Tài liệu Kết quả ban đầu áp dụng quy trình phục hồi nhanh sau phẫu thuật cắt đại tràng: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 127
KẾT QUẢ BAN ĐẦU ÁP DỤNG QUY TRÌNH PHỤC HỒI NHANH
SAU PHẪU THUẬT CẮT ĐẠI TRÀNG
Lê Huy Lưu**, Ngô Quang Duy*, Nguyễn Tuấn Anh**, Vũ Ngọc Sơn*, Trần Ngọc Trung**,
Đinh Hữu Hào*, Nguyễn Văn Hải**, Nguyễn Anh Dũng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Quy trình phục hồi nhanh sau phẫu thuật (ERAS) đại trực tràng giúp rút ngắn thời gian nằm
viện và giảm tỉ lệ biến chứng. Dù đã có những hướng dẫn rất rõ ràng và có cơ sở chứng cứ mạnh, nhưng việc áp
dụng đầy đủ quy trình vào trong thực hành lâm sàng vẫn gặp những khó khăn nhất định, nhất là trong giai đoạn
đầu áp dụng. Mục tiêu của báo cáo này là phân tích quá trình thực hiện và kết quả ban đầu khi chúng tôi áp dụng
quy trình phục hồi nhanh sau phẫu thuật cắt đại tràng.
Phương pháp: Chúng tôi thiết lập một quy trình ERAS gồm 25 mục. Các nguyên tắc và tiêu chuẩn xuất
viện dựa theo hướng dẫn của hiệp hội ERAS quố...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 191 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả ban đầu áp dụng quy trình phục hồi nhanh sau phẫu thuật cắt đại tràng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 127
KẾT QUẢ BAN ĐẦU ÁP DỤNG QUY TRÌNH PHỤC HỒI NHANH
SAU PHẪU THUẬT CẮT ĐẠI TRÀNG
Lê Huy Lưu**, Ngô Quang Duy*, Nguyễn Tuấn Anh**, Vũ Ngọc Sơn*, Trần Ngọc Trung**,
Đinh Hữu Hào*, Nguyễn Văn Hải**, Nguyễn Anh Dũng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Quy trình phục hồi nhanh sau phẫu thuật (ERAS) đại trực tràng giúp rút ngắn thời gian nằm
viện và giảm tỉ lệ biến chứng. Dù đã có những hướng dẫn rất rõ ràng và có cơ sở chứng cứ mạnh, nhưng việc áp
dụng đầy đủ quy trình vào trong thực hành lâm sàng vẫn gặp những khó khăn nhất định, nhất là trong giai đoạn
đầu áp dụng. Mục tiêu của báo cáo này là phân tích quá trình thực hiện và kết quả ban đầu khi chúng tôi áp dụng
quy trình phục hồi nhanh sau phẫu thuật cắt đại tràng.
Phương pháp: Chúng tôi thiết lập một quy trình ERAS gồm 25 mục. Các nguyên tắc và tiêu chuẩn xuất
viện dựa theo hướng dẫn của hiệp hội ERAS quốc tế. Chúng tôi phân tích việc tuân thủ quy trình và ảnh hưởng
của nó lên các kết cục điều trị như thời gian nằm viện, biến chứng và tỉ lệ nhập viện lại.
Kết quả: Quy trình ERAS được áp dụng cho 18 bệnh nhân cắt đại tràng nội soi tại bệnh viện chúng tôi từ
tháng 7/2017 đến tháng 7/2018. Tỉ lệ thực hiện chung của quy trình là 84%. Trong đó tuỳ từng nội dung thì lại
có mức tuân thủ khác nhau. Nằm viện trung bình sau mổ là 4,3 ngày (2 - 11 ngày), có 2 bệnh nhân (11,11%)
suất viện trong 2 ngày, 44,44% xuất viện trong vòng 3 ngày và 83,33% xuất viện trong vòng 5 ngày. Không có
biến chứng sau mổ và không có bệnh nhân nào nhập viện lại sau khi xuất viện.
