Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 30
KẾT QUẢ BAN ĐẦU ĐIỀU TRỊ CẬN THỊ 
CÓ HOẶC KHÔNG KÈM LOẠN THỊ BẰNG ICL V4C 
Trần Hải Yến*, Nguyễn Thị Mộng Dung** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Phẫu thuật khúc xạ bằng laser trên giác mạc tuy có những tiến bộ vượt bậc, nhưng bị giới hạn 
bởi độ khúc xạ và chiều dày giác mạc. Phẫu thuật đặt kính ICL V4c trên mắt còn thủy tinh thể có thể khắc phục 
được những hạn chế trên. Tính chính xác, ổn định, hiệu quả, an toàn của phẫu thuật ICL đã được khẳng định bởi 
nhiều tác giả nước ngoài. Nghiên cứu này báo cáo kết quả ban đầu trên bệnh nhân Việt Nam. 
Mục tiêu: Khảo sát tính hiệu quả, an toàn, chính xác của phẫu thuật đặt ICL V4c. Ghi nhận các biến chứng 
trong mổ và sớm sau mổ. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng, tiến cứu, không nhóm chứng, trên 52 mắt 
cận thị với độ cầu tương đương trung bình là -9,89 ± 3,16 D, có hoặc không kèm loạn thị, không đủ tiêu chuẩn 
phẫu thuật khúc xạ bằng laser trên giác mạc. Dữ liệu được thu thập đến 1 tháng sau mổ và phân tích bằng phần 
mềm SPSS 16.0. 
Kết quả: Một tháng sau phẫu thuật, chỉ số hiệu quả, chỉ số an toàn là 0,97 và 1,06. Độ cầu tương đương 
trung bình: -0,014 ± 0,39D; trong đó 94% nằm trong khoảng ± 0,50D; 96% nằm trong khoảng ± 1,00D. Thị lực 
thập phân không kính sau phẫu thuật là 0,89 ± 0,18. Thị lực chỉnh kính sau mổ: 64% không đổi, 36% tăng, không 
có trường hợp nào giảm thị lực. Không ghi nhận biến chứng trong phẫu thuật, tỷ lệ tăng áp sau mổ là 4%, tỷ lệ 
xoay trục 4%. 
Kết luận: Phẫu thuật khúc xạ bằng kính ICL V4c là phương pháp phẫu thuật an toàn, hiệu quả, có tính 
chính xác cao để điều trị cận và loạn cận. 
Từ khoá: Phakic IOL, ICL V4c, cận thị, loạn thị 
ABSTRACT 
PRELIMINARY OUTCOMES OF ICL V4C IN MYOPIA WITH AND WITHOUT ASTIGMATISM 
Tran Hai Yen, Nguyen Thi Mong Dung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 30 - 37 
Introduction: Although refractive corneal surgery has had significant progress, but it is still limited by high 
refractive errors and available thickness of the cornea. Phakic ICL V4c implantation surgery can address these 
limitations. International studies showed the safety, efficacy, predictability, stability of this method. Our study 
reported preliminary outcomes in Vietnamese patients. 
Purpose: This paper is aimed to examine efficacy, safety, predictability of ICL V4c implantation and record 
intra and early post-operative complications. 
Patients and method: Prospective, non-comparative clinical trial. Fifty two myopic eyes (average spherical 
equivalent of -9.89 ± 3.16 D) with or without astigmatism, unsuitable for refractive corneal surgery were enrolled 
in the study. Data was collected up to 1 month and analysed by SPSS 16.0. 
Results: At 1 month post-op, effficacy and safety index were 0.97 and 1.06 respectively. Mean manifest 
* Bộ môn Mắt ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch ** Bộ môn Mắt ĐH Y dược TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Hải Yến ĐT: 0913777775 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 31
spherical equivalent was -0,014 D ± 0.39D; among all eyes, 94% within ± 0.50D, and 96% within ± 1.00D. Post-
op decimal UCVA was 0.89 ± 0,18. There was 64% of eyes with unchanged BCVA, 36% gained one or more lines, 
and no loss of BCVA line. No intra-op complications, post-op IOP elevation in 4% of eyes, and ICL rotation rate 
in 4% of eyes were observed. 
Conclusions: Phakic ICL V4c is an effective, safe and predictable method to correct myopia with or without 
astigmatism. 
