Tài liệu Kết quả bước đầu phẫu thuật cắt tuyến giáp nội soi qua ngã tiền đình miệng: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 203
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT CẮT TUYẾN GIÁP NỘI SOI
QUA NGÃ TIỀN ĐÌNH MIỆNG
Bùi An Thọ*, Đoàn Tiến Mỹ*, Lê Trường Chiến*,Nguyễn Duy Hinh*, Đỗ Hữu Liệt*,
Ngô Ngọc Bình Việt*,Nguyễn Thái Tuấn*, Võ Nguyên Phong*, Thiềm Việt Phúc*, Mai Đại Ngà*,
Võ Trường Quốc**, Nguyễn Hải Nam**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật cắt tuyến giáp nội soi qua ngã tiền đình miệng (PTTGNSĐM) không để lại sẹo mổ
và có kết quả rất tốt như mổ mở kinh điển. Do đó, bước đầu chúng tôi áp dụng kỹ thuật này, qua đó đánh giá độ
an toàn, hiệu quả và tính khả thi của nó.
Phương pháp: Báo cáo 6 trường hợp PTTGNSĐM tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ 28/3/2017 đến 05/01/2018.
Chúng tôi áp dụng kỹ thuật PTTGNSĐM: sử dụng 3 trocar qua ngã tiền đình miệng, bơm CO2 áp lực 6mmHg,
tạo một khoang dưới cơ bám da cổ từ tiền đình miệng đến trên hõm ức, dùng các dụng cụ nội soi thường quy và
dao cắt đốt siêu...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 346 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu phẫu thuật cắt tuyến giáp nội soi qua ngã tiền đình miệng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 203
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT CẮT TUYẾN GIÁP NỘI SOI
QUA NGÃ TIỀN ĐÌNH MIỆNG
Bùi An Thọ*, Đoàn Tiến Mỹ*, Lê Trường Chiến*,Nguyễn Duy Hinh*, Đỗ Hữu Liệt*,
Ngô Ngọc Bình Việt*,Nguyễn Thái Tuấn*, Võ Nguyên Phong*, Thiềm Việt Phúc*, Mai Đại Ngà*,
Võ Trường Quốc**, Nguyễn Hải Nam**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật cắt tuyến giáp nội soi qua ngã tiền đình miệng (PTTGNSĐM) không để lại sẹo mổ
và có kết quả rất tốt như mổ mở kinh điển. Do đó, bước đầu chúng tôi áp dụng kỹ thuật này, qua đó đánh giá độ
an toàn, hiệu quả và tính khả thi của nó.
Phương pháp: Báo cáo 6 trường hợp PTTGNSĐM tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ 28/3/2017 đến 05/01/2018.
Chúng tôi áp dụng kỹ thuật PTTGNSĐM: sử dụng 3 trocar qua ngã tiền đình miệng, bơm CO2 áp lực 6mmHg,
tạo một khoang dưới cơ bám da cổ từ tiền đình miệng đến trên hõm ức, dùng các dụng cụ nội soi thường quy và
dao cắt đốt siêu âm để cắt tuyến giáp.
Kết quả: Tất cả 6 bệnh nhân được cắt toàn bộ tuyến giáp thành công bằng PTTGNSĐM, không có trường
hợp nào chuyển mổ mở. Thời gian phẫu thuật trung bình 177,5 ± 32,24 (100 - 240) phút, không chảy máu đáng
kể trong mổ, không dẫn lưu sau mổ, thời gian nằm viện sau mổ trung bình 3 (2 - 4) ngày. Không có trường hợp
nào bị biến chứng trong và sau mổ.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi cắt tuyến giáp qua ngã tiền đình miệng an toàn, rất hiệu quả và hoàn toàn có
tính khả thi. Đặc biệt hoàn toàn không để lại sẹo nên tính thẩm mỹ rất cao.
Từ khóa: Cắt tuyến giáp nội soi, tiền đình miệng.
ABSTRACT
INITIAL RESULTS OF TRANSORAL ENDOSCOPIC THYROIDECTOMY VESTIBULAR APPROACH
Bui An Tho, Doan Tien My, Le Truong Chien, Nguyen Duy Hinh, Do Huu Liet, Ngo Ngoc Binh Viet,
Nguyen Thai Tuan, Vo Nguyen Phong, Thiem Viet Phuc, Mai Dai Nga, Vo Truong Quoc,
Nguyen Hai Nam * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 5- 2018: 203 - 208
Background: Transoral endoscopic thyroidectomy vestibular approach (TOETVA) is scar-free operation
with excellent results similar to open techniques. Thus, we present our initial experience to evaluate its safety,
efficacy and feasibility.
