Tài liệu Hợp tác Việt Nam và Thái Lan trong việc giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống hiện nay: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017
64
Hợp tác Việt Nam và Thái Lan trong việc giải quyết
các vấn đề an ninh phi truyền thống hiện nay
Vietnam – Thailand cooperation in solving non-traditional security issues
TS. Hà Lê Huyền,
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á
Ha Le Huyen, Ph.D.,
Institute for Southeast Asian Studies
Tóm tắt
Ở thế kỷ XXI, việc hội nhập quốc tế mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng gia tăng không ít thách thức rủi
ro, nguy hiểm về vấn đề an ninh phi truyền thống đối với các quốc gia nói chung và với Việt Nam, Thái
Lan nói riêng. Trước tình hình đó, hai nước không ngừng nâng cao tầm kiểm soát về vấn đề an ninh
thông qua họp Nhóm Công tác chung chính trị – ngoại giao – an ninh Việt Nam – Thái Lan. Đây là hình
thức hợp tác được duy trì liên tục và luân phiên giữa hai nước, họp lần đầu tiên vào năm 2004 và đến
nay đã tổ chức lần thứ 9 (7/2017) nhằm tăng cường hợp tác để xử lý các thách thức an ninh phi truyền
thống đang nổi...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 360 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hợp tác Việt Nam và Thái Lan trong việc giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017
64
Hợp tác Việt Nam và Thái Lan trong việc giải quyết
các vấn đề an ninh phi truyền thống hiện nay
Vietnam – Thailand cooperation in solving non-traditional security issues
TS. Hà Lê Huyền,
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á
Ha Le Huyen, Ph.D.,
Institute for Southeast Asian Studies
Tóm tắt
Ở thế kỷ XXI, việc hội nhập quốc tế mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng gia tăng không ít thách thức rủi
ro, nguy hiểm về vấn đề an ninh phi truyền thống đối với các quốc gia nói chung và với Việt Nam, Thái
Lan nói riêng. Trước tình hình đó, hai nước không ngừng nâng cao tầm kiểm soát về vấn đề an ninh
thông qua họp Nhóm Công tác chung chính trị – ngoại giao – an ninh Việt Nam – Thái Lan. Đây là hình
thức hợp tác được duy trì liên tục và luân phiên giữa hai nước, họp lần đầu tiên vào năm 2004 và đến
nay đã tổ chức lần thứ 9 (7/2017) nhằm tăng cường hợp tác để xử lý các thách thức an ninh phi truyền
thống đang nổi cộm hiện nay của Việt Nam và Thái Lan với ba vấn đề: ma túy, tuần tra chung ở Vịnh
Thái Lan và nạn buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Từ khóa: quan hệ Việt Nam – Thái Lan, an ninh phi truyền thống.
Abstract
In the 21st century, international integration has brought many benefits but also increased many
challenges regarding non-traditional security risks to countries in general, to Vietnam and Thailand in
particular. Under those circumstances, the two countries have been improving their security control
through the Vietnam-Thailand Political-Security-Diplomatic Working Group. This collaboration is a
continuous and rotational form of cooperation between the two nations, which was first held in 2004
and has taken place for the ninth time (July 2017) to tackle the current non-traditional security
challenges of Vietnam and Thailand including three major issues: drugs, joint patrol in the Gulf of
Thailand, and human trafficking, especially women and children.
Keywords: Vietnam – Thailand relations, non-traditional security.
1. Những vấn đề lý luận cơ bản về
khái niệm an ninh phi truyền thống
Tình hình thế giới sau Chiến tranh
Lạnh (1991) có diễn biến mới, hòa bình trở
thành xu thế nổi trội, khu vực hóa và toàn
cầu hóa đang tạo nhiều điều kiện thuận lợi
cho các nước vừa và nhỏ tham gia một
cách chủ động, tích cực vào quá trình hội
nhập quốc tế dưới các hình thức khác nhau
để tăng cường vị thế của mình. Tuy nhiên
các quốc gia cũng phải đối mặt với những
thách thức mới từ mối đe dọa an ninh phi
truyền thống. Thái Lan và Việt Nam cũng
không ngoại lệ.