Key words: Phakic IOL, ICL V4c, myopia, astigmatism. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tỷ lệ bệnh nhân cận thị nặng (từ -5,00 D trở 
lên) trên thế giới vào khoảng 2,7% dân số(3). Đặc 
biệt, tần suất cận thị ở vùng Đông Á cao gấp gần 
2 lần so với các nước châu Âu, ở Đông Nam Á 
ước tính khoảng 39,3 % vào năm 2010 và con số 
này tiếp tục tăng mạnh ở nhóm dân số trẻ(3). 
Điều trị cận thị nặng đặt ra nhiều thách thức cho 
cả phẫu thuật viên khúc xạ lẫn bác sĩ chuyên 
khoa dịch kính võng mạc. 
Phẫu thuật khúc xạ bằng laser đã được thực 
hiện trong nhiều thập kỷ từ laser bề mặt (PRK, 
LASEK, EpiLASIK) ở thế hệ đầu, LASIK, 
FemtoLASIK thế hệ thứ hai, và nay là SMILE 
thuộc thế hệ ba. Dù đã có những bước tiến vượt 
bậc về nhiều mặt, tuy nhiên, biên độ điều chỉnh 
tật khúc xạ của các phẫu thuật laser trên giác 
mạc bị giới hạn bởi chiều dày giác mạc, độ cong 
giác mạc và một số yếu tố khác liên quan đến 
chất lượng thị giác. Phẫu thuật thay thế thủy tinh 
thể trong là một lựa chọn, nhưng tính xâm lấn 
cao hơn khiến việc chỉ định khá dè dặt do tiềm 
ẩn một số nguy cơ trong và sau mổ. 
Nằm ở vị trí trung gian giữa phẫu thuật laser 
giác mạc và thay thủy tinh thể trong là đặt thấu 
kính nội nhãn trên mắt còn thủy tinh thể (Phakic 
IOL). Có ba loại Phakic IOL: kính cài mống mắt, 
tựa góc tiền phòng và đặt hậu phòng. Kính tựa 
góc tiền phòng hiện đã ngưng không áp dụng do 
nguy cơ giảm tế bào nội mô tiến triển. Đối với 
hai loại còn lại, các nghiên cứu cho thấy kết quả 
về thị lực và khúc xạ tương đương. Tuy nhiên, 
chất liệu collamer mang lại cho ICL những đặc 
tính thích hợp với phẫu thuật khúc xạ: đặt được 
qua đường mổ nhỏ, hạn chế sự xâm lấn, giảm 
thiểu loạn thị phát sinh, lớp phủ Fibronectin tăng 
tính tương thích sinh học, thân thiện với mô nội 
nhãn, không kích hoạt phản ứng viêm. Vị trí đặt 
sulcus, an toàn cho nội mô và thuận lợi cho việc 
phát triển tính năng điều chỉnh loạn thị(4,5). 
ICL dòng V4c và triển khai ở Việt nam từ 
đầu năm 2016, trước đó là V4b. Thiết kế mới có 
lỗ trung tâm giúp giảm bớt thủ thuật cắt mống 
mắt chu biên, bảo tồn dòng chảy sinh lý của thủy 
dịch, được cho là có thể làm giảm nguy cơ đục 
thủy tinh thể, giảm nguy cơ phân tán sắc tố tiền 
phòng do ít đụng chạm mống mắt(4). Cho tới nay, 
chưa có báo cáo nào về thực tiễn lâm sàng sử 
dụng loại kính này. Vì vậy, chúng tôi thực hiện 
khảo sát tính an toàn, hiệu quả và chính xác của 
phẫu thuật đặt ICL V4c trên bệnh nhân cận thị 
có hoặc không kèm loạn thị, nhằm bổ sung thêm 
các thông tin chuyên môn trong lĩnh vực phẫu 
thuật khúc xạ. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Can thiệp lâm sàng, tiến cứu, không nhóm 
chứng. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Tuổi từ 18 – 45 tuổi có nhu cầu điều trị tật 
khúc xạ nhưng không đủ tiêu chuẩn phẫu thuật 
bằng laser giác mạc. 
Cận thị <= -18.00D. 
Loạn thị <=6.5D 
Khúc xạ ổn định 
Độ sâu tiền phòng đo từ nội mô ≥ 2.8 mm. 
Góc tiền phòng mở (độ 3 trở lên). 
