Tài liệu Kết cục thai kỳ của thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường nhiểm sắc thể trên siêu âm tại Bệnh viện Hùng Vương: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 102
KẾT CỤC THAI KỲ CỦA THAI PHỤ CÓ DẤU CHỈ ĐIỂM BẤT THƯỜNG
NHIỂM SẮC THỂ TRÊN SIÊU ÂM TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Võ Kim Cát Tuyền*, Tô Mai Xuân Hồng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể (NST) thai nhi ở thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường
NST trên siêu âm tại bệnh viện Hùng Vương trong năm 2015.
Phương pháp: Nghiên cứu báo cáo loạt ca được tiến hành trên toàn bộ thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường
NST trên siêm âm (soft-markers) khám tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2015. Các thai
kỳ có dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm được tính toán nguy cơ và chọc ối nếu kết quả nguy cơ cao với
bất thường NST. Tất cả thai nhi có dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm đều được theo dõi đến lúc sanh để
đánh giá kết cục thai kỳ.
Kết quả: Tỷ lệ bất thường NST: 8,7%, trong đó hội chứng Down là dạng bất thường NST thường ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết cục thai kỳ của thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường nhiểm sắc thể trên siêu âm tại Bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 102
KẾT CỤC THAI KỲ CỦA THAI PHỤ CÓ DẤU CHỈ ĐIỂM BẤT THƯỜNG
NHIỂM SẮC THỂ TRÊN SIÊU ÂM TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Võ Kim Cát Tuyền*, Tô Mai Xuân Hồng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể (NST) thai nhi ở thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường
NST trên siêu âm tại bệnh viện Hùng Vương trong năm 2015.
Phương pháp: Nghiên cứu báo cáo loạt ca được tiến hành trên toàn bộ thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường
NST trên siêm âm (soft-markers) khám tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2015. Các thai
kỳ có dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm được tính toán nguy cơ và chọc ối nếu kết quả nguy cơ cao với
bất thường NST. Tất cả thai nhi có dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm đều được theo dõi đến lúc sanh để
đánh giá kết cục thai kỳ.
Kết quả: Tỷ lệ bất thường NST: 8,7%, trong đó hội chứng Down là dạng bất thường NST thường gặp nhất
với tỷ lệ 7,3%. Dấu chỉ điểm siêu âm thường gặp nhất là nang đám rối mạch mạc và nốt phản âm sáng ở tim, với
tỷ lệ lần lượt là 46,4% và 34,5%. Tỷ lệ có kết cuc thai kỳ không tốt (bao gồm sinh con DTBS, CDTK vì DTBS,
bất thường hình thái học, sẩy thai, thai lưu) là 9,5%.
Kết luận: Nên áp dụng thường quy siêu âm tìm dấu chỉ điểm bất thường NST ở các thai phụ thuộc nhóm
nguy cơ bất thường NST trung bình nhằm phát hiện sớm bất thường NST và tiên đoán kết cục thai kỳ không
mong muốn.
Từ khóa: aneuploidy, Down Syndrome, soft – marker, ultrasound.
ABSTRACT
FETAL OUTCOMES IN PREGNANCIES PRESENTED POSITIVE SOFT – MARKERS
IN ULTRASOUND AT HUNG VUONG HOSPITAL.
Vo Kim Cat Tuyen, To Mai Xuan Hong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 1 - 2017: 102 - 107
Objective: The study is aimed to identify the incidence of fetal aneuploidy and adversely outcomes in
pregnant women who were detected positive soft – markers following detailed ultrasound at
Hung Vuong hospital.
Methods: A case - studies was carried out from July 1st to November 30, 2015 at Hung Vuong hospital. All
pregnant women being intermediate risks were performed a detailed ultrasound at 16-20 weeks of gestation for
evaluating soft-markers. Amniocentesis was indicated in case of the recalculated risk being high for fetal
aneuploidies. All pregnant women were followed until the delivery.