Kết luận: Quy trình phục hồi nhanh sau phẫu thuật đại tràng giúp làm giảm thời gian nằm viện mà không
làm tăng biến chứng. Việc áp dụng quy trình vào thực hành lâm sàng hàng ngày là một quá trình dần dần. Để áp
dụng thành công với sự tuân thủ cao, chúng ta nên thường xuyên tổ chức huấn luyện cho tất cả các bộ phận
tham gia và liên tục đánh giá kết quả đạt được.
Từ khoá: Phục hồi nhanh sau phẫu thuật, Ung thư đại tràng, Chăm sóc chu phẫu.
ABSTRACT
SHORT-TERM OUTCOMES OF IMPLEMENTATION OF ENHANCED RECOVERY AFTER SURGERY
PROTOCOL IN PATIENTS UNDERGOING COLONIC SURGERY
Le Huy Luu, Ngo Quang Duy, Nguyen Tuan Anh, Vu Ngoc Son, Tran Ngoc Trung, Dinh Huu Hao,
Nguyen Van Hai, Nguyen Anh Dung
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 ‐ No 6 ‐ 2018: 127 ‐ 132
Background: Enhanced Recovery After Surgery protocol in colorectal surgery allows shortening length of
hospital stay and reducing complication rate. Although the guidelines are very clear and have strong evidence,
their full implementation and putting them into daily practice meets certain difficulties, especially in the early
stage. The aim of the study was to analyse the course of implementation of the ERAS protocol and to access short-
term outcomes of ERAS program in the patients undergoing colonic surgery.
Methods: We established anERAS protocol consisting of 25 items. Its principles and discharge criteria were
based on the guidelines of the ERAS Society guidelines. We analysed the compliance with the protocol and its
influence on length of hospital stay, postoperative complications and readmission rate.
** Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh. * Khoa Ngoại Tiêu Hóa ‐ Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Lê Huy Lưu ĐT: 0903945397 Email: lehuyluu@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 128
Results: The ERAS protocols were implemented for 18 patients submitted to laparoscopic resectionat our
institution from 7/2017 to 7/2018.The overall compliance rates with the ERAS protocols was 84%. The
compliance with subsequent protocol elements was different.The median length of postoperative hospital stay was
4.3 (2 - 11) days. Moreover,2 patients (11.11%) were discharged within 2days, 44.44% were discharged within 3
days and 83.33% were discharged within 5 days. There weren’t postoperative complications.No patientwas
readmitted.
Conclusions: ERAS protocols for colonic surgery helped reduce the length of postoperative hospital stay
without adversely affecting morbidity.The introduction of the ERAS protocolinto daily practice is a gradual
process. For the ERAS program to be implemented successfully with high levels of element compliance, we should
be put on continuous training of personnel of all specialties and continuous evaluation of the results.
Keywords: Enhanced recovery after surgery, Colorectal cancer, Perioperative care.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Quy trình phục hồi nhanh sau phẫu thuật
(ERAS) là sự kết hợp của nhiều phương thức
khác nhau để chăm sóc và xử trí cho các bệnh
nhân trải qua phẫu thuật lớn. Tất cả các phương
thức can thiệp này đều dựa trên chứng cứ nhằm
giảm căng thẳng phẫu thuật, duy trì chức năng
sinh lý sau phẫu thuật và tăng tốc độ phục hồi(3).
Quy trình này được xem là tiêu chuẩn trong
phẫu thuật đại trực tràng, vì chúng đã được
chứng minh là cải thiện sự phục hồi sau phẫu
thuật, giảm các biến chứng, rút ngắn thời gian
nằm viện(1,11) cũng như giảm chi phí tổng thể(8,9).
