Tài liệu Kết quả bước đầu điều trị quá phát cuốn mũi dưới ở trẻ em bằng coblation: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 63
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ QUÁ PHÁT CUỐN MŨI DƯỚI Ở TRẺ
EM BẰNG COBLATION
Huỳnh Thị Mỹ Hiền*, Cao Minh Thức*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Quá phát cuốn mũi dưới là một trong những nguyên nhân gây nghẹt mũi thường gặp ở trẻ em.
Có nhiều phương pháp phẫu thuật, trong đó Coblation gần đây cho thấy hiệu quả và an toàn. Tuy nhiên, các
nghiên cứu đa số thực hiện ở người lớn. Điều này thúc đẩy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả
điều trị quá phát cuốn mũi dưới ở trẻ em bằng Coblation.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả phẫu thuật giảm thể tích cuốn mũi dưới quá phát bằng phương pháp
Coblation.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả loạt ca trên 15 bệnh nhân ≥ 8 tuổi, nghẹt mũi do quá phát niêm mạc cuốn
dưới không đáp ứng với nội khoa; được phẫu thuật làm giảm thể tích cuốn mũi dưới bằng phương pháp Coblation
tại bệnh viện bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 01/05/2017 đến 01/05/2018. Đánh giá hiệu qu...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 190 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu điều trị quá phát cuốn mũi dưới ở trẻ em bằng coblation, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 63
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ QUÁ PHÁT CUỐN MŨI DƯỚI Ở TRẺ
EM BẰNG COBLATION
Huỳnh Thị Mỹ Hiền*, Cao Minh Thức*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Quá phát cuốn mũi dưới là một trong những nguyên nhân gây nghẹt mũi thường gặp ở trẻ em.
Có nhiều phương pháp phẫu thuật, trong đó Coblation gần đây cho thấy hiệu quả và an toàn. Tuy nhiên, các
nghiên cứu đa số thực hiện ở người lớn. Điều này thúc đẩy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả
điều trị quá phát cuốn mũi dưới ở trẻ em bằng Coblation.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả phẫu thuật giảm thể tích cuốn mũi dưới quá phát bằng phương pháp
Coblation.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả loạt ca trên 15 bệnh nhân ≥ 8 tuổi, nghẹt mũi do quá phát niêm mạc cuốn
dưới không đáp ứng với nội khoa; được phẫu thuật làm giảm thể tích cuốn mũi dưới bằng phương pháp Coblation
tại bệnh viện bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 01/05/2017 đến 01/05/2018. Đánh giá hiệu quả dựa vào thang điểm đánh
giá nghẹt mũi (NOSE), nội soi mũi trước và sau mổ 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng.
Kết quả: 15 bệnh nhân gồm 9 nam và 6 nữ. Tuổi trung bình 9 ± 1,14. Phẫu thuật không ghi nhận biến
chứng chảy máu, ít đau, ít đóng vảy. Triệu chứng nghẹt mũi giảm 46,6% trong tuần đầu sau mổ và cải thiện
đáng kể 86,6% sau mổ 3 tuần. Đầu cuốn mũi dưới thu nhỏ lại hơn so với trước khi mổ; sau 1 tháng và 3 tháng tỷ
lệ này là 93%.
Kết luận: Phẫu thuật dưới niêm mạc cuốn mũi dưới bằng phương pháp Coblation là phương pháp phẫu
thuật an toàn và hiệu quả trong điều trị nghẹt mũi mạn do quá phát cuốn mũi dưới.
Từ khóa: Quá phát cuốn mũi dưới, nghẹt mũi, Coblation.
ABSTRACT
INITIAL RESULTS OF TREATMENT INFERIOR TURBINATE HYPERTROPY IN CHILDREN USING
THE COBLATION
Huynh Thi My Hien, Cao Minh Thuc
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 63 – 67
Background: Inferior turbinate hypertrophy is one of the common causes of nasal airway obstruction in
children. Many techniques have been described in the past. Coblation has recently been shown to be safe and
effective in volumetric tissue reduction of the turbinate in adults, but no report has been published about its use in
children. We prospectively evaluated the safety and effectiveness of Coblation for the treatment of nasal
obstruction caused by inferior turbinate hypertrophy in children.