Methods: We had performed for 6 cases with TOETVA technique at Cho Ray hospital from March 28th,
2017 to January 5th 2018. We applied TOETVA technique: three trocars through the oral vestibule, CO2
insufflation at 6 mmHg, an anterior cervical subplatysmal space war created from oral vestibule down to the
sternal notch, using conventional laparoscopic instruments and ultrasonic device for thyroidectomy.
Results: All 6 cases were accomplished successfully by TOETVA technique with no conversion to open
surgery. Average operative time is 177.5 ± 32.24 (100 - 240) minutes, no bleeding, no draining after surgery,
average times after operation is 3 (2 - 4) days. There was no operative accident and complication.
Conclusions: TOETVA is safe, efficacy and feasibility. It is absolutely scar free with excellent cosmetic results.
* Khoa Ngoại Gan Mật Tuỵ, bệnh viện Chợ Rẫy, ** Bộ môn Ngoại - Đại học Y Dược TPHCM.
Tác giả liên lạc: BS. Đoàn Tiến Mỹ, ĐT: 0918042555, Email: myquan67@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 204
Keywords: Endoscopic thyroidectomy, Transoral vestibular approach.
MỞ ĐẦU
Phẫu thuật cắt tuyến giáp kinh điển bắt
buột để lại sẹo mổ vùng trước cổ gây mất thẩm
mỹ. Từ khi phẫu thuật nội soi ra đời, nhiều
phẫu thuật viên đã áp dụng vào lĩnh vực phẫu
thuật cắt tuyến giáp với mục đích không để lại
sẹo mổ vùng trước cổ. Nhưng các phương
pháp phẫu thuật nội soi cắt tuyến giáp cũng để
lại sẹo mổ trên một vùng da xa vùng trước cổ
như nách, ngực hoặc sau tai. Hơn nữa các kỹ
thuật nội soi đó bắt buột phải phẫu tích một
vùng da rộng điều này mâu thuẫn với ý nghĩa
xâm lấn tối thiểu(1).
Phẫu thuật nội soi qua lỗ ống tự nhiên
(NOTES: Natural orifice transluminal
endoscopic surgery) có ưu điểm lớn nhất là
không để lại sẹo mổ trên cơ thể và cũng đã được
thực hiện thành công trong nhiều loại phẫu
thuật. Năm 2009, Thomas Wilhelm, phẫu thuật
viên người Đức lần đầu tiên thực hiện phẫu
thuật nội soi cắt tuyến giáp đường miệng qua
ngã dưới lưỡi (Endoscopic Minimally Invasive
Thyroidectomy: eMIT)(13) không để lại sẹo mổ
trên da. Angkoon Anuwong, phẫu thuật viên
Thái Lan, năm 2015 báo cáo 60 trường hợp phẫu
thuật nội soi cắt tuyến giáp qua ngã tiền đình
miệng (Transoral Endoscopic Thyroidectomy
Vestibular Approach: TOETVA)(2). Đây là báo
cáo về phẫu thuật cắt tuyến giáp qua đường
miệng thành công không chuyển mổ mở, có số
lượng lớn nhất trên thế giới tính đến thời điểm
đó và được nhiều phẫu thuật viên tuyến giáp
trên thế giới công nhận.
Cùng với xu thế phát triển của thế giới,
chúng tôi đã bắt đầu triển khai phẫu thuật nội
soi cắt tuyến giáp qua ngã tiền đình miệng
(viết tắt là “phẫu thuật nội soi cắt tuyến giáp
qua đường miệng”: PTNSTGĐM) tại bệnh
viện Chợ Rẫy từ tháng 3 năm 2017. Bước đầu,
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm
đánh giá độ an toàn, hiệu quả và tính khả thi
của phương pháp phẫu thuật này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Từ 28/3/2017 đến 05/01/2018, 6 bệnh nhân
được phẫu thuật nội soi cắt tuyến giáp qua
đường miệng tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bướu giáp nhân hoặc nang đường kính < 6
cm. Bệnh nhân đồng ý phẫu thuật nội soi qua
đường miệng, không có nhiễm trùng vùng răng miệng.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bướu giáp nhân đường kính > 6cm, sẹo mổ
hoặc dính da vùng trước cổ, có nhiễm trùng
răng miệng.
