngực tại Hoa Kỳ.
Năm 1999, FDA chính thức công nhận
các sản phẩm ống ghép nội mạch tại Hoa
Kỳ. Với tỷ lệ tử vong thấp, hậu phẫu nhẹ
nhàng, thời gian nằm viện ngắn... đặt ống
ghép nội mạch đã bùng nổ tại rất nhiều
quốc gia trên thế giới...
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm
mục đích đánh giá kết quả của can thiệp nội
mạch trong điều trị phình động mạch chủ
ngực tại bệnh viện Chợ Rẫy.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
30 bệnh nhân phình ĐMC ngực đến khám
và điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 4/2014
đến tháng 4/2016.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định phình
ĐMCN đoạn xuống có chỉ định can thiệp và
điều trị bằng phương pháp đặt ống ghép
nội mạch.
Chỉ định can thiệp bao gồm những trường
hợp sau:
Phình ĐMCN đoạn xuống với kích thước lớn
hơn 5,5cm.
Phình ĐMCN đoạn xuống có triệu chứng.
Phình ĐMCN đoạn xuống dạng túi.
Phình ĐMCN đoạn xuống với kích thước túi
phình phát triển nhanh (kích thước tăng hơn 1
cm mỗi năm hay 0,5 cm mỗi 6 tháng).
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có tiền căn mổ mở hoặc can thiệp
ĐMCN trước đây.
Bệnh nhân có kèm theo bóc tách ĐMCN.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp mô tả hàng loạt ca.
Các bước tiến hành nghiên cứu
Thu thập các dữ liệu về lâm sàng, cận lâm
sàng, hình ảnh cắt lớp điện toán, hình ảnh can
thiệp trong quá trình đặt ống ghép, liên lạc với
thân nhân và bệnh nhân qua điện thoại để thu
thập số liệu theo mẫu sau khi tái khám.
Đánh giá trước can thiệp
Lý do vào viện, bệnh sử, khám lâm sàng.
Tiền sử và các yếu tố nguy cơ: tăng huyết áp,
đái tháo đường, suy tim, suy gan, suy thận, rối
loạn lipid máu, hút thuốc lá, đặt stent mạch vành
và các bệnh lý khác.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 306
Hình thái học của phình ĐMCN: sử dụng
hình ảnh cắt lớp điện toán mạch máu có cản
quang và phần mềm Osirix 5.8.2 để xác định các
đặc điểm:
Cổ gần túi phình: khoảng cách từ đầu gần túi
phình đến ĐM dưới đòn trái, ĐM cảnh chung
trái và ĐM thân tay đầu, đường kính, mức độ
vôi hoá.
Cổ xa túi phình: đường kính, khoảng cách từ
đầu xa túi phình đến ĐM thân tạng.
Túi phình: chiều dài, đường kính lớn nhất.
Hình dạng túi phình: dạng thoi, dạng túi.
Phình ĐMCN đoạn xuống vỡ hay không vỡ,
có cần can thiệp cấp cứu hay không.
Đường kính nhỏ nhất của ĐMC bụng,
đường kính của ĐM chậu ngoài và ĐM đùi
hai bên.
Đánh giá trong can thiệp
Phương pháp vô cảm: mê nội khí quản hay
tê tại chỗ.
Phương pháp phẫu thuật:
* Có chuyển vị các nhánh ĐM trên quai
ĐMC trước can thiệp hay không.
* Đặt ống ghép nội mạch vào ĐMCN : vị trí
đặt, kích thước ống ghép. Thời gian phẫu thuật:
tính từ lúc rạch da đến lúc kết thúc khâu da.
* Số lượng máu mất và số lượng thuốc cản
quang sử dụng trong phẫu thuật.
* Các biến chứng can thiệp: vỡ ĐM, bóc tách
ĐM, tổn thương ĐM chậu đùi, tắc mạch đoạn xa
và cách xử trí nếu có.