Objectives: To evaluate the efficacy of inferior turbinate reduction using the Coblation.
Methods: A case series report on 15 patients, who suffer from nasal obstruction due to inferior turbinate
hypertrophy refractory to medical therapy, were treated with submucosal turbinectomy from 01/05/2017 to
01/05/2018, at Children’s Hospital 2, HCM city. Nose scale, nasal endoscopy were used to assess postoperative
outcomes after 1 week, 1 month and 3 months.
Results: 15 patients including 9 males and 6 females; mean age was 9 ± 1.14; no much bleeding; minimal
* Bệnh viện Nhi Đồng 2.
Tác giả liên lạc: BS. Cao Minh Thức, ĐT:0909279204, Email: xuan0271984@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 64
pain; few crusts. At the 1-week follow-up, nasal obstruction decreased (46.6%) with a significant improvement
(86.6%) after 3 months. There was a significant improvement in the total nasal volume and the anterior portion of
inferior turbinate area 1 and 3 months after surgery (93%).
Conclusions: Submucosal reduction of inferior turbinate using the Coblation is a safe and effective
procedure in treatment of chronic nasal obstruction due to inferior turbinate hypertrophy.
Key words: Inferior turbinate hypertrophy, nasal obstruction, Coblation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuốn mũi dưới góp phần vào chức năng
thanh lọc, làm ấm, tăng độ ẩm và là một phần
của trở kháng mũi. Để đảm bảo thở đủ lưu
lượng khí một cách sinh lý, cấu trúc khoang
mũi phải đảm bảo độ thông thoáng cho luồng
khí đi qua. Vì những lý do bất thường về cấu
trúc giải phẫu hay bệnh lý trong khoang mũi
gây tắc nghẽn mũi sẽ ảnh hưởng đến chức
năng hô hấp của cơ thể, bao gồm quá phát VA,
vẹo vách ngăn, polyp mũi, u hốc mũi, dị vật
mũi và quá phát cuốn mũi dưới một cách
thường xuyên ở một hay cả hai bên mũi. Có
nhiều phương pháp điều trị tình trạng quá
phát cuốn mũi dưới, nhìn chung vẫn chưa có
phương pháp nào tỏ ra hiệu quả thực sự và
lâu dài. Các phương pháp đều ít nhiều gây ra
tình trạng vảy mũi, chảy máu sau mổ và
những tổn thương niêm mạc không hồi phục.
Từ năm 1998, phương pháp Coblation đã
được đưa vào áp dụng với ưu điểm về nhiệt độ
cắt đốt thấp (40-70°C) đã được sử dụng cho
nhiều chuyên khoa phẫu thuật khác nhau. Công
nghệ Coblation là một quá trình không tạo ra sức
nóng, sử dụng năng lượng của sóng cao tần
lưỡng cực, tạo ra đám mây điện tích để phá vỡ
các liên kết phân tử bên trong tổ chức mô, làm
mô bị phân hủy ở nhiệt độ tương đối thấp nên ít
tổn thương mô, ít chảy máu và kết quả là ít đau
sau mổ. Nghẹt mũi là triệu chứng thường gặp ở
trẻ em, gây ảnh hưởng khả năng học tập, phát
triển sọ mặt trong các nguyên nhân gây nghẹt
mũi, quá phát cuốn mũi dưới ít được quan tâm
do nhầm lẫn với những đợt viêm cấp phù nề,
viêm mũi vận mạch hay viêm mũi dị ứng, chưa
thực hiện nhiều nghiên cứu ở trẻ em.
Vấn đề đặt ra là làm sao điều trị bệnh nhi
giảm nghẹt mũi do quá phát cuốn mũi dưới, ít
gây biến chứng, hợp với sinh lý mà vẫn giữ được
cấu trúc giải phẫu của cuốn mũi dưới trong quá
trình phát triển của trẻ. Do vậy chúng tôi chọn
đề tài nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị quá
phát cuốn mũi dưới bằng phương pháp
Coblation.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả điều trị quá phát cuốn
mũi dưới bằng phương pháp Coblation.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả loạt ca trên 15 bệnh nhân
≥ 8 tuổi, nghẹt mũi do quá phát niêm mạc cuốn
dưới không đáp ứng với nội khoa; được phẫu
thuật làm giảm thể tích cuốn mũi dưới bằng
phương pháp Coblation tại bệnh viện bệnh viện
Nhi Đồng 2 từ 01/05/2017 đến 01/05/2018.