Mật độ tế bào nội mô > 2000/mm2. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 32
Tiêu chuẩn loại trừ 
Mắt độc nhất, đục thuỷ tinh thể, bất thường 
dây chằng Zinn, bán lệch thuỷ tinh thể, tiền căn 
hoặc đang có bệnh lý tại mắt, bệnh lý dãn phình 
giác mạc biểu hiện. 
Phương pháp nghiên cứu 
Kính thước, công suất của ICL được tính 
bằng phần mềm OCOS (Online Calculation & 
Ordering System) theo qui định của hãng. Kích 
thước kính được lựa chọn dựa trên đường kính 
ngang giác mạc và độ sâu tiền phòng. Mục tiêu 
là đạt được chính thị (khúc xạ cầu tương đương 
trong khoảng +/-0,5D). Phẫu thuật được tiến 
hành bởi 1 phẫu thuật viên, tại Trung tâm mắt 
kỹ thuật cao An Sinh và Trung tâm mắt kỹ thuật 
cao 30-4. Nếu phẫu thuật 2 mắt, chúng tôi tiến 
hành phẫu thuật trên mắt phải trước, tiếp theo là 
mắt trái sau từ 2 đến 7 ngày. Phương pháp nhỏ 
tê hoặc tiêm tê cạnh cầu được lựa chọn tùy theo 
sự hợp tác và tâm lý của bệnh nhân. Sau khi ICL 
được gài vào nòng bơm, đường mổ chính, chiều 
dài 3.0mm, được tạo ở vùng rìa trong của giác 
mạc, vị trí thái dương (mắt phải: 9 giờ, mắt trái: 3 
giờ). Hai đường mổ phụ tạo bởi dao 15 độ, nằm 
cách hai bên đường mổ chính 2,5 cung giờ. Sau 
khi bơm dịch nhày Methylcelullose vào tiền 
phòng, ICL được đưa vào tiền phòng qua đường 
mổ chính, 4 mấu chân ICL gài xuống dưới mống 
mắt và xoay đúng trục bởi dụng cụ chuyên biệt. 
Chất nhày được rửa hút sạch và nhẹ nhàng qua 
đường mổ phụ. Kết thúc phẫu thuật bằng bơm 
kháng sinh tiền phòng, bơm phù vết mổ, co 
đồng tử bằng Miochol 1% nếu cần. Các biến số: 
tuổi, giới, mắt can thiệp, thị lực không kính, thị 
lực chỉnh kính, khúc xạ chủ quan, nhãn áp, độ 
dày giác mạc trung tâm, mật độ tế bào nội mô, 
độ sâu tiền phòng đo từ nội mô, biến cố, biến 
chứng được thu thập ở các thời điểm trước, 
trong phẫu thuật và tái khám sau phẫu thuật 1 
ngày, 1 tuần, 1 tháng. 
Kết quả được phân tích bằng phần mềm 
SPSS 16.0. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p 
< 0,05. Chỉ số hiệu quả là tỷ lệ thị lực không kính 
sau phẫu thuật/thị lực chỉnh kính trước phẫu 
thuật. Chỉ số an toàn là tỷ lệ thị lực chỉnh kính 
sau phẫu thuật/trước phẫu thuật. Thị lực định 
dạng thị lực thập phân. 
KẾT QUẢ 
Mẫu nghiên cứu 
Nghiên cứu của chúng tôi gồm 26 bệnh 
nhân, với số mắt phẫu thuật là 52 mắt, có thời 
gian theo dõi từ 1 tháng trở lên, nên các kết quả 
thị lực, hiệu quả, an toàn, chính xác được tính ở 
thời điểm 1 tháng. Các thông số nền được trình 
bày trong bảng 1. và bảng 2. 