Phương pháp nghiên cứu
Báo cáo hàng loạt ca.
Chúng tôi đánh giá độ an toàn, hiệu quả và
tính khả thi của PTNSTGĐM qua các dữ liệu:
thời gian mổ, lượng máu mất, biến chứng
trong và sau mổ (chảy máu, tổn thương thần
kinh quặt ngược thanh quản, nhiễm trùng vết
mổ), thời gian nằm viện.
Kỹ thuật mổ
Bệnh nhân được gây mê toàn thân với ống
nội khí quản, nằm ngửa, cổ ngửa ra sau. Phẫu
thuật viên đứng phía trên đầu bệnh nhân.
Sát trùng khoang tiền đình miệng và miệng
bằng Petadine pha loãng, nhét gạc vào ổ miệng
chính để tránh dịch tiết, máu chảy xuống họng.
Trocar đầu tiên 10 mm, được đặt ở giữa tiền
đình miệng. Dùng dao điện và kẹp Kelly tạo một
khoang dưới da từ tiền đình miệng xuống dưới
trước cổ, đi ngang qua trước cằm. Đặt trocar 10
mm để đặt ống kính soi 10 mm, 300. Bơm CO2
với áp lực thấp khoảng 6 – 8 mmHg. Đặt 2 trocar
hai bên, giữa răng nanh và răng cửa, hướng
xuống dưới trước cổ dưới sự kiểm soát của ống
kính soi.
Tạo một khoang ngay dưới cân cơ cổ nông,
bờ trên là thanh quản, bờ dưới là hõm ức và hai
bên là bờ trước hai cơ ức đòn chũm. Để bộc lộ tốt
hơn phẫu trường có thể dùng thêm chỉ Nylon
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 205
2.0, khâu một mũi chỉ giữa trước cổ và hai mũi
khâu treo vén cơ ức đòn chũm.
Dùng dao cắt siêu âm (Harmonic scalpel
hoặc Sonic scission) bóc tách và cắt đốt các mạch
máu. Cắt tuyến giáp ra làm đôi từ trên xuống
dưới qua eo giáp. Cắt đốt các mạch máu giáp
giữa, trên sát mô tuyến giáp. Nâng thuỳ giáp
trên ra trước giúp chúng ta dễ nhận định thần
kinh quặt ngược, chỗ đổ vào khí quản đi song
song rãnh khí thực quản, chạy ngang trước động
mạch giáp dưới.
Bệnh phẩm được bỏ vào bao nội soi và lấy
ra ngoài qua lỗ trocar 10mm. Khâu lại cân cơ cổ nông.
Các vết mổ vùng tiền đình miệng được khâu
lại bằng chỉ tan.
Băng ép vùng trước cổ và cằm 24 giờ.
Cho bệnh nhân ăn vào hậu phẫu ngày 1.
KẾT QUẢ
Từ 28/3/2017 đến 04/1/2018, chúng tôi thực
hiện được 6 trường hợp PTNSTGĐM tại bệnh
viện Chợ Rẫy.
Đặc điểm bệnh nhân
Tuổi và giới
Tuổi trung bình: 35,8 ± 2,89 (28 - 43) tuổi.
Giới: tỉ số nữ/nam là 5/1.
Chẩn đoán trước và sau mổ
Chúng tôi có 3 trường hợp bướu giáp đa
nhân 2 thuỳ, và 3 trường hợp ung thư tuyến
giáp được chẩn đoán trước mổ với FNA và chẩn
đoán sau mổ tương (bảng 1).
Bảng 1: Chẩn đoán
Chẩn đoán Giải phẫu bệnh lý N(%)
Bướu giáp đa nhân
2 thuỳ
phình giáp keo 3 (50)
K giáp Carcimona tuyến giáp
nhú
3 (50)
Kích thước bướu giáp trên siêu âm:
Kích thước trung bình của bướu trên siêu âm
15,2 (11 - 20) mm.