Đánh giá sau can thiệp đến lúc xuất viện
Thời gian nằm hồi sức sau can thiệp. Thời
gian nằm viện sau can thiệp.
Những biến chứng sau can thiệp.
Cận lâm sàng sau mổ: creatinin máu, men
gan, men tim, công thức máu, ion đồ.
Đánh giá theo dõi tại thời điểm 1 tháng, 3
tháng, 6 tháng, 1 năm và hàng năm
Các biến cố xảy ra trong quá trình theo dõi:
tử vong, đột quỵ, nhồi máu cơ tim, suy tim, suy
thận, yếu liệt hai chi dưới và các biến cố khác.
Hình thái học của phình ĐMCN sau can thiệp
qua hình ảnh cắt lớp điện toán:
Rò ống ghép và các loại rò ống ghép.
Sự di lệch ống ghép.
Sự lưu thông máu trong lòng ống ghép.
Độ bền ống ghép: xác định có hay không sự
gãy, xoắn, gập ống ghép.
Kích thước túi phình : sự thay đổi so với
trước can thiệp.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Từ tháng 04/2014 đến 4/2016, 30 bệnh nhân
phình ĐMCN đoạn xuống được điều trị bằng
phương pháp can thiệp đặt ống ghép nội mạch
tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Trong đó có 22 nam
(73,3%) và 8 nữ (26,7%), tuổi trung bình là 65,7 ±
11,4 tuổi, lớn nhất là 87 tuổi, nhỏ nhất là 41 tuổi.
Bảng 1: Tiền căn nhóm nghiên cứu
Tiền căn Số trường hợp (n) Tỉ lệ (%)
THA 27 90,0
RL lipid 9 30,0
Bệnh mạch vành 7 23.3
Suy thận 2 6,7
TBMMN 2 6
COPD 1 3,3
Suy tim 1 3,3
Tiểu đường 1 3,3
Bảng 2: Triệu chứng lâm sàng trước can thiệp
Triệu chứng Số trường hợp (n) Tỉ lệ (%)
Đau ngực 15 50,0
Khàn tiếng 5 16,7
Đau bụng 1 3,3
Ho khan 1 3,3
Đặc điểm hình thái phình động mạch chủ
ngực đoạn xuống
Trong 30 trường hợp phình ĐMCN đoạn
xuống dạng hình thoi chiếm đa số với 20 trường
hợp, chiếm 66,7%. Có 2 trường hợp phình
ĐMCN đoạn xuống vỡ, 28 trường hợp còn lại
không vỡ. Đường kính trung bình của túi phình
ĐMCN là 64,63 ± 17,62mm, lớn nhất là 114 mm,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 307
nhỏ nhất là 38 mm. Trường hợp có đường kính
38 mm là bệnh nhân có túi phình dạng túi. Tất cả
các trường hợp có chiều dài cổ xa lớn hơn 20mm.
Bảng 3: Đặc điểm hình thái phình động mạch chủ ngực đoạn xuống
Thông số Trung bình Lớn nhất Thấp nhất
Thời gian phẫu thuật (phút) 151 ± 73,1 450 60
Số lượng ống ghép sử dụng 1,53 ± 0,68 3 1
Lượng máu mất trong mổ (ml) 152,67 ± 173 1000 20
Lượng chất cản quang sử dụng (ml) 94,8 ± 35,6 153 45
Thời gian nằm viện sau mổ 9,38 ± 6,52 30 1
Đặc điểm phương pháp can thiệp và thông
số chu phẫu
* Trong 30 trường hợp trên có 29 trường hợp
can thiệp chương trình (96,7%), 1 trường hợp
(3,33%) can thiệp cấp cứu do phình ĐMCN vỡ.
Có 23 trường hợp (76,7 %) được gây mê NKQ.