Bảng 1. Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu 
Thông số Số lượng Tỷ lệ 
Giới 
Nam 9 35% 
Nữ 17 65% 
Loại tật khúc xạ 
Cận thị đơn thuần 11 21% 
Cận thị kèm loạn thị 41 79% 
Lý do chọn ICL 
Giác mạc mỏng 12 46% 
Cận nặng 13 50% 
Nghi ngờ giác mạc chóp 1 4% 
Kích thước ICL 
12.1 mm 4 8% 
12.6 mm 26 50% 
13.2 mm 22 42% 
Bảng 2. Biến số nền mẫu nghiên cứu 
Biến số Trung bình Nhỏ 
nhất 
Lớn 
nhất 
Tuổi 23,15 ± 3,59 18 32 
Độ cầu trước mổ (D) -9,06 ± 2,91 -4,5 -17,50 
Độ trụ trước mổ (D) -1,66 ± 1,21 0 -6,5 
Độ cầu tương đương trước 
mổ (D) -9,89 ± 3,16 -3 -19 
Thị lực thập phân chỉnh kính 
trước mổ 0,92 ± 0,155 0,48 1 
Chiều dày giác mạc (µm) 517,15 ± 
43,23 442 622 
Mật độ tế bào nội mô (số tế 
bào/mm
2
) 2901 ± 190 2468 3309 
Độ sâu tiền phòng (µm) 3,20 ± 0,23 2,71 3,63 
Đường kính ngang giác mạc 
(mm) 11,86 ± 0,38 11 12,5 
Nhãn áp (mmHg) 14,80 ± 1,99 10 19 
Tính hiệu quả 
logMAR thị lực không kính trước phẫu thuật 
là 1,50 ± 0,255. Sau phẫu thuật 1 ngày, 1 tuần, 1 
tháng, logMAR thị lực không kính lần lượt là 
0,12 ± 0,14; 0,08 ± 0,12; 0,07 ± 0,11. Thay đổi của 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 33
thị lực thập phân được trình bày trong biểu đồ 1. 
Chỉ số hiệu quả tại thời điểm sau phẫu thuật 1 
tháng (52 mắt) là 0,97. 
Thị lực không kính cải thiện ngay sau mổ 
một ngày, đạt mức trung bình 8/10 và tiếp tục 
tăng cho đến một tháng nhưng sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (z-test, p> 0,05) (Biểu 
đồ 1). 
Biểu đồ 2 cho thấy sau phẫu thuật 1 tháng, 
96% trường hợp có thị lực không kính từ 5/10 trở 
lên và 75% từ 8/10 trở lên. 
Độ cầu tương đương sau phẫu thuật ổn 
định ngay từ 1 ngày, không ghi nhận sự khác 
biệt giữa các thời điểm tái khám sau phẫu 
thuật (z-test, p>0,05) (Biểu đồ 1). 
Biểu đồ 1. Thay đổi thị lực. (TLKK: thị lực không kính, TLCK: thị lực chỉnh kính) 
0
87% 90%
96%
0
63%
75% 75%
0
33%
44%
48%
TRƯỚC PT SAU PT1 NGÀY SAU PT 1 TUẦN SAU PT 1 
THÁNG>=5/10 >=8/10 >=10/10
Biểu đồ 2. Thị lực không kính tích lũy 
-9.89 
-0.012 
0.08 0.15 
-10.00
-8.00
-6.00
-4.00
-2.00
0.00
Trước PT Sau PT 1 ngày Sau PT 1 tuần Sau PT 1 tháng
Đ
ộ
 c
ầu
 t
ư
ơ
n
g 
đ
ư
ơ
n
g 
(D
) 
Biểu đồ 3. Độ cầu tương đương sau mổ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 34
Tính an toàn 
Chỉ số an toàn tại thời điểm sau phẫu thuật 1 
tháng là 1.06. Không ghi nhận trường hợp nào 
giảm thị lực chỉnh kính sau mổ, trong khi có 15% 
tăng từ 2 hàng thị lực trở lên (biểu đồ 4). 
Tính chính xác 
Mối tương quan giữa độ cầu tương đương 
mục tiêu (về chính thị) với độ cầu tương đương 
thật sự đã điều trị được biểu diễn trong biểu đồ 5 
(R2 = 0,988). Hầu hết các trường hợp (96%) khúc 
xạ tồn dư nằm trong biên ± 1,00D. Có 2 mắt (4%) 
lệch ra khỏi biên này là những trường hợp cận 
rất nặng (cầu -17,00D; -17,50D, độ trụ 3,00D) với 
độ cầu tương đương tồn dư là -1,25D và -1,625D 
(Biểu đồ 5). 
Biểu đồ 6 biểu diễn tỷ lệ độ cầu, độ trụ, độ 
cầu tương đương 1 tháng sau phẫu thuật. Tỷ lệ 
độ cầu trong khoảng ± 0,25D và ± 0,50D cao hơn 
so với độ trụ (p<0,05). 
Biểu đồ 7 là biểu đồ phân tán khúc xạ 1 
tháng sau phẫu thuật. Bốn trường hợp có độ cầu 
(+1,5D; +1,25D), độ trụ (-3,50D; -1,50D) tồn dư 
sau phẫu thuật là do kính bị lệch trục, đã được 
chỉnh trục nhưng vẫn không cải thiện. 