Đặc điểm phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp
trung bình 177,5 (100- 240) phút. Tất cả 6 trường
hợp đều được cắt tuyến giáp toàn bộ, không có
trường hợp nào chuyển mổ mở, không chảy
máu đáng kể trong mổ, không dẫn lưu sau mổ,
thời gian nằm viện sau mổ trung bình 3 (2 - 4)
ngày (bảng 2).
Bảng 2: Đặc điểm phẫu thuật
Đặc điểm N (%)
Cắt toàn bộ tuyến giáp 6 (100%)
Thời gian phẫu thuật (phút) 177,5 (100-
240)
Chảy máu 0
Chuyển mổ mở 0
Dẫn lưu sau mổ 0
Thời gian nằm viên sau mổ (ngày) 3 (2-4)
Biến chứng sau mổ
Không có trường hợp nào bị suy cận giáp,
tổn thương thần kinh quặt ngược thanh quản,
tổn thương thần kinh cằm, chảy máu hoặc tụ
máu, nhiễm trùng vết mổ (bảng 3).
Bảng 3: Biến chứng sau mổ
Biến chứng N (%)
Suy tuyến cận giáp 0
Tổn thương thần kinh quặt ngược thanh quản 0
Tổn thương thần kinh cằm 0
Chảy máu hoặc tụ máu 0
Nhiễm trùng vết mổ 0
BÀN LUẬN
Kể từ khi, Gagner lần đầu tiên thực hiện
phẫu thuật nội soi cắt tuyến cận giáp vào năm
1996(4), nhiều phương pháp phẫu thuật nội soi
cắt tuyến giáp ra đời với các đường vào khác
nhau như trước cổ(7,8), dưới cằm(16), nách(5),
vú(11). Tất cả các phương pháp này đều để lại sẹo
dù nhỏ trên da cổ gây mất thẩm mỹ hoặc sẹo xa
vùng cổ thì đi kèm với khoang bóc tách rộng đi
ngược với ý nghĩa xâm lấn tối thiểu.
Phẫu thuật NOTES cắt tuyến giáp ra đời đã
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 206
loại bỏ được sẹo mổ trên da do đó có tính thẩm
mỹ cao hơn, nên cũng bắt đầu được các phẫu
thuật viên chú ý phát triển(3,6,15).
Các phương pháp phẫu thuật NOTES cắt
tuyến giáp trên thế giới hầu hết dùng đường
miệng(2,3,9,12,13,14). Năm 2010, Wilhelm và cộng sự
là những người đầu tiên báo cáo 8 trường hợp
phẫu thuật nội soi cắt tuyến giáp đường miệng
qua ngã dưới lưỡi (endoscopic Minimally
Invasive Thyroidectomy: eMIT)(14). Phương pháp
này đặt trocar đi xuyên qua sàn miệng nên phẫu
trường hẹp vì camera bị hạn chế di động, do đó
tỷ lệ chuyển mổ mở cao 3/8 (37,5%) trường hợp.
Từ đó về sau, các phẫu thuật viên khác tiến hành
kỹ thuật phẫu thuật nội soi cắt tuyến giáp đường
miệng nhưng đi qua tiền đình miệng như: kỹ
thuật Transoral video-assisted neck surgery
(TOVANS) của Nakajo và cộng sự năm 2012(9),
Endoscopic thyroidectomy oral vestibilar
approach (ETOVA) của Wang năm 2014(12),
Transoral endoscopic thyroidectomy vestibular
approach (TOETVA) của Angkoon Anuwong
năm 2015(2). Các kỹ thuật này giúp cải thiện
phẫu trường do camera linh động hơn, tỷ lệ
chuyển mổ mở cũng giảm đáng kể. Trong các kỹ
thuật qua ngã tiền đình miệng thì báo cáo của
Angkoon, Thái Lan có kết quả tốt gần như mổ
mở nên rất được nhiều phẫu thuật viên trên thế
giới quan tâm(1,10). Do đó chúng tôi cũng áp
dụng kỹ thuật TOETVA của Angkoon, Phẫu
thuật nội soi cắt tuyến giáp qua ngã tiền đình
miệng (PTNSTGĐM) từ tháng 3 năm 2017 tại
bệnh viện Chợ Rẫy.
