Huyền thoại và giải huyền thoại nhân vật hoàng đế Quang Trung trong văn học Việt Nam

Tài liệu Huyền thoại và giải huyền thoại nhân vật hoàng đế Quang Trung trong văn học Việt Nam: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 103 HUYỀN THOẠI VÀ GIẢI HUYỀN THOẠI NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM Mystification and demystification of Emperor Quang Trung in Vietnamese literature ThS. Trịnh Huỳnh An Trường Đại học Bình Dương (Phân hiệu Cà Mau) Tóm tắt Các nhân vật hoàng đế được “làm mới” trong văn học phải kể đến trường hợp tiêu biểu là Quang Trung – Nguyễn Huệ. Nhân vật này đã đi dọc theo chiều dài lịch sử văn học từ trung đại đến đương đại. Viết về ông, mỗi tác giả đem đến cho văn chương những góc nhìn khác nhau rất phong phú và đa dạng. Chính vì thế việc tìm hiểu yếu tố huyền thoại, giải huyền thoại và tái huyền thoại về nhân vật Hoàng đế Quang Trung sẽ giúp có cái nhìn tổng thể hơn về nhân vật này qua từng giai đoạn văn học dưới góc nhìn h...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 443 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Huyền thoại và giải huyền thoại nhân vật hoàng đế Quang Trung trong văn học Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 103 HUYỀN THOẠI VÀ GIẢI HUYỀN THOẠI NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM Mystification and demystification of Emperor Quang Trung in Vietnamese literature ThS. Trịnh Huỳnh An Trường Đại học Bình Dương (Phân hiệu Cà Mau) Tóm tắt Các nhân vật hoàng đế được “làm mới” trong văn học phải kể đến trường hợp tiêu biểu là Quang Trung – Nguyễn Huệ. Nhân vật này đã đi dọc theo chiều dài lịch sử văn học từ trung đại đến đương đại. Viết về ông, mỗi tác giả đem đến cho văn chương những góc nhìn khác nhau rất phong phú và đa dạng. Chính vì thế việc tìm hiểu yếu tố huyền thoại, giải huyền thoại và tái huyền thoại về nhân vật Hoàng đế Quang Trung sẽ giúp có cái nhìn tổng thể hơn về nhân vật này qua từng giai đoạn văn học dưới góc nhìn hệ thống. Từ khóa: giải huyền thoại, huyền thoại, nhân vật Hoàng đế Quang Trung, văn học Việt Nam. Abstract Among Emperor characters which are "renewed" in the literature is the typical case of Quang Trung - Nguyen Hue. This character has traveled along the literary history from the Middle Ages to the Modern Ages. On writing about him, each author offers the literature different perspectives which are abundant and diversified. Therefore, the study of the mystification, demystification, and re-mystification of Emperor Quang Trung will provide a more comprehensive view of the character through each period of literature from the system perspective. Keywords: demystification, mystification, Emperor Quang Trung, Vietnamese literature. 1. Mở đầu Huyền thoại là một hiện tượng trung tâm trong lịch sử văn hóa, đồng thời là một phương tiện cổ xưa để nhận thức thực tại xung quanh về bản chất của con người. Huyền thoại và văn học nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ trong đó phải kể đến sự tương đồng về thuộc tính: tính hình tượng và cách thức phản ánh hiện thực cuộc sống thiên về cảm tính. Huyền thoại có ảnh hưởng đến các loại hình nghệ thuật, trong đó có văn học. Phương thức sáng tác huyền thoại được các nhà văn thế giới sử dụng tạo nên những thành tựu rực rỡ: sáng tác của những đại diện của dòng văn học phi lí như Frank Kafka, S. Beckett, Zola và những tác phẩm của các nhà văn thuộc trào lưu hiện thực Mỹ Latinh như M. Marquez, Carpential, Asturias. Các nhà lí luận và phê bình văn học khi bàn về chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam đã chỉ ra văn xuôi, nhất Email: huynhan.cm@bdu.edu.vn SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 104 là ở thể loại truyện ngắn của các nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Hòa Vang, Hồ Anh Thái, có yếu tố huyền thoại như tín ngưỡng dân gian, motif huyền thoại, cổ tích Sự xuất hiện của yếu tố huyền thoại đã góp phần “làm mới” văn chương. Khuynh hướng sáng tác huyền thoại hoá trong văn học Việt Nam hiện đại là một thực tế đang diễn ra, kéo theo nhu cầu ứng dụng cách tiếp cận phê bình huyền thoại trong nghiên cứu phê bình văn học. Trong mười thế kỷ (X – XIX), hoàng đế được xem là một “nhân vật” đặc biệt trong xã hội Việt Nam. Đặc biệt là bởi hoàng đế có vai trò quan trọng và được xem là trung tâm của toàn xã hội. Nho giáo và thuyết Chính danh đã đem đến cho hoàng đế một “siêu quyền lực”: thế thiên hành đạo. Hoàng đế được trời giao “thiên mệnh” trị vì trăm họ. Chính vì có một vị thế đặc biệt trong xã hội quân chủ nên hoàng đế cũng đã trở thành một nhân vật đặc biệt trong sáng tác văn học. Trong suốt hành trình lịch sử văn học, nhân vật hoàng đế không chỉ xuất hiện trong các tác phẩm thời trung đại mà đến văn học hậu hiện đại nhân vật này vẫn còn là đề tài thú vị cho sự tìm tòi, sáng tạo. Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ đã thống lĩnh quân Tây Sơn lập nên nhiều chiến công hiển hách đánh nội thù, phá ngoại xâm trong bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nhiều biến động. Đất nước phải gánh chịu những cuộc nội chiến liên miên, đời sống nhân dân lầm than, cơ cực. Các cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra liên tục nhưng đều kết thúc trong thất bại. Trong bóng tối lịch sử ấy, hoàng đế Quang Trung trở thành một hiện tượng đặc biệt – một ngôi sao sáng trong lịch sử các hoàng đế Việt Nam. Nguyễn Huệ niên hiệu là Quang Trung trị vì đất nước từ 1789 – 1792. Tuy thời gian trị vì rất ngắn ngủi nhưng hoàng đế Quang Trung đã có những quyết định lớn, mở ra cho đất nước nhiều triển vọng phát triển. Dưới góc nhìn sử học, hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ đã được xem là một nhân vật tầm cỡ và anh minh xuất chúng. Tuy nhiên từ góc nhìn văn học và qua ngòi bút tư duy nghệ thuật của các nhà văn, hình ảnh hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ được tái hiện ở nhiều khía cạnh đa dạng hơn. Hình ảnh về ông đôi khi được tái hiện trong văn chương bằng cả sự ngợi ca, ngưỡng vọng, huyền thoại hóa mang đậm tính sử thi, đôi khi lại được giải huyền thoại bằng những cử chỉ, lời nói, hành động rất đời thường. Chính sự phong phú góc nhìn ấy đã tạo nên sự lôi cuốn, thu hút độc giả đi tìm câu trả lời đâu là hình ảnh thực sự về vị thủ lĩnh phong trào Tây Sơn oai hùng trong lịch sử. 2. Quang Trung – mẫu hình hoàng đế lí tưởng trong văn học Khi nói đến huyền thoại người ta nghĩ ngay đến những yếu tố siêu nhiên. Huyền thoại xưa tôn vinh các nhân vật, các sự kiện siêu phàm, nên ngày nay trong xã hội hiện đại ta cũng dùng thuật ngữ ấy để nói về những sự kiện, những nhân vật kiệt xuất hoặc tài ba trong cuộc sống đời thường. Tác phẩm văn chương được coi là “tân huyền thoại” khi nó phát ra tín hiệu của thể loại huyền thoại “cội nguồn”. Huyền thoại văn chương hay “huyền thoại tái tạo” gồm những huyền thoại nguyên thuỷ đi vào văn chương, được văn chương hoá. P.Brunel cho rằng văn chương, nghệ thuật có vai trò như “một phòng lưu trữ huyền thoại”. Nhờ được “bao bọc” bởi văn chương, nghệ thuật mà huyền thoại nguyên thuỷ tồn tại. TRỊNH HUỲNH AN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 105 Đồng thời, huyền thoại văn chương cũng thêm vào huyền thoại nguyên thuỷ những ý nghĩa mới. 2.1. Hình tượng người