* Số trường hợp cần được chuyển vị các
nhánh trên quai ĐMC ngực để có vùng hạ đặt
thích hợp là 19 (63,3 %). Trong đó có 5 trường
hợp được chuyển vị toàn bộ 3 nhánh của quai
ĐMC ngực lên, 14 trường hợp được chuyển vị
ĐM dưới đòn trái – ĐM cảnh chung trái – ĐM
cảnh chung phải. Có 1 trường hợp đặt ống ghép
che phủ ĐM dưới đòn trái mà không kèm
chuyển vị.
Bảng 4: Các thông số phẫu thuật và hậu phẫu
Kích thước Trung bình (mm) Lớn nhất (mm) Nhỏ nhất (mm)
Đường kính cổ gần 31,31 ± 4,01 38,3 23
Đường kính cổ xa 26,55 ± 4,26 38 19
Đường kính túi phình 64,63 ± 17,62 114 38
Chiều dài cổ gần 28,06 ± 37,28 160 0
Chiều dài túi phình 111,33 ± 83,73 340 24
Chiều dài ĐMCN dự tính bao phủ 192,15 ± 91,72 415 86,6
Đường kính ĐM chậu ngoài P 7,2 ± 1,16 10 5
Đường kính ĐM chậu ngoài T 7,07 ± 1,22 9 4,1
Kết quả chu phẫu (trong vòng 30 ngày)
Bảng 5: Kết quả trong lúc thực hiện thủ thuật
Kết quả mổ Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Bung ống ghép thành công 30 100
Chuyển mổ mở 0 0
Tử vong 0 0
Các tai biến
* Vỡ ĐMC 0 0
* Bóc tách ĐMC 0 0
* Tổn thương ĐM đường vào 1 3,3
* Lấp ĐM nuôi não 0 0
* Lấp ĐM nuôi tạng 0 0
(Bảng 6) Trong thời gian chu phẫu, có 1
trường hợp tử vong ở ngày thứ 1 sau can thiệp,
tỷ lệ 3,3 %. Nguyên nhân tử vong là suy hô hấp,
tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất sau rút
nội khí quản, không liên quan đến túi phình. Các
trường hợp còn lại không ghi nhận các biến cố
nghiêm trọng khác như nhồi máu cơ tim, suy
thận, đột quỵ hay yếu liệt hai chi dưới. Trong 30
trường hợp bung ống ghép thành công, chụp
kiểm tra lại sau đặt ghi nhận có 3 trường hợp rò
ống ghép loại I, 1 trường hợp rò ống ghép loại II
và 1 trường hợp tổn thương ĐM chậu ngoài phải
nhưng đã khắc phục thành công. Không ghi
nhận trường hợp nào di lệch, tắc hẹp ống ghép
và lấp động mạch nuôi não ngoài ý muốn.
Bảng 6: Tỷ lệ tử vong và các biến chứng trong thời
gian chu phẫu
Biến chứng nghiêm trọng Số bệnh
nhân
Tỷlệ %
Tử vong 1 3,3
Nhồi máu cơ tim 0 0
Suy thận cần điều trị thay thế thận 0 0
Suy hô hấp cần thở máy 1 3,3
Đột quỵ 0 0
Yếu hoặc liệt hai chi dưới 0 0
Vỡ túi phình sau lần đầu can thiệp 0 0
Can thiệp lại 0 0
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 308
Bảng 7: Tỷ lệ các biến chứng liên quan đến ống ghép
nội mạch
Biến chứng liên quan đến kỹ
thuật
Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Di lệch ống ghép >10mm 0 0
Rò ống ghép
Loại I 3 10
Loại II 1 3,3
Tắc, hẹp ống ghép 0 0
Gãy, xoắn, gập ống ghép 0 0
Tăng đường kính ĐMCN 0 0
Bảng 8: Đánh giá kết quả chu phẫu
Đánh giá kết quả chu phẫu Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Thành công 29 96,7
Không thành công 1 3,3
Kết quả ngắn hạn
Thành công: 27 trường hợp, tỷ lệ 93,1%.
Không thành công: 2 trường hợp, tỷ lệ 6,9
% (1 trường hợp tử vong do rò ống ghép loại I
và 1 trường hợp tăng kích thước > 5 mm gây
vỡ túi phình).