Results: The incidence of fetal aneuploidy was 8.7%, and Down Syndrome was the most common
chromosomal abnormalities (7.3%). Choroid plexus and echogenic foci in fetal heart are two frequent soft-markers
detected in detailed ultrasound (46.4% and 34.5%, respectively). Pregnancies with adversely outcomes that
included childbirth with congenital defects, termination of pregnancy, morphological abnormalities, miscarriage,
stillbirth were found in 9.5% of cases.
Conclusions: It is necessary to implement routinely the detailed ultrasound for evaluating fetal soft - marker
* Bộ môn Sán, Đại học Y dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Võ Kim Cát Tuyền ĐT: 0168.819.3223 Email: cattuyen88@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 103
in pregnant women being intermediate risks in order to earlier detect fetal aneuloidies and predict the possibility of
fetal adversely outcome.
Key words: aneuploidy, Down Syndrome, soft – marker, ultrasound.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng Down là một dạng bất thường
NST thường gặp nhất, xảy ra ở 0,1% đến 0,2% trẻ
sinh sống và thường gây ra những ảnh hưởng
nặng nề không chỉ về mặt thể chất, tinh thần,
tâm lý cho bản thân trẻ, mà còn ảnh hưởng về
chi phí cho gia đình và xã hội(4). Vì vậy, việc phát
hiện sớm các dị tật bẩm sinh (DTBS) thai nhi và
nhất là các DTBS do những bất thường NST là
mục tiêu quan trọng hàng đầu của các đơn vị
chăm sóc tiền sản.
Trong số các phương tiện chẩn đoán tiền sản
đã và đang được áp dụng tại Việt Nam, siêu âm
hình thái học thai nhi là một công cụ tiên quyết
và không thể thiếu được, vì đây là một phương
tiện chẩn đoán với các ưu điểm không xâm lấn,
có sẵn và có thể thực hiện nhiều lần. Khi thực
hiện khảo sát hình thái học thai nhi qua siêu âm,
siêu âm tìm dấu chỉ điểm bất thường NST (soft –
marker) như: nốt phản âm sáng ở tim, tăng phản
âm ở ruột, nếp da gáy dày, xương đùi hay xương
cánh tay ngắn, dãn não thất, hay dãn bể thận,
nang đám rối mạch mạc, một động mạch rốn,
bất sản xương mũi, thiểu sản đốt giữa ngón tay
thứ năm ở các thai kỳ nguy cơ cao được xem là
rất có giá trị trong phát hiện sớm các bất thường
NST, đặc biệt là dị tật Down(2,10,11).
Vai trò của việc đánh giá dấu chỉ điểm bất
thường NST trên siêu âm để chẩn đoán sớm các
bất thường NST đã được khẳng định tính lợi ích
qua nhiều nghiên cứu trên thế giới(2,1,11), và việc
áp dụng giá trị của từng dấu chỉ điểm bất
thường NST trên siêu âm lại thay đổi theo từng
chính sách chăm sóc tiền sản của mỗi quốc gia(3,6).
Tại Việt Nam, hiện nay có rất ít đơn vị tiền
sản ứng dụng giá trị của từng dấu chỉ điểm bất
thường NST trên siêu âm, và việc sử dụng tỉ số
khả dĩ (Likelihood: LR) của từng dấu chỉ điểm
bất thường NST trên siêu âm lại không đồng bộ
và không nhất quán. Điều này gây ảnh hưởng
không nhỏ lên kết quả tiên đoán nguy cơ bất
thường NST và đôi khi gây hoang mang cho thai
phụ và gia đình. Bên canh đó, hiện tại vẫn chưa
có nghiên cứu hay báo cáo nào về giá trị của việc
đánh giá các dấu chỉ điểm bất thường NST trên
siêu âm trong chẩn đoán sớm các DTBS, đặc biệt
là trong hội chứng Down. Chính vì thế, chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này với câu hỏi nghiên
cứu “tỷ lệ thai bị bất thường NST ở các thai kỳ có
dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm là bao
nhiêu?” nhằm khẳng định vai trò của siêu âm
đánh giá dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu
âm ở các thai phụ có nguy cơ bất thường NST
trung bình.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính
Xác định tỷ lệ thai bị bất thường NST ở các
thai kỳ có dấu chỉ điểm bất thường NST trên
siêu âm.