Tiêu chí chọn vào
Viêm mũi quá phát cuốn dưới giai đoạn
không hồi phục.
Điều trị nội khoa không hoặc kém hiệu quả.
Nghẹt mũi thường xuyên hay từng lúc gây
ảnh hưởng đến sinh hoạt.
Vẹo vách ngăn mũi gây quá phát cuốn dưới
bên đối diện.
Quá phát cuốn dưới được phẫu thuật khi đặt
thuốc co mạch cuốn dưới không còn khả năng co
hồi lại.
Tiêu chí loại ra
Có kèm theo bệnh lý tại chỗ (viêm mũi
xoang cấp, polype mũi xoang, u mũi xoang),
bệnh lý nội khoa nặng hoặc bệnh lý đông máu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 65
Phương pháp tiến hành
Chọn bệnh nhi theo tiêu chuẩn chọn mẫu,
giải thích đưa vào nhóm nghiên cứu. Khai thác
thông tin theo bảng thu thập số liệu: tên, tuổi,
giới tính, địa chỉ, nghề nghiệp, tiền căn sử dụng
thuốc co mạch tại chỗ, thời gian và thời điểm
nghẹt mũi, đặc điểm nghẹt mũi để phân độ
nghẹt mũi trước và sau mổ dựa vào thang điểm
NOSE; VAS (visual analogue scale) về các triệu
chứng đi kèm nghẹt mũi; nội soi mũi..
Thang điểm NOSE (Nasal Obstruction
Symptom Evaluation) về nghẹt mũi: biến số định
lượng
Triệu chứng Không Nhẹ Trung
bình
Nặng Nghiêm
trọng
Tắc mũi 0 1 2 3 4
Khó chịu khi thở mũi 0 1 2 3 4
Nghẹt mũi ảnh hưởng
đến giấc ngủ
0 1 2 3 4
Không thể lấy đủ khí
qua mũi khi tập thể
dục/gắng sức
0 1 2 3 4
Thang điểm VAS (Visual analogue scale) về
các triệu chứng đi kèm: đau đầu, hắt hơi, ngứa
mũi, mất mùi, chảy máu mũi
Biến số định lượng
Mức độ: từ 0 đến 10
Điểm cắt phân loại: nhẹ (0-3), trung bình (4-
7), nặng (8-10)
Tiến hành phẫu thuật: Bệnh nhân nằm
ngửa, mê nội khí quản. Qua nội soi đốt dưới
niêm mạc cuốn dưới quá phát bằng đầu
Coblator, thể tích cuốn mũi thu nhỏ tức thì có
thể quan sát được. Hút sạch máu, dịch tiết.
Sau đó nhét mèche tẩm Otrivin 0,05% hốc mũi
hai bên, rút mèche tại hậu mê.
Bệnh nhi được xuất viện hôm sau nếu tình
trạng ổn định. Khi xuất viện, bệnh nhi được kê
toa thuốc uống 1 tuần, bao gồm: kháng sinh,
kháng viêm dạng men, giảm đau và nước muối
sinh lý nhỏ mũi hàng ngày. Bệnh nhân được hẹn
tái khám sau mổ 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng.
Việc đánh giá hiệu quả phẫu thuật được thực
hiện chủ yếu dựa vào: thang điểm đánh giá
nghẹt mũi (NOSE), thang điểm đánh giá đau và
các triệu chứng cơ năng khác (VAS), nội soi mũi
xoang (sau mổ 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng).