anh hùng áo vải và tài năng quân sự Những nhân vật lí tưởng thời trung đại hầu hết đều được tô đậm màu sắc thần kì và mang motif dị thường, phi thường. Hình tượng Quang Trung – Nguyễn Huệ qua văn học trung đại được phác họa với những hình ảnh cao diệu. Đó là một vị tướng tài ba, một chiến lược gia xuất chúng và cuối cùng trở thành một hoàng đế có tài thu phục lòng người. Trong văn học trung đại, hình ảnh Nguyễn Huệ tái hiện rõ nét nhất qua sáng tác của Ngô Thì Nhậm và Hoàng lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái: “Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường biết không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét” [8, 401]. Tài năng quân sự của Nguyễn Huệ được sử sách ghi chép là chỉ một ngày đã thống lĩnh quân Tây Sơn đánh tan hơn năm vạn quân Xiêm. Ông còn tỏa sáng trong chiến công đại phá gần ba mươi vạn quân Thanh, đánh dấu một mốc son oanh liệt trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Để giành được thắng lợi đó, phải kể đến tài chiêu binh mãi mã của Nguyễn Huệ: “Từ đời Hán đến nay, chúng mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng... Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng lên công lớn” [8, 405 - 406]. Ông đã dùng lịch sử của dân tộc để làm minh chứng cụ thể khẳng định chủ quyền dân tộc, khơi gợi lòng yêu nước, tự hào dân tộc của mỗi công dân để họ đứng lên chung sức, chung lòng giết giặc. Đặc điểm nổi bật trong tài năng quân sự của Nguyễn Huệ là hành quân thần tốc, tiến quân mãnh liệt, tổ chức và chỉ đạo chiến đấu cơ động, tiên đoán trước được tình hình: “Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía Đông. Đến lúc ấy, quân Thanh chạy về trông thấy, càng thêm hoảng sợ” [8, 410]. Chiến công thần tốc của Quang Trung đã làm quân thù khiếp sợ: “ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết” [8, 409]. Phẩm chất anh hùng của Nguyễn Huệ còn được thể hiện qua hành động “phò Lê, diệt Trịnh”. Mặc dù lật nhào chế độ họ Trịnh nhưng Nguyễn Huệ đã đem giang sơn trao trả lại cho nhà Lê rồi dẫn quân trở về Phú Xuân. Hành động đầy khí chất anh hùng đó đã để lại sự cảm kích của vua Lê và sự nể phục trong lòng muôn dân, trong đó có Ngô Thì Nhậm: “Kim thanh ngọc chấn tập thành chương Tái kiến linh đài tụng Hiến Vương. Đoạn miện thánh sư dương trắc giáng, Tuy du nguyên hậu địch khang cường” (Đáp lại thị Nghĩa Trạch Nhữ hầu) (Tiếng vàng lời ngọc hợp thành chương Lại chốn đài mây chúc Hiển Vương Ngài Khổng nghiêm trang vừa giáng thế, Nhà vua mưu lược thật khang cường.) Tài năng quân sự của Nguyễn Huệ còn được thể hiện qua việc biết lượng sức mình trong từng thời điểm và đặt lợi ích muôn SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 106 dân lên trên hết: “Việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm vậy. Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nỗi việc binh đao Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng” [8, 408]. Nho giáo lấy đức trị làm nền tảng trị quốc. Trong đó, tư tưởng thân dân có vị trí rất quan trọng trong công cuộc trị nước của hoàng đế. Từ dẫn chứng trên cho thấy, văn chương trung đại đã huyền thoại hóa hình ảnh hoàng đế Quang Trung đạt đến chuẩn mực của một đấng minh quân. Đó là hình ảnh một hoàng đế biết lo cho dân và có tầm nhìn xa trông rộng cho vận mệnh dân tộc. 2.2. Tài trị quốc và thu phục lòng người Không chỉ có ngoại hình đạo mạo và tài năng quân sự lỗi lạc, Nguyễn Huệ còn được văn chương huyền thoại hóa với những hình ảnh cao diệu. Đó là hình ảnh một vị hoàng đế giỏi về chính trị, khéo léo trong ngoại giao. Với tài năng quân sự, hoàng đế Quang Trung đã đánh tan quân Thanh xâm lược. Tuy