Kết cục lâm sàng liên quan chặt chẽ với sự
tuân thủ các yếu tố trong quy trình ERAS(2). Tuy
nhiên, dù các yếu tố trong quy trình ERAS đã
được chứng minh bằng y học chứng cứ nhưng
do quá khác biệt so với quy trình chăm sóc
thông thường nên việc tuân thủ gặp không ít
khó khăn, nhất là trong giai đoạn đầu. Các yếu
tố cơ bản trong quy trình ERAS như không nhịn
ăn, không chuẩn bị ruột, không dẫn lưu, hạn chế
dịch truyền, cho ăn sớm hoặc vận động sớm.có
vẻ như rất mới mẻ và gây hoang mang cho
không ít nhân viên y tế khi thực hiện. Khoa
Ngoại Tiêu hoá, bệnh viện Nhân dân Gia Định
đã bắt đầu áp dụng quy trình ERAS cho một số
bệnh nhân từ tháng 7 năm 2017. Mục đích của
nghiên cứu này là phân tích quá trình thực hiện
và đánh giá ban đầu sự tuân thủ quy trình ERAS
tại cơ sở của chúng tôi. Các kết cục lâm sàng
được xem xét là thời gian nằm viện, tỉ lệ biến
chứng và tỉ lệ tái nhập viện.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi phân tích và đánh giá quá trình
thực hiện, kết cục lâm sàng của tất cả các bệnh
nhân phẫu thuật đại trực tràng được thực hiện
quy trình ERAS trong 12 tháng, từ ngày 1 tháng
7 năm 2017 đến ngày 1 tháng 7 năm 2018.
Hướng dẫn của hiệp hội ERAS quốc tế (ERAS
Society) về phẫu thuật đại trực tràng là nền tảng
trong trong việc thiết lập quy trình của chúng tôi
(bảng 3)(3).Hội đồng khoa học của bệnh viện đã
phê duyệt nghiên cứu và tất cả các bệnh nhân đã
đồng ý bằng văn bản trước khi phẫu thuật.
Kể từ khi thực hiện quy trình, các thông tin
nhân khẩu học và phẫu thuật cùng với thông
tin về quá trình chăm sóc chu phẫu và kết cục
lâm sàng được chúng tôi thu thập và lưu trữ.
Việc tuân thủ hoặc không tuân thủ các thành
phần riêng lẻ trongquy trình ERAS được đánh
giá riêng cho từng bệnh nhân. Tuân thủ tổng
thể cũng như tuân thủ trong từng giai đoạn
tiền phẫu thuật, phẫu thuật và hậu phẫu cũng
được ghi nhận và phân tích. Trong trường hợp
không tuân thủ, chúng tôi tìm hiểu sự không
tuân thủ này đến từ bộ phận nào: phẫu thuật
viên, bác sĩ điều trị, bác sĩ gây mê, y tá hoặc
bệnh nhân... Nguyên nhân không tuân thủ đến
từ tình huống phát sinh hay do quen với quy
trình truyền thống.
Tất cả những vấn đề dẫn đến việc chưa thực
hiện đúng quy trình sẽ tiếp tục được thảo luận
giữa nhóm nòng cốt với nhóm liên quan sau đó
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 129
sẽ trình hội đồng khoa học của bệnh viện. Các
quyết định sẽ dựa vào kết cục lâm sàng và các
chứng cứ y học hiện hành.
KẾT QUẢ
Bệnh nhân
Trong thời gian 12 tháng, 18 bệnh nhân phẫu
thuật đại trực tràng được áp dụng quy trình
ERAS. Đặc điểm bệnh nhân và phương pháp mổ
được thể hiện trong bảng 1. Hầu hết các trường
hợp (16/18) được phẫu thuật nội soi hoàn toàn
với thực hiện miệng nối trong ổ bụng với stapler
thẳng, trong đó có 1 TH kèm cắt thuỳ gan trái do
di căn; 2 TH phẫu thuật nội soi hỗ trợ là ung thư
chỗ nối đại tràng Sigma trực tràng, thực hiện
miệng nối bằng stapler vòng.