Mục tiêu phụ
Xác định tỷ lệ thai bị kết cuc không tốt:
sinh con DTBS, chấm dứt thai kỳ (CDTK) vì
DTBS, bất thường hình thái học, sẩy thai, thai
lưu ở các thai kỳ có dấu chỉ điểm bất thường
NST trên siêu âm.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Báo cáo loạt ca.
Dân số mục tiêu
Thai phụ ở tuổi thai 16 – 20 tuần có dấu chỉ
điểm bất thường NST trên siêu âm.
Dân số nghiên cứu
Tất cả những thai phụ ở tuổi thai 16 – 20 tuần
đến khám và theo dõi tại phòng di truyền có dấu
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm tại Bệnh
Viện Hùng Vương.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 104
Dân số chọn mẫu
Tất cả những thai phụ ở tuổi thai 16 – 20 tuần
đến khám và theo dõi tại phòng di truyền có dấu
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm tại Bệnh
Viện Hùng Vương từ tháng 07/2015 - 11/2015.
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Thai phụ ở tuổi thai 16 – 20 tuần đến khám
thai tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng 1 năm
2015 đến tháng 12 năm 2015 được siêu âm đánh
giá dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm từ
tuần 16 – 20 của thai kỳ và có bất kỳ dấu chỉ
điểm bất thường NST trên siêu âm nào.
Những dấu chỉ điểm bất thường trên siêu
âm gồm có(12):
1. Nốt phản âm sáng ở tim.
2. Tăng phản âm ở ruột (độ I- III).
3. Nếp da gáy dày (độ dày nếp da gáy
≥ 6mm).
4. Dấu dãn não thất (đường kính não thất
≥ 10mm).
5. Nang đám rối mạch mạc.
6. Dãn bể thận (đường kính bể thận ≥ 10mm,
một bên hoặc hai bên).
7. Một động mạch rốn.
8. Xương cánh tay ngắn (chiều dài xương
cánh tay <BPV 2,5).
9. Xương đùi ngắn (chiều dài xương đùi
<BPV 2,5).
10. Thiểu sản – bất sản xương mũi (chiều dài
xương mũi <BPV 2,5).
11. Thiểu sản đốt giữa ngón tay thứ 5.
Tiêu chuẩn loại trừ
Thai phụ mang song thai.
Thai phụ mắc bệnh tâm thần.
Thai phụ không nghe và hiểu tiếng Việt.
Thai phụ không đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Thai phụ không trả lời đầy đủ câu hỏi trong
bảng phỏng vấn.
Không ghi nhận được kết cục thai kỳ do mất
dấu trong quá trình theo dõi (thai phụ không
đến khám thai theo hẹn, không sinh tại bệnh
viện Hùng Vương và không liên lạc được).
Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu toàn bộ.
Cách tiến hành và thu thập số liệu
Bước 1: Sàng lọc đối tượng
Những thai phụ đến khám thai tại bệnh viện
Hùng Vương, các thai phụ có kết quả sàng lọc
sinh hóa sau đây sẽ có chỉ định siêu âm tìm dấu
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm:
Kết quả Combined test nguy cơ trung bình là
từ 1:250 đến 1:500.
Kết quả Tripple test nguy cơ trung bình là từ
1:250 đến 1:500.
Kết quả Double test nguy cơ trung bình là từ
1:250 đến 1:500.
Nhóm thai phụ này sẽ được chỉ định siêu âm
tại Phòng siêu âm hội chẩn (do bác sĩ có kinh
nghiệm siêu âm trên 5 năm thực hiện) tìm dấu
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm trong thời
gian từ tuổi thai 16 – 20 tuần.
Bước 2: Thu nhận đối tượng
Các thai phụ có kết quả siêu âm có dấu chỉ
điểm bất thường NST sẽ được giải thích rõ
mục tiêu nghiên cứu và tiến hành phỏng vấn.