64% 
21% 
12% 
3% Không đổi 
Tăng 1 hàng
Tăng 2 hàng
Tăng > 2 hàng
Biểu đồ 4. Thay đổi thị lực chỉnh kính sau phẫu thuật 1 tháng 
Biểu đồ 5. Tương quan khúc xạ mục tiêu và điều trị 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 35
46%
10%
75%79%
54%
94%94% 90%
96%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
120%
Độ cầu Độ trụ Độ cầu tương 
đương
Tỷ
 lệ
 %
+/- 0,25 D +/- 0,50 D +/- 1,00 D
Biểu đồ 6. Khúc xạ tồn dư sau phẫu thuật 
-4
-3.5
-3
-2.5
-2
-1.5
-1
-0.5
0
-1.5 -1 -0.5 0 0.5 1 1.5 2
Đ
ộ
 t
rụ
Độ cầu 
Biểu đồ 7. Biểu đồ phân tán khúc xạ sau phẫu thuật. 
Nhãn áp 
Nhãn áp trung bình sau 1 ngày, 1 tuần, 1 
tháng tương ứng là 14,08±1,99; 14,13±2,71; 
15,35±4,68. Trung bình nhãn áp các lần tái khám 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê, và không 
khác biệt so với trước phẫu thuật (z-test, p<0,05). 
Có 1 bệnh nhân (1 mắt) tăng áp 1 ngày sau phẫu 
thuật do còn sót chất nhầy, và 1 bệnh nhân (2 
mắt) tăng áp sau 1 tháng do nhạy cảm với 
corticoid. Cả hai trường hợp đều đáp ứng tốt với 
thuốc, sau điều trị nhãn áp điều chỉnh về mức 
bình thường. 
Biến chứng khác 
Phản ứng viêm tiền phòng trung bình sau 1 
ngày phẫu thuật là tyndall 1,26+. Nhưng đến các 
thời điểm tái khám sau đó (1 tuần, 1 tháng) thì 
hoàn toàn không ghi nhận phản ứng viêm trong 
tiền phòng. Có 2 mắt (2 bệnh nhân) (4%) bị xoay 
trục sau mổ. 
BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu của Shimizu(6), 100% đạt 
được kết quả thị lực > 5/10 trong tất cả các lần tái 
khám. Nghiên cứu của Alfonso(1) cũng ghi nhận 
kết quả thị lực tốt, với 92,1% thị lực không kính 
đạt từ 5/10 trở lên. Thị lực không kính và thị lực 
chỉnh kính lần lượt là 0,009 ± 0,062 logMAR và -
0,015 ± 0,032 logMAR. Thị lực không kính trong 
nghiên cứu của Lisa(4) là 0.028 ± 0.055logMAR. 
Nghiên cứu của chúng tôi thu thập dữ liệu từ 
những ca đầu tiên, hoàn toàn theo hướng dẫn 
của nhà sản xuất, chưa có nomogram riêng biệt, 
các thao tác phẫu thuật còn chưa thực sự thành 
thục, nhưng kết quả sớm sau mổ cho thấy tính 
hiệu quả khá cao của phương pháp này, với thị 
lực không kính và chỉnh kính sau 1 tháng lần 
lượt là 0,07 ± 0,11 logMAR và 0,01 ± 0,05 
logMAR, trong đó 96% bệnh nhân có thị lực 
không kính >=5/10 và 75% >=8/10. Chỉ số hiệu 
quả tại thời điểm 1 tháng của chúng tôi là 0,97, 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 36
tương đương với Alfonso (1) là 1,00 và Shizumi(6) 
là 0,96 (1 tháng). 