Bước đầu với số lượng khiêm tốn 6 trường
hợp trong lô nghiên cứu, chúng tôi cũng có
những kết quả khả quan. Tất cả các trường
hợp của chúng tôi đều phải cắt toàn bộ tuyến
giáp do bệnh lý bướu giáp đa nhân hai thuỳ
hoặc ung thư, nhưng chúng tôi không có
trường hợp nào phải chuyển mổ mở. Các tác
giả khác tỷ lệ cắt toàn bộ tuyến giáp thấp hơn
từ 33,33 - 50%(2,9,12,13,14) và Wilhelm chuyển mổ
mở 37,5%(14). Trong lô nghiên cứu của chúng
tôi, chảy máu trong mổ không đáng kể, không
có ca nào cần truyền máu trong và sau mổ và
không cần dẫn lưu sau mổ. Thời gian mổ
trung bình của chúng tôi 177,5 phút dài hơn
Wang và Anuwong là 60,4 và 115,5 phút
nhưng Wang chỉ cắt tuyến giáp toàn bộ 4/12 ca
và Anuwong là 26/60 ca, nghĩa là đa số hai tác
giả này chỉ cắt 1 thuỳ giáp nên thời gian mổ
ngắn hơn chúng tôi. Trong khi đó Wilheml và
Nakajo đều thực hiện 8 trường hợp, tỷ lệ cắt
toàn bộ tuyến giáp chỉ 4/8 (50%) và 3/8 (37,5%)
nhưng thời gian mổ dài hơn chúng tôi lần lượt
là 239 và 265,88 phút. Khi chúng tôi mổ nhiều
hơn thì thời gian mổ sẽ còn được cải thiện hơn.
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình của
chúng tôi 3 ít hơn của Anuwong là 3,6 ngày do
kinh nghiệm theo dõi hâu phẫu cắt tuyến giáp
kinh điển và nội soi của chúng tôi và cũng từ
áp lực quá tải của bệnh viện chúng tôi.
Trong lô nghiên cứu chúng tôi không có
trường hợp nào nhiễm trùng vết mổ, giống các
tác giả khác, chỉ có Wilheml có 1 bị nhiễm trùng
vết mổ trong 8 trường hợp, phải rạch tháo mủ và
dùng kháng sinh(13). Tác giả này thực hiện kỹ
thuật eMIT, mổ qua đường dưới lưỡi, xuyên
sàng miệng đến vùng trước cổ nên có tỷ lệ
nhiễm trùng và chuyển mổ mở cao hơn.
Chúng tôi không có các biến chứng tụ
máu, suy tuyến cận giáp, tổn thương thần kinh
quặt ngược thanh quản và thần kinh cằm,
cũng tương đồng với các tác giả khác trên thế
giới (Bảng 4). Chúng tôi có 1 trường hợp khàn
tiếng sau mổ, không nuốt khó không uống sặc,
tự hết sau 3 tuần.
Thời gian nằm viện trung bình sau mổ của
chúng tôi là 3 (2 - 4) ngày, ít hơn Angkoon 3,6
ngày và gần như với mổ mở. Tất cả bệnh nhân
đều ăn loãng vào ngày thứ 1 sau mổ, không khó
khăn khi ăn uống và rất hài lòng về tính thẩm
mỹ của kỹ thuật mổ này. Các vấn đề này giống
như các báo cáo phẫu thuật NOTES cắt tuyến
giáp qua đường miệng khác.
Với các kết quả bước đầu trên, chúng thấy
rằng phương pháp phẫu thuật cắt tuyến giáp
qua ngã tiền đình miệng rất an toàn, hiệu quả
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 207
cao nhất là về tính thẩm mỹ và hoàn toàn khả
thi trong điều kiện bệnh viện Chợ Rẫy của
chúng tôi.
Bảng 4: So sánh các kỹ thuật NOTES cắt tuyến giáp
Chỉ số eMIT
a
TOVANS
b
ETOVA
c
TOETVA
d
Chúng tôi
Số lượng N 8 8 12 60 6
Cắt 1 thuỳ/ toàn bộ giáp 4/4 5/3 8/4 34/26 0/6
Kích thước (cm) bướu trung bình không có không có 3,25 5,4 0,16
Thời gian mổ trung bình (phút)
Tỷ lệ chuyển mổ mở 3 (37,5%) 0 0 0 0
Suy cận giáp
Tạm thời
Vĩnh viễn
0
0
không có
không có
0
0
3 (5%)
0
0
0
Tổn thương thần kinh quặt ngược thanh quản
tạm thời
vĩnh viễn
1 (12,5%)
1 (12,5%)
không có
không có
0
0
2 (3,3%)
0
1 (16,6%)
0
Tổn thương thần kinh cằm 7 (87,5%) 0 không có 0 0
Nhiễm trùng vết mổ 1 (12,5%) 0 0 0 0
a. endoscopic Minimally Thyroidectomy, b. Trans-oral video-assisted neck surgery
c. Endoscopic thyroidectomy oral vestibular approach
d. Transoral endoscopic thyroidectomy vestibular approach
không có: không có ghi nhận.