Bảng 1: Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Đặc điểm n = 18
Tuổi trung bình 57 (32-87)
Giới 9:9
ASA:
I-II
III-IV
10
8
Chẩn đoán:
Polyp đại tràng phải
K đại tràng phải
K đại tràng trái
1
12
5
Bệnh kèm theo
Tim mạch (THA, TMCT, suy tim)
Đái tháo đường
Hô hấp (COPD)
Ung thư (vú, cổ tử cung)
8
3
2
1
Phương pháp mổ
PTNS hoàn toàn
PTNS hỗ trợ
16
2
Sự tuân thủ quy trình ERAS
Với 25 yếu tố chúng tôi thiết lập trong quy
trình ERAS, sự tuân thủ tổng thể là 84%. Các
biện pháp trước phẫu thuật được áp dụng với
mức độ tuân thủ 67%, trong khi các biện pháp
phẫu thuật và sau phẫu thuật được tuân thủ
với tỉ lệ tương ứng là 86% và 100%. Việc tuân
thủ các mục riêng lẻ được thể hiện trong bảng
3 với sự tuân thủ ở các mức độ khác nhau. Sau
đây là một số nội dung đáng lưu ý không đạt
quy trình chuẩn:
Ngưng rượu và thuốc lá 30 ngày trước phẫu
thuật không thực hiện được trong nghiên cứu này;
Việc cung cấp dung dịch đường qua đường
uống cho bệnh nhân 2 giờ trước mổ không được
thực hiện;
Phòng ngừa huyết khối, tầm soát và phòng
ngừa ói chưa được thực hiện trong thời gian
nghiên cứu. Hiện tại chúng tôi đã có quy trình và
sẽ thực hiện, các báo cáo tiếp sau này sẽ cập nhật.
Liệu pháp dịch truyền không đạt, quá nhiều
dịch truyền cả trong và sau mổ (Bảng 2). Ngoài
ra còn có 61,1% có sử dụng dịch truyền dinh
dưỡng là đạm, béo thay vì chỉ truyền dịch tinh thể.
Bảng 2: Kiểm soát dịch truyền
Thời điểm Lượng
dịch
Máu
mất
Thời gian
mổ
Dịch truyền trong mổ 1860 ml 61 ml 179 phút
Dịch truyền ngày mổ 3340 ml - -
Dịch truyền ngày 1 1667 ml - -
Dịch truyền ngày 2 1580 ml - -
Giảm đau sau mổ thường phối hợp Acupan
và Perfalgan truyền, hiệu quả giảm đau nói
chung chưa kiểm soát tốt, nhất là 2 ngày đầu
tiên. Điều này ít nhiều ảnh hưởng tới việc vận
động sớm.
Ai chịu trách nhiệm của việc không tuân thủ?
Sự tuân thủ về mặt tổng thể tương đối cao
tuy nhiên xét từng nội dung cụ thể thì vẫn còn
nhiều nội dung tuân thủ rất thấp thậm chí khó
đánh giá chính xác. Việc chịu trách nhiệm cho sự
không tuân thủ này đến từ tất cả các thành phần
tham gia vào quy trình này bao gồm bác sĩ điều
trị, phẫu thuật viên, bác sĩ gây mê, y tá và cả
bệnh nhân. Thậm chí bệnh nhân dù không từ
chối tuân theo các khuyến nghị nhưng chúng tôi
cũng chưa thể giám sát họ thực hiện có đầy đủ
hay chưa.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 130
Bảng 3: Nội dung và sự tuân thủ quy trình ERAS
Nội dung quy trình ERAS Sự tuân thủ (%)
1
2
3
Ngưng rượu và thuốc lá
Tầm soát, đánh giá và hỗ trợ dinh dưỡng
Điều trị tối ưu các bệnh mạn tính
Không đạt
100%
100%
4
5
6
7
8
9
10
Tư vấn về quy trình ERAS
Uống nước đường cho đến 2 giờ trước phẫu thuật1
Ăn nhẹ cho đến 6 giờ
Không chuẩn bị ruột cơ học trước phẫu thuật
Điều trị phòng ngừa huyết khối
Kháng sinh dự phòng
Điều trị phòng ngừa ói
100%
(-)
Hạn chế
94,44%
(-)
100%
(-)
11
12
13
14
15
16
17
Giảm đau ngoài màng cứng*
Quy trình gây mê chuẩn
Kiểm soát dịch truyền trong mổ
Giữ ấm cơ thể trong mổ
PTNS cắt đại tràng nối trong
Không dẫn lưu bụng
Không đặt hoặc rút Levin trước khi tỉnh
(±)
(-)
Không đạt
12.34%
88,89%
77,78%
94,44%
18
19
20
21
22
23
24
25
Bắt đầu ăn uống sớm sau mổ2
Nhai Chewing-gum và dùng thuốc nhuận trường
Thuốc chống ói
Vận động sớm sau mổ3
Hạn chế và ngưng dịch truyền sớm (20-25ml/kg/ngày)
Giảm đau đa mô thức
Rút thông tiểu ngày thứ nhất sau mổ
Xuất viện ngày thứ 3 sau mổ
61,11%
(±)
(±)
83,33%
Không đạt
100%
83,33%
44,44%
Kết cục lâm sàng
Dù sự tuân thủ chưa như kỳ vọng nhưng kết
cục lâm sàng rất đáng khích lệ. Chỉ 1 trường hợp
có biến chứng sốt kéo dài sau mổ (5,6%), số ngày
nằm viện được rút ngắn với 44,44% xuất viện
sau 3 ngày và 83,33% xuất viện sau 5 ngày (Biểu
đồ 1).