BÀN LUẬN
Trong 30 trường hợp được can thiệp đặt ống
ghép nội mạch, có 1 trường hợp phình ĐMCN
đoạn xuống được can thiệp cấp cứu trong vòng
24 giờ do nhập viện trong bệnh cảnh vỡ túi
phình. 29 trường hợp còn lại được can thiệp theo
chương trình. Điều đó cho thấy phương pháp
can thiệp đặt ống ghép nội mạch có thể thực
hiện mọi tình huống dù là cấp cứu hay chương
trình. Trước khi có phương pháp can thiệp ống
ghép nội mạch, tỷ lệ tử vong trong phẫu thuật
cấp cứu phình động mạch chủ ngực đoạn xuống
rất cao từ 35-50%. Trong khi đó, theo kết quả báo
cáo của nhiều nghiên cứu, tỷ lệ tử vong chu
phẫu của can thiệp đặt ống ghép nội mạch cấp
cứu trong phình ĐMCN đoạn xuống vỡ từ 4,3 %
– 17,1 %(1).
Một ưu thế của can thiệp nội mạch so với mổ
mở trong điều trị phình ĐMCN đoạn xuống là
bệnh nhân có thể không cần gây mê toàn thân.
Trên thế giới có nhiều nghiên cứu so sánh kết
quả của các phương pháp vô cảm trong can
thiệp đặt ống ghép nội mạch. Kết quả của nhiều
nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt trong
tỷ lệ tử vong chu phẫu giữa các phương pháp vô
cảm. Tuy nhiên, nhiều tác giả lại khuyến cáo gây
mê toàn thân trong đặt ống ghép nội mạch vì
phương pháp gây mê giúp phẫu thuật viên kiểm
soát dễ dàng huyết áp trong lúc bung ống ghép
nội mạch. Không những thế, gây mê toàn thân
giúp BN nằm yên trong lúc thao tác, điều này
tránh việc tăng huyết áp do cường giao cảm khi
đau và tránh được những tổn thương ĐM
đường vào trong lúc can thiệp.
Trong điều trị phình ĐMCN đoạn xuống,
một vấn đề hay gặp là chuyển vị các nhánh ĐM
trên quai ĐMC ngực. Việc chuyển vị là bắt buộc
nếu chiều dài đầu gần túi phình nhỏ hơn 20mm
nhằm tạo ra vùng hạ đặt thích hợp cho ống ghép
nội mạch.
Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ cần được
chuyển vị cao hơn hẳn so với các nghiên cứu của
Glade, Bavaria, Matsumura do tiêu chuẩn chọn
bệnh của các nghiên cứu này gồm những trường
hợp có đầu gần túi phình cách ĐM dưới đòn trái
ít nhất 20 mm. Trong 30 trường hợp của nghiên
cứu chúng tôi, có 20 BN có chiều dài cổ gần dưới
20 mm. Trong đó, 19 trường hợp được chuyển vị
các nhánh ĐM trên quai ĐMC ngực, 1 trường
hợp được đặt ống ghép che phủ ĐM dưới đòn
trái không kèm chuyển vị. Trong 19 trường hợp
được phẫu thuật chuyển vị trước can thiệp, 5
trường hợp được chuyển vị ĐM dưới đòn trái –
ĐM cảnh chung trái – ĐM cảnh chung phải do
vùng hạ đặt ống ghép nằm trong vùng 1, 5
trường hợp phải chuyển vị toàn bộ các nhánh
ĐM trên quai vào ĐMC ngực lên do vùng hạ đặt
ống ghép nằm vùng 0. Riêng trường hợp có
vùng hạ đặt ống ghép nằm trong vùng 2, chúng
tôi quyết định che phủ ĐM dưới đòn trái không
kèm chuyển vị. Tỷ lệ che phủ ĐM dưới đòn trái
không kèm chuyển vị của nghiên cứu chúng tôi
là 3,3 %. Trong can thiệp đặt ống ghép nội mạch,
nếu vùng hạ đặt ống ghép nằm trong vùng 2,
việc che phủ ĐM dưới đòn trái có thể được thực
hiện mà không cần phải chuyển vị ĐM dưới đòn
trái vào ĐM cảnh chung trái. Mặc dù vậy, theo
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 309
khuyến cáo của hiệp hội phẫu thuật mạch máu
thế giới năm 2009, nếu vùng hạ đặt ống ghép nội
mạch trong vùng 2, việc che phủ ĐM dưới đòn
trái kèm với chuyển vị nên được thực hiện
thường quy trong những trường hợp can thiệp
chương trình. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp
nguy cơ phẫu thuật cao và cần can thiệp cấp cứu,
việc che phủ ĐM dưới đòn trái không kèm
chuyển vị có thể chấp nhận được mặc dù nguy
cơ đột quỵ và thiếu máu nuôi tay trái sau mổ cao
hơn so với che phủ có kèm theo chuyển vị(4,5).