Tương tự như các nghiên cứu về ICL của các 
tác giả khác(1,4,6), chỉ số an toàn trong nghiên cứu 
của chúng tôi lớn hơn 1 (1,06). Không có bệnh 
nhân nào bị giảm thị lực chỉnh kính, đa phần 
(64%) thị lực không đổi, 15% tăng thị lực từ hai 
hàng trở lên, có phần cao hơn so với Shimizu 
(60% thị lực không đổi, 10% tăng 2 hàng) (6). Điều 
này có thể do mức độ cận thị trong nghiên cứu 
của chúng tôi cao hơn so với Shimizu nên hiệu 
ứng thu nhỏ kích thước ảnh của kính phân kỳ 
được cải thiện rõ rệt hơn và giúp gia tăng thị lực 
chỉnh kính so với trước phẫu thuật. Thị lực chỉnh 
kính sau mổ không giảm cũng cho thấy thiết kế 
lỗ trung tâm của kính V4c không ảnh hưởng đến 
tính an toàn thị lực của bệnh nhân. Vấn đề tinh 
tế hơn liên quan đến chất lượng thị giác gây chói 
hoặc quầng sáng cần được khảo sát kỹ hơn với 
những phép đo cụ thể (thị lực tương phản, 
quang sai bậc cao ). Tuy nhiên nghiên cứu của 
Shiratani(7) và Uozato(8) kết luận kích thước 
0,36mm của lỗ trung tâm tác dụng không đáng 
kể lên chất lượng thị giác. 
Shimizu nghiên cứu trên 20 mắt cận thị, ở 
thời điểm 1 tháng, ghi nhận 95% và 100% có độ 
khúc xạ tương ứng là ± 0,50 D và ± 1,00 D so với 
khúc xạ mục tiêu(6). Nghiên cứu của Alfonso(1) 
với số lượng mắt nhiều hơn (138 mắt, 70 bệnh 
nhân) có độ cầu tương đương sau mổ ổn định và 
gần với chính thị (-0,03 ± 0,19 D), 98,5% và 100% 
nằm trong khoảng ± 0,50 D và ±1,00 D. Chúng tôi 
cũng thu nhận được kết quả tương tự, độ cầu 
tương đương sau phẫu thuật 1 tháng là -0,016 D, 
với 94% và 96% nằm trong khoảng ± 0,50 D, ± 
1,00 D. Khi phân tích riêng độ cầu và độ trụ, tỷ lệ 
khúc xạ cầu tồn dư cao hơn so với độ trụ ở nhóm 
± 0,25D và ± 0,50D. Có lẽ vì điều trị loạn thị gặp 
khó khăn hơn so với cận thị đơn thuần trong đo 
đạc, tính toán, cũng như phẫu thuật. Một điểm 
nữa cần lưu ý, khi tính toán, chọn lựa công suất 
kính trên phần mềm, nhiều trường hợp do nhà 
sản xuất không có các bước nhảy dưới 0.5D đối 
với kính độ cao, nên công suất của ICL mục tiêu 
đã tiên liệu sự tồn tại của khúc xạ trụ. Tuy vậy 
nghiên cứu của chúng tôi cũng đã đạt tồn dư 
khúc xạ trụ là 54% và 90% trong khoảng 0,50 D 
và 1,00D. Gomez-Bastar thực hiện hồi cứu 194 
mắt điều trị với ICL loạn thị, thời gian theo dõi 
41 tháng, tỷ lệ loạn thị tồn dư sau phẫu thuật 
trong khoảng 0,50D và 1,00D là 42,6% và 71% (2). 
Điều này cho thấy, cần theo dõi lâu dài hơn nữa 
để có thể đánh giá về tính ổn định của độ trụ và 
nguy cơ ICL xoay trục sau mổ. 
Sau phẫu thuật, 2 biến chứng thường được 
quan tâm là tăng nhãn áp và đục thuỷ tinh thể. 
Chúng tôi chưa ghi nhận trường hợp nào bị 
đục thuỷ tinh thể do chấn thương phẫu thuật 
trong lô nghiên cứu này. Cần tiếp tục theo dõi 
để đánh giá tác động của ICL lên thủy tinh thể 
theo thời gian. 
Mặc dù nhãn áp trung bình trong các lần tái 
khám không thay đổi so với trước phẫu thuật, 
tuy nhiên, 1 mắt bị tăng áp (37 mmHg) tại thời 
điểm 1 ngày sau mổ do chất nhầy còn sót trong 
tiền phòng. Hai mắt (1 bệnh nhân) bị tăng áp ở 
thời điểm tái khám 1 tháng sau mổ (mắt phải 
38mmHg và mắt trái 33 mmHg) do nhạy với 
corticoid. Trường hợp đầu được rửa chất nhầy 
và ngưng Vigadexa ở trường hợp sau. Sau điều 
trị, cả 3 mắt nhãn áp trở về bình thường. Hai 
trường hợp này đều không liên quan đến thiết 
kế của kính. 