Nội soi mũi ống mềm :
Mức độ quá phát cuốn mũi dưới theo phân
độ Friedman: biến định lượng
+ Độ 1: lớn nhẹ không nhìn thấy bít tắc
+ Độ 2: giữa độ 1 và độ 3
+ Độ 3: quá phát bít hốc mũi
Đáp ứng với thuốc co mạch: có hoặc không (
biến nhị giá)
Bất thường cấu trúc đi kèm:
Niêm mạc mũi: hồng, trơn láng, tái, sung
huyết(biến định tính).
Vách ngăn: vẹo phải, vẹo trái, vẹo chữ S, gai
vách ngăn, mào vách ngăn (biến định tính).
Khe giữa: xuất tiết, dịch nhày, dịch
đục(biến định tính).
VA quá phát độ (theo hiệp hội nhi khoa thế
giới): I, II, III, IV (biến định lượng).
VA độ I: VA < 25% cửa mũi sau.
VA độ II: 25% cửa mũi sau ≤ VA< 50% cửa
mũi sau.
VA độ III: 50% cửa mũi sau ≤ VA < 75% cửa
mũi sau.
VA độ IV: 75% cửa mũi sau ≤ VA.
KẾT QUẢ
Tuổi
Tuổi trung bình là 9 ± 1,14; tuổi nhỏ nhất là 8
tuổi; tuổi lớn nhất là 14 tuổi.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 66
Giới tính
Nam (9 ca; 60%) nhiều hơn nữ (6 ca; 40%). Tỉ
lệ nam : nữ = 1,5.
Tiền căn sử dụng thuốc co mạch tại chỗ
Tỉ lệ bệnh nhân tự ý được sử dụng thuốc co
mạch 40%. Trong đó thời gian sử dụng thuốc co
mạch tại chỗ, liên tục > 1 tháng chiếm tỷ lệ khá
cao 83,33%.
Bảng 1: Tiền căn sử dụng thuốc co mạch tại chỗ
Thời gian sử dụng
Tự ý sử dụng
thuốc co mạch
Theo chỉ
định BS
40% 60%
Liên tục > 1 tháng 83,3% 0%
Cách khoảng ≤ 1tháng 16,7% 100%
Thời gian và thời điểm nghẹt mũi
Số bệnh nhân nghẹt mũi từ 13-24 tháng
chiếm tỉ lệ cao nhất (66,7%). Thời điểm nghẹt
mũi nhiều nhất vào ban đêm và lúc sáng sớm
(80%).
Bảng 2: Thời gian và thời điểm nghẹt mũi
Thời gian nghẹt
Thời điểm nghẹt
Tổng ban đêm -
sáng sớm
buổi
trưa
≤ 12 tháng ¾ 1/4 26,6%
>12 tháng - ≤24 tháng 8/10 2/10 66,7%
>24 tháng 1/1 1/1 6,7%
Tổng 80% 20%
Cải thiện chủ quan nghẹt mũi của bệnh nhân
sau mổ
Có 13 bệnh nhân nghẹt mũi cải thiện sau mổ
3 tháng (86,6%). Thang điểm NOSE giảm có ý
nghĩa thống kê.
Bảng 3: Thang điểm đánh giá nghẹt mũi (NOSE)
trước và sau mổ 3 tháng
Thời điểm đánh giá
Thang điểm NOSE T- test
Trung bình Độ lệch chuẩn P
Trước mổ 66,8 16,7 < 0,0001
Sau mổ 3 tháng 23,07 7.8 <0,0001
Tần suất nghẹt mũi
46,6% cải thiện nghẹt mũi ngay từ tuần đầu
sau mổ; 66,6% cải thiện sau 1 tháng và 86,66%
sau 3 tháng.
Biến chứng trong phẫu thuật
Không ghi nhận biến chứng trong phẫu thuật.
Đau sau mổ
Có 10/15 trường hợp (66,6%) than đau mức
độ trung bình (VAS 4-7) sau phẫu thuật 12 giờ,
cải thiện với thuốc giảm đau. Đa số các trường
hợp (86,6%) giảm đau nhiều sau 24 giờ và có thể
xuất viện. Sau 1 tuần tái khám, không có bệnh
nhân đau vết mổ.