nhiên, ông rất khéo léo trong ngoại giao để không phật lòng từ triều đình nhà Thanh: “Ta là nước nhỏ, một lòng kính thuận, sợ mệnh trời, sao dám có ý kiến khác không ngờ đường sá đồn nhảm, làm to thanh thế của ta, khiến cho mọi người nghi ngờ sợ hãi bỏ đội ngũ mà chạy trước, đến nỗi cầu phao bị đứt, quân lính thiên triều phải chết đuối” [8, 419]. Rõ ràng bằng tài năng quân sự, Quang Trung đã đánh tan quân Thanh xâm lược nhưng để giữ gìn mối quan hệ bang giao ông đã khéo léo cho rằng đó chỉ là một sự cố rủi ro dẫn đến kết quả ngoài tầm kiểm soát. Tuy thời gian trị vì ngắn ngủi nhưng hoàng đế Quang Trung đã thực hiện xuất sắc vai trò người đứng đầu đất nước. Ông đã có nhiều cải cách quan trọng trong kinh tế, văn hóa, giáo dục.v.v. Những việc làm của hoàng đế Quang Trung đã được Ngô Thì Nhậm ghi lại trong sự kính trọng, nể phục: “Vạn thặng bộ cương khai bát trận Lục quân độ lĩnh cổ tam khu Dực nghiêm sư luật cao Thường Vũ, Sưu thú nhung dung tiểu Tỷ Bồ. Húc nhật quang hoa trưng cát tượng, Long nhan hỉ động hiệp sơn hô” (Tòng giả vong trận cung xuân nhật xuất binh cung ký) (Thiên tử đạp sao Thiên Cương, mở ra bát trận, Sáu quân vượt núi, thúc trống đuổi săn ba bên. Luật quân nghiêm túc, hơn hẳn trận nói trong thơ Thường Vũ, Đóng quân trong lúc săn bắn, coi khinh săn lớn ở Tỷ Bồ. Mặt trời buổi sớm, rạng rỡ báo điềm tốt, Vẻ mặt Hoàng thượng mừng vui hòa với tiếng tung hô) Cũng vậy, trong Tụng Tây Hồ phú, Nguyễn Huy Lượng đã ca ngợi đất nước thanh bình, thịnh trị, muôn dân tin tưởng vào sự thống lĩnh của hoàng đế Quang Trung: “Tới Mậu Thân từ rỡ vẻ tường vân, sông núi sắp nhờ công đãng địch Qua Canh Tuất lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gọi đức triêm nhu. Vũng trì chiểu nước dần dần lặng. Nơi đình đài hoa phới phới đua. Vẻ hoa thạch châu thêu, gấm dệt; Tiếng trùng cầm, ngọc gõ, vàng khua. Bãi cỏ non: trâu thả, ngựa buông; nội Chu đã lắm người ca ngợi, Làn nước phẳng: kình ngầm, ngạc lặn; TRỊNH HUỲNH AN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 107 ao Hán nào mấy trẻ reo hò”. Những cải cách tiến bộ đó đã giúp hoàng đế Quang Trung chiếm trọn được lòng dân. Đất nước thành bình, mở mang bờ cõi. Vì thế khi ông mất đã để lại sự xót thương cho nhiều lớp người. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong sáng tác của Ngô Thì Nhậm và Lê Ngọc Hân. Ngô Thì Nhậm bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của Quang Trung: “Long ngự nan phan Tử Cực đường Kim nguyên trướng vọng cửu hồi đường Nhung y thần vũ lưu bằng tạ, Phương sách anh mô dịch hiến chương” (Khâm vãn Đan Dương lăng) (Khó vượt thiên cung níu áo rồng Suối càng chín khúc dạ hoài mong Võ công oanh liệt gây nền vững, Chính sách tài tình để phép chung) Lê Ngọc Hân trong Ai tư vãn cũng đã ca ngợi tài năng, đức độ và bày tỏ niềm xót thương trước sự ra đi đột ngột của hoàng đế Quang Trung: “Mà nay áo vải, cờ đào Giúp dân dựng nước biết bao công trình! Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn Công đức dày, ngự vận càng lâu Mà nay lượng cả, ơn sâu Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần Công dường ấy mà nhân dường ấy, Cõi thọ sao hẹp bấy Hóa công?” Có thể nói dưới góc nhìn của các nhà văn trung đại, hoàng đế Quang Trung hiện lên với dáng dấp lừng lẫy, oai phong. Tuy nhiên, có thể nhận thấy hình ảnh Quang Trung – Nguyễn Huệ trong những tác phẩm này mang đậm yếu tố sử thi, gắn liền với nhân vật lịch sử hơn là nhân vật văn học. Quang Trung được huyền thoại hóa bởi cảm hứng ngợi ca, ngưỡng vọng nhưng chưa được khai thác dưới góc độ cuộc sống đời thường. Đây là một thực tế dễ hiểu bởi nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại là “ủy nhiệm” của mệnh trời, là con người sống và hành động nhân danh cộng đồng. 3. Giải huyền thoại và tái huyền thoại mẫu hình hoàng đế Quang Trung Ngược lại với quá trình huyền thoại hoá là giải huyền thoại (Demystification). Trong huyền thoại có phần không thực, vì vậy, Platon cho rằng huyền thoại làm cho con người lạc lối, lầm đường. Và giải huyền thoại là xoá bỏ, hoá giải điều sai lầm để tìm ra sự thật đích thực. Theo R.Barthes, giải huyền thoại là một kỹ thuật, một phương pháp tạo ra sự thức tỉnh, một thủ pháp vệ sinh tinh thần để tẩy rửa những huyền thoại chính trị, văn hoá, xã hội đã được chế tạo ra. Như vậy giải huyền thoại chính là khai quật lại quá khứ để truy nguyên lý lịch ban đầu của sự vật, tìm ra tính ngẫu nhiên lịch sử của chúng và từ đó xoá đi tính thiêng liêng, thần thánh bao quanh những sự vật đó. Việc giải huyền thoại luôn luôn không trọn vẹn, cùng với việc giải huyền thoại thường diễn ra tình trạng tái huyền thoại theo chu kì nhất định. Sự tái huyền thoại trong văn học cũng được xem là quá trình giải huyền thoại theo quan điểm của các tác giả văn học. Văn học đương đại Việt Nam đã có nhiều đổi mới mạnh mẽ từ nội dung đến hình thức. Trong đó, đề tài về lịch sử được quan tâm khai thác. Sử liệu trở thành một “miền đất” mới để các nhà văn thể hiện tư duy sáng tạo. Dưới góc nhìn của các nhà văn Việt Nam đương đại, Nguyễn Huệ giữa lịch sử và văn chương đã có nhiều sự khác biệt. Các nhà văn đương đại không còn “trói buộc” nhân vật Nguyễn Huệ trong những tiêu chuẩn tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ mà được giải thiêng SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 108 ở những khía cạnh rất đời thường. Tiêu biểu phải kể đến các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Trần Vũ, Nam Dao, Nguyễn Mộng Giác. 3.1. Giải huyền thoại mẫu hình hoàng đế Quang Trung Nếu văn chương trung đại “đóng khung” cách miêu tả Nguyễn Huệ với một tầm vóc phi thường đậm chất sử thi thì trong văn chương đương đại có cái nhìn đa diện hơn. Nguyễn Huệ vẫn rất tài năng trong Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp: “Quang Trung là bậc anh tài, hào hùng lắm” [10, 333]. Bên cạnh đó, Nguyễn Huệ còn hiện lên với ngoại hình rất hợm trong Mùa mưa gai sắc của Trần Vũ: “Huệ quả như lời đồn đãi, vai to bè hơn vai tê giác, mặt vuông ván gỗ. Huệ cất tiếng nói, giọng ồ ề vỡ ra như tiếng thác đổ vào giữa khuya”. Trong Gió lửa, Nam Dao cũng miêu tả Nguyễn Huệ rất kì dị: “Huệ to ngang, hơi thấp, tay dài đến đầu gối, di chuyển vừa nhanh vừa chắc như một loài nửa gấu nửa vượn. Mặt nổi mụn, mũi sư tử, một mắt to một mắt nhỏ”. Vẫn khí chất, vẫn oai phong, nhưng Nguyễn Huệ trong văn chương đương đại không còn gắn mới nhiều mĩ từ ngợi ca, trừu tượng hóa mà rất chân thực, sinh động và gần gũi với đời thường. Không chỉ mới mẻ qua ngoại hình, Nguyễn Huệ còn được giải thiêng qua những lời nói và hành động. Nếu như hoàng đế được bất biến cho những cung cách ứng xử lễ nghi, thì qua văn chương đương đại đã được khả biến những hành động “hạ bệ” thần tượng. Trong Mùa mưa gai sắc, Trần Vũ miêu tả sự thô lỗ của Nguyễn Huệ: “Trong phủ chúa, chốn sang trọng lộng lẫy nhất Thăng Long, từng mảng da beo lớn trải thảm làm lót chân, Huệ đi lại trên đó và khạc nhổ trên đó”. Chưa dừng lại đó, Nguyễn Huệ còn đam mê nữ sắc qua ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp: “Nhà vua thấy Vinh Hoa, thốt nhiên rùng mình, hoa mắt, đánh rơi cốc rượu quý cầm tay” [10, 335]. Khi hay tin Khải treo cổ tự tử: “Nhà vua đang đêm xỏa tóc, đi chân đất, vừa đi vừa vấp, chạy vào báo cho Vinh Hoa việc Khải mất” [10, 339]. Đây