Nếu thai phụ không tham gia nghiên cứu thì
vẫn được khám thai và theo dõi như những
thai phụ khác.
Bước 3: Thu thập số liệu
Thu thập số liệu được tiến hành thông qua
bảng thu thập số liệu qua 2 phần:
Phần 1: phỏng vấn trực tiếp theo bảng câu
hỏi và sau đó tiến hành tư vấn về tình trạng thai
nhi cho thai phụ.
Phần 2: ghi nhận các thông tin liên quan trên
kết quả siêu âm đánh giá dấu chỉ điểm bất
thường NST.
Bước 4: Theo dõi kết cục thai kỳ
Sau khi thai phụ có kết quả dấu chỉ điểm
bất thường NST trên siêu âm sẽ được tính lại
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 105
nguy cơ hiệu chỉnh. Việc tính lại nguy cơ hiệu
chỉnh dựa vào công thức sau:
Nguy cơ hiệu chỉnh = nguy cơ căn bản * Tỉ số
khả dĩ của dấu chỉ điểm bất thường NST trên
siêu âm TCN 1 * Tỉ số khả dĩ của dấu chỉ điểm
NST trên siêu âm TCN 2.
Tỉ số khả dĩ cùa các dấu hiệu bất thường NST
dựa trên bảng sau:
Bảng 1. Bảng tỉ số khả dĩ của các dấu chỉ điểm bất
thường NST trên siêu âm(12)
Dấu chỉ điểm bất thường NST Tỉ số khả dĩ (LR)
Nốt phản âm sáng ở tim 2
Dãn não thất 3,8
Nếp da gáy dày 17
Ruột tăng sáng 6
Nang đám rối mạch mạc 7
Dãn nhẹ bể thận 1,9
Xương đùi ngắn 2,7
Xương cánh tay ngắn 7,5
Một động mạch rốn 1
Bất sản – thiểu sản xương mũi 51
Thiểu sản đốt giữa ngón tay thứ 5 5,6
Nếu sau khi tính nguy cơ hiệu chỉnh làm
thay đổi nguy cơ lệch bội từ trung bình hoặc
nguy cơ sang nguy cơ cao (>1:250), thai phụ sẽ
được tư vấn chọc ối. Nếu thai phụ đồng ý chọc
ối, thông tin về kết quả chọc ối và kết cục thai kỳ
sau đó sẽ được ghi nhận.
Các thai phụ có nguy cơ với bất thường NST
không thay đổi hoặc không đồng ý chọc ối, vẫn
được theo dõi cho đến lúc sanh và ghi nhận kết
cục thai kỳ.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Trong thời gian tiến hành nghiên cứu từ
ngày 01 tháng 07 năm 2015 đến ngày 30 tháng 11
năm 2015 tai bệnh viện Hùng Vương, có 84 thai
phụ đạt đủ tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu và
ghi nhận được các kết quả như sau.
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Phần lớn thai phụ tham gia nghiên cứu
thuộc nhóm dưới 35 tuổi. Tuy thai phụ thuộc
nhóm tuổi này ít có nguy cơ sinh bé dị tật Down,
nhưng nguy cơ DTBS còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác như xét nghiệm hóa sinh sàng lọc,
siêu âm, tiền căn thai phụ Độ tuổi 30 cũng là
độ tuổi sinh sản và dễ có thai nhất của người
phụ nữ, nên cũng rất hợp lý để đề ra vấn đề tầm
soát DTBS cho tất cả các thai phụ nhằm cho ra
đời một bé khỏe mạnh (Bảng 1).