Bảng 4: Mức độ đau sau mổ
Thời gian
Mức độ đau ( thang điểm VAS)
Nhẹ (0-3)
Trung bình
(4-7)
Nặng
(8-10)
12h sau phẫu thuật 33,4% 66,6% 0%
24h sau phẫu thuật 86,6% 13,4% 0%
1 tuần sau phẫu thuật 0% 0% 0%
Tình trạng tạo vẩy mũi sau mổ
Sau mổ 1 tuần, có 13 ca (86,66%) tạo vẩy mũi
mức độ từ ít đến vừa; sau 1 tháng và 3 tháng,
không ghi nhận trường hợp nào còn vẩy mũi.
Tình trạng cải thiện kích thước đầu cuốn mũi
dưới sau mổ qua nội soi
Sau mổ 1 tuần, có 73,33% trường hợp đầu
cuốn mũi dưới thu nhỏ lại hơn so với trước khi
mổ; sau 1 tháng và 3 tháng tỷ lệ này là 93%
Bảng 5: Tình trạng cải thiện kích thước đầu cuốn mũi
dưới qua nội soi
Thời điểm
Kích thước cuốn mũi dưới quá
phát theo phân độ Friedman
Độ 1 Độ 2 Độ 3
Trước mổ 0% 0% 100%
Sau mổ 1 tuần 0% 73% 27%
Sau mổ 1 tháng 13% 80% 7%
Sau mổ 3 tháng 93% 0% 7%
BÀN LUẬN
Đa số các nghiên cứu thực hiện trên người
lớn. Mẫu nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung
bình là 9 ± 1,14 nên các bé đều có thể tự lượng
giá tương đối mức độ các triệu chứng. Thuốc co
mạch làm giảm tính đàn hồi của mạch máu
trong niêm mạc mũi, giảm tạm thời triệu chứng
nghẹt mũi. Trong 40% trường hợp tự ý sử dụng
thuốc co mạch, thời gian sử dụng sẽ kéo dài hơn
chỉ định của bác sĩ. Lâu dài sẽ làm hư hệ thống
màng nhầy - lông chuyển, nên sự đáp ứng của
mũi đối với thuốc ngày càng giảm, tạo nên bệnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 67
“viêm mũi do thuốc”, ngạt mũi kéo dài. Như
vậy, sau mỗi lần nhỏ thuốc, thời gian ngày càng
ngắn lại, số lần nhỏ thuốc ngày càng tăng, gây
nên vòng luẩn quẩn tai hại. Do đó cần khuyến
cáo bệnh nhân không nên dùng thuốc co mạch
trị nghẹt mũi quá 1 tuần trong mỗi đợt điều trị,
thường mỗi ngày nhỏ 3-4 lần, mỗi lần 1-3 giọt
mỗi bên khi nghẹt mũi. Mức độ nghẹt mũi thay
đổi theo các thời điểm trong ngày. Nhiều bệnh
nhân có biểu hiện theo chu kỳ buổi sáng là bị
nghẹt mũi nhiều vào lúc sáng sớm, ngay lúc thức
giấc, sau đó thuyên giảm hoặc hết hẳn khi trời
nắng ấm dần (nhất là buổi trưa), hoặc nghẹt
nặng dần vào buổi tối, lúc ngủ. Nghiên cứu của
chúng tôi tỉ lệ bệnh nhân nghẹt mũi vào thời
điểm đêm khuya, sáng sớm là 80 %, kết quả này
tương đồng với tác giả Trần Đình Khả (2006)(8).
Điều này cho thấy để đánh giá, đo lường mức độ
nghẹt mũi một cách chính xác, nên thực hiện vào
buổi sáng sớm; trong điều trị nên quan tâm
nhiều đến thời điểm dùng thuốc, nên dùng vào
buổi tối trước khi ngủ để ngăn ngừa chu kỳ buổi
sáng hôm sau và giảm tác dụng phụ của thuốc.
Phẫu thuật dưới niêm mạc cuốn mũi dưới
bằng phương pháp Coblation làm mô bị phân
hủy ở nhiệt độ tương đối thấp nên ít tổn thương
mô, ít chảy máu và kết quả ít đau sau mổ, bệnh
nhi có thể xuất viện sau 24h. Nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy các bệnh nhân cải thiện nghẹt
mũi ngay từ tuần đầu sau mổ về cả tần suất lẫn
mức độ và kết quả được duy trì sau mổ 3 tháng.