HÀ LÊ HUYỀN
65
Theo tổ chức Liên Hợp quốc “An ninh
phi truyền thống” (ANPTT) bao gồm 7 lĩnh
vực chủ yếu là: kinh tế, lương thực, sức
khỏe, môi trường, con người, cộng đồng và
chính trị. Có quan điểm khác lại khẳng
định ANPTT gồm 6 nhóm chính là: ô
nhiễm môi trường, tình trạng thiếu hụt tài
nguyên, tội phạm xuyên quốc gia, nạn
khủng bố, dịch bệnh và thảm họa thiên tai.
Mely Caballero Anthony quan niệm mối đe
dọa ANPTT được định nghĩa là: “thách
thức đối với sự tồn vong và thịnh vượng
của các quốc gia, dân tộc, xuất hiện chủ
yếu trong các nguồn phi quân sự, chẳng
hạn như thay đổi khí hậu, suy thoái môi
trường xuyên biên giới và nguồn tài
nguyên cạn kiệt, bệnh truyền nhiễm, thiên
tai, di cư bất hợp pháp, tình trạng thiếu
lương thực, buôn lậu, buôn bán ma túy và
các hình thức khác của tội phạm xuyên
quốc gia”[19].
Ở khu vực Đông Nam Á khái niệm
“An ninh phi truyền thống” được xuất hiện
chính thức trong “Tuyên bố chung ASEAN
- Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực an
ninh phi truyền thống” thông qua tại Hội
nghị thượng đỉnh lần thứ 6 giữa các nước
thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) và Trung Quốc tại Phnôm Pênh
(Campuchia) ngày 01/11/2002. Đó là
những vấn đề về buôn lậu, ma túy, buôn
bán phụ nữ và trẻ em, cướp biển, khủng bố,
buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế
quốc tế và tội phạm công nghệ cao, đồng
thời tạo ra những thách thức mới đối với
hòa bình, ổn định trong và ngoài khu vực.
Theo Amitav Acharya - nhà nghiên
cứu hàng đầu về quan hệ quốc tế cho rằng,
an ninh phi truyền thống là “các thách thức
đối với sự tồn vong và chất lượng cuộc
sống của con người và nhà nước có nguồn
gốc phi quân sự như thay đổi khí hậu, khan
hiếm nguồn lực, bệnh dịch, thiên tai, di cư
không kiểm soát, thiếu lương thực, buôn
người, buôn ma túy và tội phạm có tổ
chức”. Trong cách tiếp cận vấn đề an ninh
phi truyền thống này, hai đối tượng bị
thách thức trực tiếp ở đây là nhà nước và
con người [18, 23].
Tại Việt Nam, phần lớn các học giả
nghiên cứu về quan hệ quốc tế cho rằng an
ninh phi truyền thống là những mối đe dọa
đối với an ninh quốc gia mà không xảy ra
những xung đột quân sự giữa các lực lượng
quân đội [9]. Sách trắng Quốc phòng Việt
Nam năm 2004 đã xác định: “Những vấn
đề chưa được giải quyết, liên quan đến
tranh chấp biên giới, lãnh thổ trên bộ, trên
biển cùng những vấn đề an ninh phi truyền
thống khác, như buôn bán và vận chuyển
trái phép vũ khí, ma túy, cướp biển, tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia, khủng bố,
nhập cư và di cư trái phép, suy thoái môi
trường, sinh thái... cũng là những mối quan
tâm an ninh của Việt Nam” [1,11]. Như
vậy, những mối đe dọa an ninh phi truyền
thống đối với Việt Nam không chỉ từ các
vấn đề trong nước, mà còn từ các vấn đề
khu vực và thế giới.