2 3 4 5 6 7 11
2
6
3
4
1 1 1
Số ngày nằm viện sau mổ
Biểu đồ 1: Số ngày nằm viện sau mổ
Số ngày nằm viện sau mổ trung bình là
4,33 ± 2,14 ngày (2 ‐ 11 ngày). Trường hợp duy
nhất nằm viện 11 ngày là ung thư đại tràng di
căn gan, được mổ cắt đại tràng và cắt thuỳ trái
gan. Sau mổ phục hồi tiêu hoá tốt nhưng sốt
kéo dài kèm lở miệng (nghi do nhiễm siêu vi).
Bệnh nhân vẫn ăn uống và sinh hoạt bình
thường, khi xuất viện và theo dõi ngoại trú
vẫn còn sốt và hết sốt khi tái khám sau 1 tuần.
Không có bệnh nhân nào phải nhập viện lại vì
các vấn đề liên quan.
BÀN LUẬN
Khi có một tác động lên cơ thể thì cơ thể sẽ
phản ứng lại tác động đó, sự phản ứng này có
tác dụng bảo vệ nhưng nếu quá mức sẽ dẫn đến
có hại. Phẫu thuật là một sự tác động xâm hại
cho cơ thể, phẫu thuật càng lớn thì sự xâm hại
càng nhiều. Chúng ta đều biết các bệnh nhân trải
qua phẫu thuật lớn về đại trực tràng sẽ phải chịu
quá trình hồi phục kéo dài với những thay đổi
về các chức năng nội tiết, chuyển hoá, thần kinh
và hô hấp trong suốt quá trình hậu phẫu. Tuy
nhiên, sự quan tâm của chúng ta lại chưa tập
trung đúng mức vào việc làm thế nào để kiểm
soát được các thay đổi này. Thậm chí, đối với
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 131
phẫu thuật tiêu hoá nói chung, có một số nguyên
tắc bất khả xâm phạm được truyền qua nhiều
thế hệ phẫu thuật viên trong thời gian rất dài
như nhịn ăn kéo dài, làm sạch ruột trước mổ, đặt
thông mũi dạ dày, dẫn lưu bụng, nằm nghỉ kéo
dài... Phần lớn các quan điểm này chỉ dựa trên
kinh nghiệm chứ không căn cứ vào các bằng
chứng khoa học. Chương trình ERAS là quy
trình dựa theo y học bằng chứng được thiết kế
để chuẩn hoá và tối ưu hoá việc chăm sóc chu
phẫu nhằm làm giảm sang chấn phẫu thuật,
giảm căng thẳng tâm sinh lý chu phẫu và giảm
rối loạn chức năng cơ quan cho bệnh nhân phẫu
thuật chương trình(5). Từ đó giúp cải thiện kết
quả điều trị, giảm thời gian nằm viện và giúp
bệnh nhân nhanh chóng phục hồi để trở lại cuộc
sống bình thường. Các lợi ích khác của chương
trình này là làm giảm biến chứng, giảm chi phí y
tế và làm tăng sự hài lòng của người bệnh. Với
việc áp dụng quy trình này, chúng tôi đã đạt
được kết quả ban đầu rất đáng khích lệ, bệnh
nhân phục hồi nhanh, ít biến chứng và rút ngắn
đáng kể thời gian nằm viện.