Thang điểm NOSE giảm có ý nghĩa thống kê
(P<0,0001). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cũng tương đồng với nghiên cứu của các tác giả
khác(1,3,7,8). Tuy nhiên, giữa tỉ lệ cải thiện triệu
chứng nghẹt mũi (86,6%) và tỉ lệ giảm kích thước
cuốn mũi dưới (93%) là không như nhau, có thể
do bệnh nhi còn các nguyên nhân gây nghẹt mũi
khác đi kèm như viêm mũi dị ứng, viêm mũi
vận mạch Những trường hợp này được tiếp
tục theo dõi và điều trị nội khoa thêm. Các
trường hợp sau đốt vẫn không cải thiện kích
thước cuốn mũi dưới, trong lúc mổ chúng tôi có
một số ghi nhận là phần quá phát niêm mạc
không nhiều, chủ yếu là quá phát phần xương
sau chấn thương đi kèm với dị hình vách ngăn,
do đó cần chụp thường qui CT Scan mũi xoang
cho những trường hợp có tiền căn chấn thương
mũi để có hướng điều trị và tiên lượng thích hợp
cho bệnh nhân.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật dưới niêm mạc cuốn mũi dưới
bằng phương pháp Coblation là một phương
pháp đơn giản, an toàn và hiệu quả trong điều
trị nghẹt mũi kéo dài do quá phát niêm mạc
cuốn mũi dưới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bitar MA, Kanaan AA, Sinno S. (2014). Efficacy and safety of
inferior turbinates coblation in children. J Laryngol Otol. 128: S48-54.
2. Garzaro M, Pezzoli M, Landolfo V, Defilippi S, Giordano C,
Pecorari G (2012). “Radiofrequency inferior turbinate reduction:
Long-term olfactory and functional outcomes”. Otolaryngology -
Head and Neck Surgery, 146: pp.146-150.
3. Jiang ZY, Pereira KD, Friedman NR, Mitchell RB (2012). Inferior
turbinate surgery in children: a survey of practice patterns.
Laryngoscope; 122(7): pp.1620-3.
4. Lê Nguyễn Châu Hà (2014). Ứng dụng khí áp mũi trong đánh
giá hiệu quả phẫu thuật cuốn mũi dưới. Y học Tp. Hồ Chí Minh,
tập 18, PB số 1, chuyên đề Mắt – Tai Mũi Họng: tr.155-159.
5. Manzi B, Sykes KJ, Wei JL (2017). Sinonasal Quality of Life in
Children After Outfracture of Inferior Turbinates and Submucous
Inferior Turbinoplasty for Chronic Nasal Congestion. JAMA
Otolaryngol Head Neck Surg. 143(5): pp.452-457.
6. Roje Z, Racić G, Kardum G (2011). Efficacy and safety of inferior
turbinate coblation-channeling in the treatment of nasal
obstructions. Coll Antropol, 35: pp.143-146.
7. Trần Anh Tuấn (2007). Đánh giá kết quả điều trị nghẹt mũi do
quá phát cuốn dưới bằng kỹ thuật coblation. Y học Tp. Hồ Chí
Minh, Tập 11, PB số 1, chuyên đề Mắt – Tai Mũi Họng: pp.162-164.
8. Trần Đình Khả (2006), Điều trị nghẹt mũi do quá phát cuốn
dưới bằng đốt điện lưỡng cực dưới niêm mạc, Luận văn tốt
nghiệp nội trú. Đại Học Y Dược TP.HCM, tr. 33-59.
9. Trần Thị Thu Trang (2009). Hiệu quả của phẫu thuật đông điện
lưỡng cực cao tần (coblator) dưới niêm mạc cuốn mũi dưới,
Luận văn tốt nghiệp nội trú. Đại Học Y Dược TP.HCM, tr 36- 57.
Ngày nhận bài báo: 20/06/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/06/2018
Ngày bài báo được đăng: 15/08/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_buoc_dau_dieu_tri_qua_phat_cuon_mui_duoi_o_tre_em_ba.pdf