Bảng 2. Các đặc điểm của dân số nghiên cứu
Đặc điểm Tổng (N=84) Tỷ lệ (%)
Nhóm tuổi
<35 tuổi 59 70,2
≥ 35 tuổi 25 29,8
Nghề nghiệp
Công nhân 17 20,2
Nhân viên viên chức 22 26,2
Nội trợ 27 32,1
Khác 18 21,5
Địa chỉ
Tỉnh khác 50 59,5
TP HCM 34 40,5
Bảng 3. Đặc điểm tiền căn của dân số nghiên cứu
Đặc điểm Tổng (N=84) Tỷ lệ (%)
Số con hiện tại
Chưa con 32 38,1
1 con 43 51,2
≥ 2 con 9 10,7
Tiền căn
sẩy thai, thai lưu
Không 72 85,7
1 lần 10 11,9
≥ 2 lần 2 2,4
Tiền căn sinh con
DTBS
Không 82 97,6
1 lần 2 2,4
≥ 2 lần 0 0
Tiền căn
đái tháo đường
Không 81 96,4
Có 3 3,6
Tiền căn gia đình
trực hệ bị DTBS
Không 80 95,2
Có 4 4,8
Đa số đối tượng trong nghiên cứu không có
tiền căn sẩy thai, thai lưu (chiếm 85,7%). Theo
kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ thai phụ
có tiền căn sinh con DTBS và tiền căn gia đình
trực hệ chiếm tỷ lệ thấp, với tỷ lệ lần lượt là 2,4%
và 4,8%. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu
của tác giả Lê Thị Mỹ Trinh, của tác giả Nguyễn
Vân Yến Nhi không có trường hợp nào có tiến
căn sinh con DTBS(7,8), có lẽ do tiêu chí chọn mẫu
khác nhau (Bảng 2).
Đặc điểm siêu âm tìm dấu chỉ điểm bất
thường NST
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự
của Nyberg và cs ở sự xuất hiện nốt phản âm
sáng ở tim, xem đây là dấu chỉ điểm bất thường
NST thường gặp thứ hai. Nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy nốt phản âm sáng ở tim có tỉ lệ là
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 106
34,5%, cũng tương đồng với nhận xét của tác giả
Nyberg và cs(9).
Bảng 4. Tỷ lệ các dấu chỉ điểm bất thường NST trên
siêu âm
Dấu chỉ điểm bất thường NST Tổng
(N=84)
Tỷ lệ
%)
Nốt phản âm sáng ở tim 29 34,5
Tăng phản âm ở ruột 10 11,9
Nếp da gáy dày 2 2,4
Dãn não thất 6 7,1
Nang đám rối mạch mạc 39 46,4
Dãn bể thận 2 2,4
Một động mạch rốn 3 3,6
Xương đùi ngắn 1 1,2
Xương cánh tay ngắn 1 1,2
Thiểu sản – bất sản xương mũi 10 11,9
Thiểu sản đốt giữa ngón tay thứ 5 7 8,3
Đánh giá trên ý nghĩa của sự xuất hiện dấu
chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm và nguy
cơ bị hội chứng Down như là một kết cục không
mong muốn của thai kỳ, chúng tôi nhận thấy 2
dấu hiệu sau đây là “dấu bất sản xương mũi” và
“dấu dãn não thất” làm tăng nguy cơ của DTBS
này lên lần lượt là 9,8 và 9,74 lần (OR= 9,8 (1,38-
69,71) và OR= 9,74 (1,04-91,50), p <0,05).
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, đa số
trường hợp chỉ có 1 dấu chỉ điểm bất thường
NST trên siêu âm (chiếm 71,4%). Kết quả của
chúng tôi tương đương với nghiên cứu của tác
giả Bromley và cs thực hiện trên 1272 trường
hợp siêu âm có dấu chỉ điểm bất thường NST
trên siêu âm cho thấy 95% trường hợp có 1 dấu
chỉ điểm bất thường NST, 4% trường hợp có 2
dấu chỉ điểm bất thường NST, và chỉ có 1% có
nhiều hơn 3 dấu chỉ điểm bất thường NST trên
siêu âm(5).