Có 1 trường hợp được che phủ ĐM dưới đòn
trái không kèm chuyển vị là một bệnh nhân
nguy cơ phẫu thuật cao (lớn tuổi, hẹp mạch vành
đã đặt stent mạch vành, bệnh phổi tắc nghẽn
mạn tính), có vùng hạ đặt ống ghép nằm trong
vùng 2, có bất thường về cấu trúc mạch máu khi
ĐM cảnh chung trái và ĐM thân tay đầu có
chung gốc. Bệnh nhân được đặt ống ghép ngay
sau chỗ hợp lưu của ĐM thân tay đầu và cảnh
chung trái, ống ghép che phủ ĐM dưới đòn trái.
Sau can thiệp không ghi nhận triệu chứng đột
quỵ, yếu liệt hai chi dưới hay thiếu máu nuôi tay
trái. Qua trường hợp này, chúng tôi nhận thấy
việc che phủ ĐM dưới đòn trái không kèm
chuyển vị có thể chấp nhận được nếu nguy cơ
phẫu thuật cao.
Về tỷ lệ tử vong chu phẫu, nghiên cứu của
chúng tôi có kết quả là 3,3 %. Trường hợp này tử
vong ngay sau can thiệp 1 ngày. Nguyên nhân
tử vong được xác định là suy hô hấp, tràn khí
màng phổi, tràn khí trung thất do tổn thương khí
quản sau rút ống nội khí quản. Đây là 1 trong 2
BN lớn tuổi nhất trong mẫu nghiên cứu của
chúng tôi (82 tuổi). Tuy cỡ mẫu của chúng tôi
còn nhỏ nhưng kết quả này cũng cho thấy
phương pháp can thiệp đặt ống ghép nội mạch
điều trị phình ĐMCN đoạn xuống có kết quả tỷ
lệ tử vong chu phẫu thấp giống như một số
nghiên cứu khác trên thế giới nếu so sánh với
phương pháp mổ kinh điển.
Trong vòng 30 ngày sau can thiệp, nghiên
cứu chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào bị
nhồi máu cơ tim, suy thận cần phải chạy thận,
đột quỵ hay yếu liệt hai chi dưới. Trong mổ mở,
tỷ lệ nhồi máu cơ tim sau mổ khá cao từ 10 - 23%
do biến chứng của kẹp ĐMCN. Trong can thiệp
đặt ống ghép nội mạch, chúng tôi không cần kẹp
ĐMCN như trong mổ mở. Không những thế,
mọi BN trong nghiên cứu của chúng tôi được
tầm soát bệnh lý mạch vành rất kỹ trước khi can
thiệp. Nếu BN có nguy cơ tim mạch sẽ được
chụp mạch vành và can thiệp nếu có chỉ định.