Tuy nhiên, một thách thức cơ bản trong việc
tuân thủ quy trình là các công việc phải thực
hiện trải dài trong hành trình mà bệnh nhân
phẫu thuật đi qua các bộ phận khác nhau của
bệnh viện: phòng khám ngoại trú, khoa ngoại
tiền phẫu, phòng mổ, phòng hồi sức, khoa chăm
sóc phục hồi sau phẫu thuật và cần cả đội ngũ
hỗ trợ chăm sóc tại nhà. Mỗi bộ phận có trọng
tâm, nhân sự và chuyên gia riêng. Lãnh đạo
từng bộ phận chỉ đạo những người phải tuân
theo các lựa chọn điều trị được thực hiện tại bộ
phận đó.Không có bộ phận liên quan nào có cơ
hội gặp một bệnh nhân qua toàn bộ hành trình
phẫu thuật của họ(10). Vì vậy, nếu không được tổ
chức tốt thì rất khó có thể thực hiện đầy đủ quy
trình. Thực tế, dù được sự hỗ trợ và tham gia
tích cực củacác phòng ban và chuyên gia khác
nhau trong bệnh viện nhưng sự tuân thủ quy
trình của chúng tôi vẫn chưa đạt như kỳ vọng.
Một lý do rất lớn nữa là những thay đổi trong
quy trình ERAS quá khác với truyền thống cũng
khiến một số nội dung chưa được thực hiện. Ví
dụ như việc vẫn cho bệnh nhân tiếp tục uống
nước đến 2 giờ trước mổ khiến các bác sĩ gây mê
e ngại, việc cho ăn sớm ngay sau mổ khiến phẫu
thuật viên âu lo dẫn tới dịch truyền sau mổ vẫn
còn nhiều và có tới 61% các trường hợp truyền
dịch sau mổ với mục đích dinh dưỡng. Việc cho
xuất viện sớm cũng khiến các bác sĩ e ngại dù
bệnh nhân đã đạt các tiêu chuẩn về mặt y tế để
rời khỏi bệnh viện như: người đó có thể ăn uống
để đáp ứng nhu cầu hàng ngày, lưu thông ruột
tốt, đau được kiểm soát bằng thuốc giảm đau
đường uống, người đó có khả năng di chuyển để
tự chăm sóc và không có biến chứng nào cần
được chăm sóc tại bệnh viện.
Như vậy, tổ chức một trương trình ERAS tốt
thì việc cốt lõi là chúng ta cần nhận ra lợi ích của
ERAS, từ đó tổ chức một nhóm chủ chốt từ các
đơn vị liên quan chỉ đạo và kiểm soát việc thay
đổi thực hành(6). Nhóm này là một độingũgồm
nhiều lĩnh vực được huấn luyện tốt, bao gồm:
Bác sĩ ngoại khoa; Bác sĩ gây mê và chuyên gia
về giảm đau; đội ngũ điều dưỡng; chuyên gia
vật lý trị liệu, chuyên gia về liệu pháp nghề
nghiệp; đội công tác xã hội... Lãnh đạo nhóm
thường là một bác sĩ ngoại khoa, được hỗ trợ bởi
một bác sĩ gây mê. Lý do bác sĩ ngoại khoa nên
là lãnh đạo nhóm vì thông thường bác sĩ ngoại
khoa sẽ có trách nhiệm và có thời gian tiếp xúc
với bệnh nhân nhiều nhất, có cơ hội tốt nhất để
xem xét toàndiện.Thêm nữa, quy trình ERAS là
một tập hợp các biện pháp can thiệp riêng lẻ và
phải phối hợp tốt với nhau mới đem lại hiệu
quả. Việc thỏa thuận nhất quán về các điểm mấu
chốt của mỗi nội dung là rất quan trọng cho
hành động phối hợp.
Ngoài ra, cần thường xuyên cập nhật y văn
và xem xét cẩn thận các nguồn lực tại nơi áp
dụng quy trình ERAS(4,7).Quy trình cần được
thiết lập qua sự đồng thuận và được ban hành
bằng văn bản.Cần đánh giá lại một cách hệ
thống kết quả bao gồm thời gian nằm viện, tỉ lệ
biến chứng, tì lệ tử vong, tỉ lệ nhập viện lại, từ đó
so sánh với các trung tâm khác và làm động lực
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 132
cho đội ngũ nhân viên và bệnh nhân. Tuy nhiên,
dù quy trình ERAS nói chung là một loạt các
biện pháp có khả năng mang lại lợi ích, nhưng
chúng ta không nên xem đó như là một hệ thống
cứng nhắc. Các bác sĩ vẫn phải xem xét kỹ
lưỡng, chọn lựa phù hợp hoặc thậm chí sửa đổi
quy trình dự kiến tuỳ theo từng cá thể và tình
hình thực tế lâm sàng.