Thiết kế lỗ được kỳ vọng tạo dòng dịch 
chuyển tự nhiên hơn của thuỷ dịch trong tiền 
phòng giúp giảm nguy cơ đục thủy tinh thể do 
khiếm dưỡng cũng như tạo đường thoát của 
thủy dịch từ hậu phòng ra tiền phòng nhằm 
ngăn ngừa biến chứng tăng áp do nghẽn đồng 
tử, loại được thủ thuật cắt mống mắt chu biên, 
hạn chế bớt can thiệp lên mô nhãn cầu. Tính 
trong suốt của thủy tinh thể sau khi đặt ICL V4c 
sẽ tiếp tục được theo dõi và báo cáo. 
Sau phẫu thuật 1 ngày, phản ứng Tyndal tiền 
phòng ở mức 1+. Các lần tái khám sau đó không 
ghi nhận phản ứng viêm nào. Như vậy, ICL 
bước đầu cho thấy tương thích với mô nội nhãn. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2017 37
Biến chứng xoay trục xảy ra ở 2 mắt của 2 
bệnh nhân. Mắt đầu tiên được chỉnh trục nhưng 
sau đó kính lại bị xoay trở lại. Trường hợp thứ 2 
hiện đang được theo dõi. Cả 2 trường hợp đều 
có mắt còn lại thị lực tốt (10/10) và mắt có kính 
lệch trục thị lực > 5/10 (6.3/10), bệnh nhân hài 
lòng với kết quả. Hiện tượng xoay trục tái phát 
có thể do sự đặc biệt của cấu trúc giải phẫu khiến 
kính không ổn định ở vị trí mong muốn. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu này cho thấy trong giai đoạn 
hậu phẫu sớm, ICL V4c là 1 phương pháp hiệu 
quả, chính xác, an toàn để điều trị cận thị nặng 
có hoặc không kèm loạn thị. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alfonso JF, Lisa C, Fernández-Vega Cueto L, Belda-Salmerón L, 
Madrid-Costa D, Montés-Micó R. (2013)."Clinical outcomes 
after implantation of a posterior chamber collagen copolymer 
phakic intraocular lens with a central hole for myopic 
correction". J Cataract Refract Surg, 39(6): p. 915-21. 
2. Gomez-Bastar A, Jaimes M, Graue-Hernández EO, Ramirez-
Luquin T, Ramirez-Miranda A, Navas A. (2014)."Long-term 
refractive outcomes of posterior chamber phakic (spheric and 
toric implantable collamer lens) intraocular lens implantation." 
Int Ophthalmol., 34(3): p. 583-90. 
3. Holden BA, Fricke TR, Wilson DA, Jong M, Naidoo KS, 
Sankaridurg P, Wong TY, Naduvilath TJ, Resnikoff S. 
(2016)."Global Prevalence of Myopia and High Myopia and 
Temporal Trends from 2000 through 2050.". Ophthalmology, 
123(5): p. 1036-42. 
4. Packer M (2016)."Meta-analysis and review: effectiveness, 
safety, and central port design of the intraocular collamer lens." 
Clin Ophthalmol., 10: p. 1059-77. 
5. Schild G, Amon M, Abela-Formanek C, Schauersberger J, Bartl 
G, Kruger A. (2004)."Uveal and capsular biocompatibility of a 
single-piece, sharp-edged hydrophilic acrylic intraocular lens 
with collagen (Collamer): 1-year results.". J Cataract Refract 
Surg., 30(6): p. 1254-8. 
6. Shimizu K, Kamiya K, Igarashi A, Shiratani T. (2012)."Early 
clinical outcomes of implantation of posterior chamber phakic 
intraocular lens with a central hole (Hole ICL) for moderate to 
high myopia". Br J Ophthalmol., 96(3): p. 409-12. 
7. Shiratani T, Shimizu K, Fujisawa K, Uga S, Nagano K, 
Murakami Y. (2008)."Crystalline lens changes in porcine eyes 
with implanted phakic IOL (ICL) with a central hole.". Graefes 
Arch Clin Exp Ophthalmol., 246(5): p. 719-28. 
8. Uozato H, Shimizu K, Kawamorita T, Ohmoto F. 
(2011)."Modulation transfer function of intraocular collamer 
lens with a central artificial hole". Graefes Arch Clin Exp 
Ophthalmol., 249(7): p. 1081-5. 
Ngày nhận bài báo: 16/11/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 09/01/2017 
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2017