Kết cục thai kỳ
Sau khi hiệu chỉnh nguy cơ bất thường NST,
có 69 thai phụ trở thành nhóm nguy cơ cao và
được chỉ định chọc ối tìm bất thường NST. Kết
quả chọc ối ghi nhận 6 bất thường NST (gồm 5
trisomy 21 và 1 trisomy 18). Có 1 thai phụ không
đồng ý chấm dứt thai kỳ (CDTK), và phát hiện
vào chuyển dạ sinh non tại tuần thứ 34 của tuổi
thai. Còn lại 63 thai phụ không có bất thường
NST thì có 2 thai phụ có bất thường hình thái học
kèm theo gồm 1 trường hợp bất thường về tim
(tim một thất) và 1 trường hợp thai bị não úng
thủy, cả 2 trường hợp này cũng CDTK. 61 thai
phụ còn lại đều sinh con bình thường. Không có
thai phụ nào bị thai lưu hay sẩy thai.
Bảng 5. Kết cục thai kỳ chung cho các trường hợp có
dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm
Đặc điểm Tổng (N=84) Tỷ lệ (%)
Tuổi thai
<28 tuần 7 8,3
28 – 36 tuần 6 ngày 4 4,8
37 tuần – 40 tuần 64 76,2
>40 tuần 9 10,7
Kết cục
thai kỳ
Sinh con bình thường 76 90,5
Sinh con DTBS 1 1,2
CDTK vì DTBS 7 8,3
Sẩy thai hay thai lưu 0 0
Cân nặng lúc sinh (gram) 2847,1 ± 857,0
Đối với 15 trường hợp không có chọc ối thì
tất cả các thai phụ đều được theo dõi và sinh con
bình thường, không có DTBS.
Với 76 trường hợp sinh con bình thường,
chiếm tỷ lệ 90,5% (Bảng 4), chúng tôi cho rằng (1)
việc thực hiện xét nghiệm xâm lấn như chọc ối
không quá nguy hiểm và không là yếu tố nguy
cơ sinh non (tỷ lệ sinh non trong nhóm đối
tượng này thấp chỉ chiếm khoảng 4,8%), và (2)
trong công tác tư vấn tiền sản, cần nhấn mạnh
việc siêu âm tìm dấu chỉ điểm bất thường NST
giúp gợi ý nguy cơ thai kỳ để đưa ra chiến lược
theo dõi phù hợp.
Theo nghiên cứu của tác giả Sylvie trên 19
thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường NST và
19 thai phụ không có dấu chỉ điểm bất thường
NST đã chỉ ra có sự khác nhau có ý nghĩa
thống kê giữa chỉ số trầm cảm giữa hai nhóm
trong khi mang thai và ảnh hưởng không tốt
đến sự gắn bó giữa thai phụ và trẻ sau sinh ở
nhóm thai phụ có dấu chỉ điểm bất thường
NST(13). Do đó, khi tiếp cận một thai phụ có
dấu chỉ điểm bất thường NST trên siêu âm,
nhiệm vụ hàng đầu của bác sĩ sản khoa là cần
tư vấn cho các thai phụ rõ đây chỉ là dấu hiệu
gợi ý có bất thường NST, không có nghĩa là họ
sẽ sinh ra một bé sơ sinh có DTBS.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 107
Cân nặng trung bình của tất cả thai kỳ là
2847,1 ± 857,0 gram. Mức cân nặng trung bình
lúc sinh trong nghiên cứu của chúng tôi thấp
hơn trong nghiên cứu của tác giả Sylvie là
3483,95 ±376,3 gram(13). Sự khác biệt này có thể lý
giải là do nghiên cứu của tác giả Sylvie thực hiện
tại Brazil, các trẻ sơ sinh có tầm vóc cao lớn hơn
so với trẻ sơ sinh tại Việt Nam.
KẾT LUẬN
Trong thời gian 6 tháng thực hiện nghiên
cứu ở nhóm thai phụ có nguy cơ bất thường NST
trung bình và có dấu chỉ điểm bất thường NST
trên siêu âm, chúng tôi ghi nhận được:
Tỷ lệ bất thường NST: 8,7%, trong đó hội
chứng Down là dạng bất thường NST thường
gặp nhất với tỷ lệ 7,3%.