là một chi tiết rất độc đáo. Chỉ một câu văn nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã giải huyền thoại về một nhân vật có tầm vóc lớn trong lịch sử. Không còn một Nguyễn Huệ oai phong trên chiến trường bách chiến bách thắng mà có những khoảnh khắc đi chân đất, không còn khoảnh khắc hiên ngang, bình tĩnh xử lí từng trận đánh mà “vừa đi vừa vấp”. Nhan sắc của Vinh Hoa đã làm Nguyễn Huệ mê đắm “Ta được Vinh Hoa như báu vật, một Vinh Hoa bằng ba vạn người”. Một anh hùng dân tộc không ai nghĩ rằng Nguyễn Huệ lại rất hung bạo và đầy mặc cảm trong Gió lửa của Nam Dao: “Huệ mê An, cô láng giềng. Chê Huệ xấu, An yêu người khác. Ngày đám cưới An, Huệ tuyệt vọng chạy ra hét như người hóa dại, rút dao đâm vào đùi mình, máu chảy lên láng, kêu ầm lên chỉ vì mặt ta có mụn”. Độc giả quen với việc ngợi ca một hoàng đế Quang Trung oai phong lẫm liệt lập nhiều chiến công dẹp nội thù, phá ngoại xâm, vì thế khi đọc những tác phẩm đương đại họ không dễ dàng chấp nhận được một Nguyễn Huệ quen cuồng sát và coi sinh mệnh người như cỏ rác: “Huệ quất roi như một kẻ suốt đời hành nghề tra tấn, không đánh được người thì không biết phải làm gì”, “Huệ nóng nảy sai Nhậm chém một viên Tả Phiên triều Lê chỉ bởi hắn dám cười cách đọc điếu văn của Huệ thủ cấp Huệ sai bỏ trên mâm bạc đặt lên áo quan vua làm kinh động khắp thành. Thân nhân người có tội hay biết, chạy đến cửa cung TRỊNH HUỲNH AN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 109 kêu khóc. Huệ cũng sai chém”. (Mùa mưa gai sắc – Trần Vũ). Văn chương đương đại đã phác họa lên một Nguyễn Huệ cuồng dâm. Cảnh đêm tân hôn của Nguyễn Huệ và Ngọc Hân được nhiều nhà văn khai thác. Trong Mùa mưa gai sắc, Trần Vũ đã hiện lên một đêm tân hôn không xuất phát từ tình yêu mà đó là hận thù, chiếm đoạt: “Huệ chụp lấy áo cưới của Ngọc Hân xé toạc. Bằng hành động của con mãnh thú, Huệ xô ngã sấp Ngọc Hân ra giường, tháo dây đai quật xối xả lên tấm lưng mãnh dẻ tưởng như giải lụa bạch đang oằn mình chịu đòn”. Trong Gió lửa của Nam Dao, đêm tân hôn của Ngọc Hân và Nguyễn Huệ cũng không phải xuất phát từ tình yêu mà là sự chiếm đoạt cô gái chỉ mới mười sáu tuổi: “Huệ xé mảnh vải cuối cùng trên hạ thể Hân, xoay người Hân lại bắt quỳ xuống Ngọc Hân oằn người, thét lên một tiếng nhỏ, rồi mặc cho sự đau đớn đến chảy nước mắt”. Trong Ai tư vãn, Lê Ngọc Hân đã dùng nhiều ngôn từ xúc động bày tỏ sự xót thương cho con đường tình duyên ngắn ngủi giữa hai người: “Kiếp này chưa trọn chữ duyên Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương” Đọc những dòng thơ trên, chắc hẳn bất kì ai cũng xúc động trước tình cảm sâu đậm của hoàng hậu Ngọc Hân dành cho Nguyễn Huệ. Tuy nhiên, văn học đương đại lại đưa độc giả đến sự hoài nghi đâu là sự thật trong mối quan hệ tình cảm giữa Ngọc Hân và Nguyễn Huệ. Từ cảnh tượng đêm tân hôn nhuốm màu sắc của sự oán thù, chiếm đoạt, đến những ngày dài Ngọc Hân sống trong cảnh tra tấn đòn roi. Quang Trung chết không nhắm mắt phải nhờ đến bàn tay của Vinh Hoa trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, hay những lời lẽ đầy thù hận trong Mùa mưa gai sắc của Trần Vũ: “Ngọc Hân chấm tay vào giọt máu còn rỉ ra ở bụng bình, đưa lên môi, máu của họ Lê phải trả bằng máu của Tây Sơn”. Từ một nhân vật lịch sử, văn chương trung đại đã huyền thoại hóa hoàng đế Quang Trung và được văn chương đương đại giải huyền thoại. Mỗi góc nhìn, mỗi nhà văn đem đến cho văn chương những hình ảnh khác nhau về nhân vật Nguyễn Huệ. Mặc dù nhân vật Nguyễn Huệ được giải thiêng bằng việc gắn vào những yếu tố đời thường, nhưng các nhà văn đương đại không nhằm mục đích bôi nhọ, hạ bệ nhân vật lịch