Một số hạn chế của nghiên cứu này là dữ
liệu hiện tại còn ít, chỉ phản ánh kinh nghiệm
thực tế của chúng tôi và không thể được khái
quát hóa cho các bệnh viện khác. Chúng tôi vẫn
đang tiếp tục thực hiện và hoàn thiện dần để
thực hiện các mục tiêu và trả lời các câu hỏi về
lợi ích của quy trình tiềm năng này.
KẾT LUẬN
Quy trình phục hồi nhanh sau phẫu thuật
đại tràng giúp làm giảm thời gian nằm viện mà
không làm tăng biến chứng. Việc áp dụng quy
trình vào thực hành lâm sàng hàng ngày là một
quá trình được hoàn thiện dần dần. Để áp dụng
thành công với sự tuân thủ cao, chúng ta nên
thường xuyên tổ chức huấn luyện cho tất cả các
bộ phận tham gia và liên tục đánh giá kết quả
đạt được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alison L, Solomon MJ, Harrison JD (2014), "A qualitative study
assessing the barriers to implementation of enhanced recovery
after surgery". World journal of surgery, 38 (6), pp. 1374‐1380.
2. Greco M, Capretti G, Beretta L, Gemma M, Pecorelli N et al.
(2014), "Enhanced recovery program in colorectal surgery: a
meta‐analysis of randomized controlled trials". World journal of
surgery, 38 (6), pp. 1531‐1541.
3. Gustafsson UO, Hausel J, Thorell A, Ljungqvist O, Soop M et al.
(2011), "Adherence to the enhanced recovery after surgery
protocol and outcomes after colorectal cancer surgery". Archives
of surgery, 146 (5), pp. 571‐577.
4. Gustafsson UO, Scott MJ, Schwenk W, Demartines N, Roulin D
et al (2013), "Guidelines for perioperative care in elective colonic
surgery: Enhanced Recovery After Surgery (ERAS®) Society
recommendations". World journal of surgery, 37(2), pp. 259‐284.
5. Joris J, Léonard D, Slim K (2018), "How to implement an
enhanced recovery programme after colorectal surgery?". Acta
Chirurgica Belgica, 118(2), pp. 73‐77.
6. Kehlet H, Wilmore DW (2005), "Fast‐track surgery". Br J Surg, 92
(1), pp. 3‐4.
7. Ljungqvist O, Scott M, Fearon KC (2017), "Enhanced Recovery
After Surgery: A Review". JAMA Surg, 152(3), pp. 292‐298.
8. Pędziwiatr M, Wierdak M, Nowakowski M, Pisarska M, Stanek
M et al (2016), "Cost minimization analysis of laparoscopic
surgery for colorectal cancer within the enhanced recovery after
surgery (ERAS) protocol: a single‐centre, case‐matched study".
Videosurgery and Other Miniinvasive Techniques, 11(1), pp. 14.
9. Roulin D, Donadini A, Gander S, Griesser AC, Blanc C et al
(2013), "Cost‐effectiveness of the implementation of an
enhanced recovery protocol for colorectal surgery". British
Journal of Surgery, 100(8), pp. 1108‐1114.
10. Roulin D, Muradbegovic M, Addor V, Blanc C, Demartines N et
al (2017), "Enhanced recovery after elective colorectal surgery‐
reasons for non‐compliance with the protocol". Digestive surgery,
34(3), pp. 220‐226.
11. Spanjersberg WR, Reurings J, Keus F, van Laarhoven CJ (2011),
"Fast track surgery versus conventional recovery strategies for
colorectal surgery". Cochrane Database Syst Rev, (2), pp.
CD007635.
Ngày nhận bài báo: 15/07/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/08/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/11/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_ban_dau_ap_dung_quy_trinh_phuc_hoi_nhanh_sau_phau_th.pdf