Tỷ lệ có kết cuộc thai kỳ không tốt (bao gồm
sinh con DTBS, CDTK vì DTBS, bất thường hình
thái học, sẩy thai, thai lưu) là 9,5%.
Từ kết quả đạt được, chúng tôi cho rằng
nên áp dụng thường quy việc siêu âm tìm dấu
chỉ điểm bất thường NST, đặc biệt đối với các
thai phụ có nguy cơ bất thường NST ở mức
trung bình, vì việc siêu âm này không chỉ giúp
phát hiện sớm các bất thường NST mà còn
giúp tiên đoán về khả năng của một thai kỳ
không khỏe mạnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aagaard-Tillery KM, Malone F, Nyberg DA, et al (2009), “Role
of second-trimester genetic sonography after Down syndrome
screening”, Obstet Gynecol., 114 (6), pp.1189–1196
2. Agathokleous M, Chaveeva P, Poon LCY, Kosinski P, Nicolaid
es KH (2013), “Meta-analysis of second-trimester markers for
trisomy 21”, Ultrasound Obstet Gynecol., 41, pp. 247–261
3. Bethune M (2007), “Management options for echogenic
intracardiac focus and choroid plexus cysts: a review including
Australian Association of Obstetrical and Gynaecological
Ultrasonologists consensus statement”. Australas Radiol., 51(4),
pp. 324-329
4. Bộ môn phụ sản Đại học Y Dược TPHCM. “Trẻ dị tật bẩm
sinh”. Sản phụ khoa tập 2, NXB Y học, TPHCM, tr. 642-650.
5. Bromley B, Lieberman E, Shipp TD, Benacerraf BR. (2002), “The
genetic sonogram: a method of risk assessment for Down
syndrome in the second trimester”, J Ultrasound Med.;21, pp.
1087–1096
6. Chitayat, D., S. Langlois, and R.D. Wilson (2011), “Prenatal
screening for fetal aneuploidy in singleton pregnancies”, J
Obstet Gynaecol Can., 33(7), pp. 736-50
7. Lê Thị Mỹ Trinh (2014), “Kết cục thai kỳ có NT trên bách phân vị
95 tại bệnh viện Hùng Vương”, Luận văn tốt nghiệp nội trú, ĐH
Y dược TP. HCM, tr.16-18.
8. Nguyễn Vân Yến Nhi (2015), “Tỷ lệ từ chối sinh thiết gai
nhau/chọc ối ở các sản phụ có kết quả tầm soát trước sanh nguy cơ
cao”, Luận văn tốt nghiệp nội trú, ĐH Y dược TP. HCM, tr. 69
9. Nyberg DA, Souter VL, El-Bastawissi A, Young S, Luthhardt F,
Luthy DA (2001), “Isolated sonographic markers for detection
of fetal Down syndrome in the second trimester of pregnancy”,
J Ultrasound Med., 20, pp. 1053–1063
10. Raniga S, Desai PD, Parikh H. (2006), “Ultrasonographic soft
markers of aneuploidy in second trimester: are we lost?”,
Medscape Gen Med., 8, pp. 9
11. SOGC clinical practice guideline (2007), “Prenatal screening for
fetal aneuploidy”, J Obstet Gynecol Can., 29(2), pp. 146-161
12. SOGC clinical practice guideline (2013), “Fetal Soft Markers in
Obstetric Ultrasound”, 162, pp. 592 – 608
13. Viaux-Savelon S, Dommergues M, Rosenblum O, Bodeau N,
Aidane E, Philippon O, Mazet P, Vibert-Guigue C, Vauthier-
Brouzes D, Feldman R, Cohen D (2012), “Prenatal Ultrasound
Screening: False positive soft markers may alter maternal
representations and mother-infant interaction”, 7(1), e30935
Ngày nhận bài báo: 18/11/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/12/2016
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_cuc_thai_ky_cua_thai_phu_co_dau_chi_diem_bat_thuong_nhie.pdf