sử. Đây là cách nhìn giải thích cho xu hướng mượn lịch sử để lí giải cho hiện thực trong văn học Việt Nam đương đại. 3.2. Tái huyền thoại mẫu hình hoàng đế Quang Trung Tái huyền thoại trong văn học cũng được xem là quá trình giải huyền thoại. Khả năng tái sinh, thâm nhập vào văn chương của huyền thoại là điều tất yếu của sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác đã đem đến hình ảnh một nhân vật Nguyễn Huệ đẹp hơn trong lịch sử. Nếu như lịch sử chỉ ghi chép về một Nguyễn Huệ xuất chúng trong lĩnh vực quân sự, chính trị thì Sông Côn mùa lũ đã huyền thoại hóa nhân vật anh hùng này những tư tưởng vượt tầm. Trong tác phẩm, Nguyễn Huệ xuất hiện qua lời giới thiệu của Nguyễn Nhạc với thầy giáo Hiến: “Thằng Lữ tuổi Mùi, thằng Huệ tuổi Dậu. Trước đây tôi có cho đi học, cả hai viết chữ cũng ngay ngắn. Thằng Huệ sáng trí hơn, lâu lâu có làm được cái đơn, giúp tôi sổ sách thuế” [4, 123]. Thông qua những lần phát biểu, tranh luận tại lớp học thầy giáo Hiến, Nguyễn Huệ đã bộc lộ sự thông minh và tài SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 110 năng xuất chúng. Khi học bài học về nghĩa hiệp, Huệ hỏi thầy như thế nào là người nghĩa hiệp?. Thầy giáo Hiến trả lời: “Phải rộng rãi để giúp người mà không so đo thiệt hơn, nếu cần dám quên mình mà giúp người” [4, 149]. Từ cách lí giải của thầy, cậu học trò 15 tuổi lại đưa ra những giả thuyết mang chiều sâu về lí luận: “quên cả sống chết xông vào cứu một thằng ăn cướp ngay ban ngày, giữa chợ có phải là nghĩa hiệp không thưa thầy?... Nhảy xuống sông cứu một người sắp chết đuối, dù không biết bơi, đã được gọi là nghĩa hiệp chưa?...Vậy là con đã biết phải làm gì rồi. Gặp một tên thu thuế hống hách và tham lam đang bị bọn cướp đường hành hung, ta không nên can thiệp vào làm gì. Để bọn cướp tự thanh toán với nhau” [4, 149 - 150]. Qua mỗi lần đối thoại, thầy giáo Hiến lại càng bất ngờ trước sự thông minh, khéo léo và những suy nghĩ mới mẻ, vượt tầm của Nguyễn Huệ. Huệ không tin vào “mênh trời chí công” vì ông tin không thực sự có trời, bởi nếu có trời đảm bảo sự công bằng thì cớ gì “tại sao trời lại sinh chi những con người vất vưởng đầu đường với cái bụng trống rỗng như vậy?” [4, 223]. Khi viết Sông Côn mùa lũ, Nguyễn Mộng Giác đã triệt để hóa yếu tố sáng tạo và hư cấu của thể loại tiểu thuyết để biến nhân vật lịch sử thành nhân vật văn học. Yếu tố đời tư của Nguyễn Huệ được tác giả khai thác với nhiều trắc trở và bi kịch trong tình yêu và cuộc sống. Ông đã cung cấp cho độc giả một Nguyễn Huệ thủy chung, son sắc trong tình yêu. Nguyễn Huệ đã rung động trước vẻ đẹp của An: “Cho đến ngày Huệ gặp An. Điều ghi giấu trong cảm quan của cậu, khiến cậu gần như sững sờ là cái dáng điệu uyển chuyển, nhịp nhàng, linh động của An” [4, 136]. Đến khi nghe tin An sắp lấy Lợi, lòng Huệ ngổn ngang, lo âu, dày vò. Ngày An thành thân, Huệ rơi vào trạng thái tuyệt vọng. Ở góc độ này, độc giả không còn thấy một Nguyễn Huệ hiên ngang trên trận mạc, mà là một con người đời tư, con người thế sự. Con người ấy cũng biết vui buồn với những trắc trở của cuộc sống đời thường. Có thể nói đến với Sông Côn mùa lũ, Nguyễn Mộng Giác đã tái huyền thoại Nguyễn Huệ một cách tròn trịa. Bởi lẽ đến với tác phẩm này, độc giả mới thấy được sự dung hòa giữa huyền thoại và giải huyền thoại. Nguyễn Huệ đã hiện lên rất chân thực, rất đời thường, không còn là một con người được đóng khung theo lí tưởng nhân vật anh hùng hay là một anh hùng ngạo nghễ, hoang dại không vướng bận chuyện yêu đương. Trong mối quan hệ huyết thống, Sông Côn mùa lũ đã xây dựng một Nguyễn Huệ nặng tình máu mủ. Nguyễn Huệ có tư tưởng, hoài bão lớn là muốn thống