KẾT LUẬN
Phương pháp phẫu thuật nội soi cắt tuyến
giáp qua ngã tiền đình miệng (TOETVA) có
nhiều ưu điểm: không để lại sẹo trên da nên tính
thẩm mỹ rất cao, ít sang chấn vì bóc tách ít, nên
phục hồi rất sớm so với các phương pháp phẫu
thuật cắt tuyến giáp bằng nội soi khác. Kết quả
bước đầu cho thấy tỷ lệ biến chứng thấp gần
như với mổ mở. Do đó đây là phương pháp
phẫu thuật an toàn, rất hiệu quả và hoàn toàn có
tính khả thi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anuwong A et al (2018). Transoral endoscopic thyroidectomy
vestibular approach (TOETVA): indications, techniques and
results. Surg Endosc, 32(1): p. 456-465.
2. Anuwong A (2016). Transoral Endoscopic Thyroidectomy
Vestibular Approach: A Series of the First 60 Human Cases.
World J Surg, 40(3): p. 491-7.
3. Benhidjeb T et al (2009). Natural orifice surgery on thyroid
gland: totally transoral video-assisted thyroidectomy (TOVAT):
report of first experimental results of a new surgical method.
Surg Endosc, 23(5): p. 1119-20.
4. Gagner M (1996). Endoscopic subtotal parathyroidectomy in
patients with primary hyperparathyroidism. British Journal of
Surgery, 83(6): p. 875-875.
5. Ikeda Y (2002), Endoscopic thyroidectomy and
parathyroidectomy by the axillary approach a preliminary
report 2001. Surg Endosc; 16(1): 92-5.
6. Karakas E et alB (2011). Transoral thyroid and parathyroid
surgery--development of a new transoral technique. Surgery,
150(1): p. 108-15.
7. Miccoli P et al (2001). Minimally invasive video-assisted
thyroidectomy. Print, 0002-9610.
8. Miccoli P et al (2002). Minimally invasive video-assisted
thyroidectomy: multiinstitutional experience. World J Surg,
26(8): p. 972-5.
9. Nakajo A et al (2013). Trans-Oral Video-Assisted Neck Surgery
(TOVANS). A new transoral technique of endoscopic
thyroidectomy with gasless premandible approach. Surg
Endosc, 27(4): p. 1105-10.
10. Russell JO et al (2016). Minimally invasive and remote-access
thyroid surgery in the era of the 2015 American Thyroid
Association guidelines. Laryngoscope Investig Otolaryngol, 1(6): p.
175-179.
11. Sasaki A et al (2008), Endoscopic thyroidectomy by the breast
approach: a single institution's 9-year experience. World J Surg,
32(3): p. 381-5.
12. Wang C et al (2014). Thyroidectomy: a novel endoscopic oral
vestibular approach. Surgery, 155(1): p. 33-8.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2018 208
13. Wilhelm T and Metzig A (2011). Endoscopic minimally invasive
thyroidectomy (eMIT): a prospective proof-of-concept study in
humans. World J Surg, 35(3): p. 543-51.
14. Wilhelm T and Metzig A (2010). Video. Endoscopic minimally
invasive thyroidectomy: first clinical experience. Surg Endosc,
24(7): p. 1757-8.
15. Witzel K et al (2008). Transoral access for endoscopic thyroid
resection. Surg Endosc, 22(8): p. 1871-5.
16. Yamashita H (2002), Video-assisted thyroid lobectomy through
a small wound in the submandibular area. Am J Surg; 183(3): 286-9.
Ngày nhận bài báo: 26/02/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/03/2018
Ngày bài báo được đăng: 25/09/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_buoc_dau_phau_thuat_cat_tuyen_giap_noi_soi_qua_nga_t.pdf