Như vậy, khái niệm ANPTT nội hàm
rất rộng. hông phải ng u nhiên mà cách
đặt vấn đề ANPTT của các quốc gia, khu
vực và cộng đồng có những điểm khác
nhau nhất định. Việc khuôn những vấn đề
cụ thể nào đó trong nội hàm của ANPTT
như các nhận thức nêu trên đều mang ý
nghĩa tương đối, nhằm phục vụ cho việc
hoạch định, xây dựng chính sách, chiến
lược an ninh của đất nước và những cam
kết an ninh song phương, đa phương trong
hợp tác, liên kết quốc tế. Vì thế, có thể hiểu
ANPTT tuy không đe dọa trực tiếp đến chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhưng là
những mối đe dọa đối với trật tự, an toàn,
HỢP TÁC VI T NAM VÀ THÁI LAN TRONG VI C GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
66
an sinh xã hội của các quốc gia. Trong
khuôn khổ của bài tạp chí, nghiên cứu về
hợp tác an ninh phi truyền thống giữa Thái
Lan và Việt Nam, chúng tôi chỉ phân tích 3
vấn đề nổi bật hiện nay của hai nước đó là:
ma túy; tuần tra chung ở Vịnh Thái Lan; và
nạn buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và
trẻ em.
2. Thực trạng hợp tác giữa Việt Nam
và Thái Lan trong việc giải quyết các
vấn đề an ninh phi truyền thống
Thông qua cơ chế hợp tác Nhóm Công
tác chung chính trị - ngoại giao - an ninh
Việt Nam - Thái Lan, hai bên đã tăng
cường mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc phòng, an ninh; tăng cường hợp
tác để xử lý các thách thức an ninh truyền
thống và phi truyền thống; đẩy mạnh hợp
tác về lãnh sự; và khẳng định cam kết
không cho phép bất kỳ cá nhân hoặc tổ
chức nào sử dụng lãnh thổ của nước này
thực hiện các hoạt động chống lại nước kia,
hợp tác phòng chống tội phạm xuyên quốc
gia (chống di cư bất hợp pháp và buôn
người, chống khủng bố, ma túy, rửa tiền,
tội phạm mạng, tội phạm kinh tế quốc tế),
hợp tác quốc phòng, pháp luật và tư pháp
cũng như các vấn đề có liên quan đến hai
nước, trong đó có việc thảo luận và kiến
nghị các biện pháp nhằm giải quyết vấn đề
ngư dân, tàu cá hai nước trên tinh thần
nhân đạo.
2.1. Vấn đề ma túy
Ma túy là vấn nạn của nhiều quốc gia
trên thế giới. Tình hình sản xuất, sử dụng
ma túy tổng hợp đang lan rộng và gia tăng,
xuất hiện ngày càng nhiều các tổ chức tội
phạm quốc tế, sự đa dạng về tuyến đường
vận chuyển và phương thức thủ đoạn hoạt
động. Thái Lan và Việt Nam là hai quốc
gia trong khu vực có điểm chung là chịu sự
tác động trực tiếp từ các điểm nóng ma túy
của khu vực Tam giác Vàng. Tội phạm ma
túy lợi dụng tập quán sinh hoạt, sự phát
triển của công nghệ thông tin, tính toàn cầu
hóa để hoạt động.
Theo tinh thần Hiệp định giữa Chính
phủ Việt Nam và Chính phủ Vương quốc
Thái Lan về hợp tác kiểm soát ma tuý, các
chất hướng thần và tiền chất được ký kết
ngày 7/10/1998 đã tạo hành lang pháp lý
cho các cơ quan chức năng hai nước tăng
cường hợp tác trong các lĩnh vực liên quan
tới ma túy. Trong thập niên đầu thế kỷ
XXI, hai nước đã hợp tác một cách toàn
diện, triển khai nhiều hoạt động song
phương về phòng, chống ma túy như:
thường xuyên trao đổi các đoàn nghiên
cứu, học hỏi kinh nghiệm; tổ chức các lớp
tập huấn, các hội nghị, hội thảo về phòng,
chống ma túy; trao đổi, chia sẻ thông tin,
bắt giữ các đối tượng mua bán, vận chuyển
ma túy trái phép. Trên các diễn đàn đa
phương, hai nước luôn hợp tác và ủng hộ
l n nhau.