nhất giang sơn. Nhưng nếu thực hiện hoài bão ấy cũng chính là chống lại người anh của mình. Vì thế Nguyễn Huệ luôn ưu tư, trăn trở: “Ta dừng lại chăng? Ta bằng lòng đứng bên này Lũy Thầy nhìn ra phía Bắc như một kẻ ngoài cuộc, để mặc cho Nguyễn Hữu Chỉnh, họ Lê, họ Trịnh, quân Thạc, quân Liễn cùng lũ quan lại xâu xé nhau giữa một đất nước tan hoang? Như vậy, bấy nhiêu việc ta làm lâu nay chẳng hóa ra vô ích sao?” [6, 136]. Khi quyết định tấn công Quy Nhơn, Nguyễn Huệ phải trải qua thời gian dài rơi vào trạng thái trằn trọc, cô đơn: “Chưa bao giờ Nguyễn Huệ cảm thấy cô đơn như vậy. Ông thức trắng nhiều đêm. Một mình, không nói chuyện u uất với ai” [6, 114]. Có thể thấy nhân vật Nguyễn Huệ qua ngòi bút Nguyễn Mộng Giác đầy ưu tư, đời sống nội tâm được khai thác ở nhiều TRỊNH HUỲNH AN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 111 khía cạnh mới mẻ. Nhà văn đã thay các sử gia viết lên những nỗi lòng ưu tư của Nguyễn Huệ. 4. Kết luận Qua khảo sát các tác phẩm từ trung đại đến hiện đại có thể thấy được một hệ thống khá toàn diện về hình ảnh hoàng đế Quang Trung qua từng giai đoạn văn học. Từ nhân vật lịch sử, người anh hùng áo vải cờ đào đã được văn chương trung đại huyền thoại hóa với những hình ảnh sống động, oai phong dẹp nội thù, phá ngoại xâm. Cũng một nhân vật lịch sử, nhưng hoàng đế Quang Trung qua ngòi bút các nhà văn đương đại đã hiện lên rất mới mẻ, đời thường. Từ lời nói, hành động, suy nghĩ của hoàng đế Quang Trung đều được giải thiêng. Thậm chí có những chi tiết khiến người đọc cảm nhận một Quang Trung xấu xa, thô bạo, dâm đãng và hoang dại. Chịu sự chi phối của thi pháp trung đại, các tác gia thời kì này thiên về cảm hứng ngợi ca, tôn sùng và huyền thoại hóa nhân vật hoàng đế Quang Trung trở thành mẫu hình chuẩn mực trong đời sống xã hội quân chủ. Đồng hành cùng sự vận động của văn chương, hình ảnh hoàng đế Quang Trung đã từng bước được giải thiêng rất gần gũi với cuộc sống đời thường. Các tác giả hiện đại, đương đại vừa giải huyền thoại vừa tái huyền thoại Quang Trung không còn khô cứng trong mẫu hình anh hùng oai phong trên trận mạc, mà đó là con người đời tư, con người thế sự. Hoàng đế Quang Trung được vẽ lên bằng những chiều sâu về nội tâm, những cảm xúc yêu đương rất đời thường, những sự dằn xé tâm can trong cảnh “nồi da xáo thịt”. Việc khảo sát hệ thống các tác phẩm từ trung đại đến đương đại viết về hoàng đế Quang Trung đã đem đến cái nhìn đa diện, đa chiều về nhân vật này. Đặc biệt, giải huyền thoại và tái huyền thoại đã có tác dụng tích cực giúp độc giả có cái nhìn gần gũi và chân thực hơn về nhân vật lịch sử. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (2004), Hán Việt từ điển (Giản yếu), Hãn Mạn Tử hiệu đính, Nxb Khoa học xã hội, TP. Hồ Chí Minh. 2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội. 3. Nam Dao (2014), Gió lửa, Người Việt. 4. Nguyễn Mộng Giác (2007), Sông Côn mùa lũ tập I, Nxb Văn học, Hà Nội. 5. Nguyễn Mộng Giác (2007), Sông Côn mùa lũ tập II, Nxb Văn học, Hà Nội. 6. Nguyễn Mộng Giác (2007), Sông Côn mùa lũ tập III, Nxb Văn học, Hà Nội. 7. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới, TP. Hồ Chí Minh. 8. Ngô gia văn phái (2014), Hoàng lê nhất thống chí, Nxb Văn học, Hà Nội. 9. Bùi Duy Tân (2009), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam tập III, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 10. Nguyễn Huy Thiệp (2011), Không có vua, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Ngày nhận bài: 07/07/2018 Biên tập xong: 15/12/2018 Duyệt đăng: 20/01/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf86_4879_2214991.pdf
Tài liệu liên quan