Việc tầm soát và điều trị bệnh mạch vành tốt có
thể là lý do giúp cho tỷ lệ nhồi máu cơ tim sau
mổ của nghiên cứu chúng tôi thấp. Nghiên cứu
của Matsumura có tỷ lệ nhồi máu cơ tim sau mổ
khá cao do tỷ lệ bệnh mạch vành trước can thiệp
của nghiên cứu này gần 70%.
Bên cạnh nhồi máu cơ tim, suy thận cần chạy
thận cũng là một biến chứng hay gặp trong mổ
mở kinh điển. Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng
tôi không ghi nhận trường hợp nào suy thận
nặng cần phải điều trị thay thế thận. Trong 30
trường hợp, có 1 trường hợp bị suy thận mạn
trước mổ. BN này được gây tê tại chỗ can thiệp
cấp cứu. Trong quá trình can thiệp chúng tôi chỉ
sử dụng 35 ml thuốc cản quang. Việc không
dùng thuốc gây mê thải qua thận và hạn chế tối
đa việc dung thuốc cản quang trong can thiệp có
thể là lý do làm cho tình trạng suy thận của BN
này không nặng thêm sau mổ.
Mục đích của việc can thiệp nội mạch điều
trị phình ĐMCN đoạn xuống là giúp ngăn ngừa
nguy cơ vỡ túi phình vì đa số các trường hợp
này đều dẫn đến tử vong. Tuy nhiên, sau khi can
thiệp thành công trong vòng 30 ngày vẫn tồn tại
một tỷ lệ các BN vỡ túi phình. Nghiên cứu của
chúng tôi ghi nhận 6,9% trường hợp vỡ túi
phình. Các nghiên cứu thế giới với thời gian theo
dõi ngắn hạn và trung hạn cũng cho thấy tỷ lệ vỡ
túi phình sau can thiệp từ 2 – 10%, khác nhau
không có ý nghĩa thống kê so với phẫu thuật mổ
mở. Các báo cáo trong y văn cho rằng nguyên
nhân hay gặp nhất gây vỡ túi phình muộn trong
can thiệp đặt ống ghép nội mạch là rò ống ghép
loại I và loại III. Trong hai loại rò ống ghép này,
máu từ đầu gần và đầu xa của điểm cố định ống
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Ngoại Khoa 310
ghép hoặc máu từ lòng mạch đi qua điểm nối
giữa hai ống ghép để tiếp tục vào trong túi phình
với áp lực cao gây vỡ túi phình.
KẾT LUẬN
Đặt ống ghép nội mạch điều trị phình động
mạch chủ ngực đoạn xuống cho kết quả tốt, biến
chứng và tỷ lệ tử vong chu phẫu thấp. Tuy
nhiên, cần theo dõi và đánh giá kết quả lâu dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brandt M, et al (2005), "Early and long-term results of
replacement of the descending aorta", Eur J Vasc Endovasc
Surg. 30(4), pp. 365-369.
2. Black JH, 3rd, Cambria RP (2006), "Current results of open
surgical repair of descending thoracic aortic aneurysms", J
Vasc Surg. 43 Suppl A, pp. 6A-11A.
3. Bavaria JE, et al. (2007), "Endovascular stent grafting versus
open surgical repair of descending thoracic aortic
aneurysms in low-risk patients: a multicenter comparative
trial", J Thorac Cardiovasc Surg. 133(2), pp. 369-377.
4. Matsumura JS, et al. (2008), "International controlled clinical
trial of thoracic endovascular aneurysm repair with the
Zenith TX2 endovascular graft: 1-year results", J Vasc Surg.
47(2), pp. 247-257.
5. Glade GJ, et al. (2005), "Mid-term survival and costs of
treatment of patients with descending thoracic aortic
aneurysms; endovascular vs. open repair: a case-control
study", Eur J Vasc Endovasc Surg. 29(1), pp. 28-34.
Ngày nhận bài báo: 24/11/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/12/2016
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_can_thiep_noi_mach_dieu_tri_phinh_dong_mach_chu_nguc.pdf