Thái Lan là quốc gia có tình hình tội
phạm và tệ nạn nghiện ma tuý phức tạp ở
khu vực Đông Nam Á. Thuốc phiện từ
vùng Tam giác Vàng được vận chuyển vào
Thái Lan và đóng gói lại tiếp tục phân phối
đi các nơi khác. Những năm qua Thái Lan
đã mở nhiều chiến dịch tấn công truy quét
tội phạm ma tuý có hiệu quả. Pháp luật của
Thái Lan qui định về các hình phạt cho tội
phạm ma tuý rất nghiêm khắc: Người nào
tiêu thụ hoặc sở hữu để tiêu thụ các chất
ma tuý thuộc bảng I số lượng dưới 100
gam đã được xác định là ma tuý nguyên
chất thì bị phạt tù từ 5 năm đến chung thân
và bị phạt tiền từ 50.000 - 500.000 Baht;
trên 100 gam sẽ bị phạt chung thân hoặc tử
hình [20]. Hàng năm, các cơ quan chức
năng của hai nước đã phối hợp tổ chức các
hội nghị, hội thảo chuyên đề, trao đổi các
HÀ LÊ HUYỀN
67
đoàn thăm quan nghiên cứu học tập về mô
hình tổ chức và chia sẻ những bài học kinh
nghiệm rút ra từ công tác này. Việt Nam
học tập của Thái Lan chiến dịch tổng tấn
công tệ nạn ma tuý trên qui mô toàn quốc
tháng 02/2003, công tác phối hợp toàn
diện, đồng bộ giữa giảm cung, giảm cầu,
giảm tác hại thông qua các biện pháp thiết
thực để nâng cao hiệu quả công tác phòng,
chống ma tuý... Đối với Việt Nam, hợp tác
phòng chống ma túy với Thái Lan vì Thái
Lan là một trong những nước có nhiều kinh
nghiệm để tham khảo, trao đổi. Bên cạnh
đó, do vị trí thuận lợi trong khu vực, Thái
Lan được chọn làm nơi đặt trụ sở của các
tổ chức quốc tế, trường đào tạo hành pháp
của ASEAN, trường đào tạo của Cơ quan
phòng chống ma tuý Hoa ỳ (DEA) và
đăng cai nhiều Hội nghị quốc tế về phòng
chống ma tuý nên rất nhiều cán bộ làm
công tác phòng chống ma tuý của Việt
Nam đã có dịp sang Thái Lan tham quan,
nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, dự hội
thảo quốc tế, tập huấn trong khuôn khổ
song phương cũng như đa phương. Thông
qua đó, mối quan hệ giữa các cán bộ phòng
chống ma tuý của Việt Nam và Thái Lan
ngày càng tăng cường và phát triển.
Việc hợp tác giữa hai nước Việt Nam -
Thái Lan trong việc chống phòng chống
ma túy là rất cần thiết. ể từ khi hai nước
có hợp tác song phương về phòng chống
ma túy phần nào hạn chế hoạt động của tội
phạm. Việt Nam và Thái Lan chia sẻ nhiều
thông tin về các hoạt động liên quan đến
buôn bán ma túy, xuất khẩu tinh dầu xá xị,
trong đó điển hình có vụ điều tra ba
container hàng tinh dầu xá xị bị Hải quan
Hoàng gia Thái Lan bắt giữ... Tổng thư ký
Ủy ban iểm soát ma túy Thái Lan
Permpong Chaovalit cho rằng, đất nước
Thái Lan cũng đối mặt với nhiều loại tội
phạm liên quan đến ma túy. Chính phủ
Hoàng gia Thái Lan rất mạnh tay với loại
tội phạm này. Thái Lan bắt đầu thực hiện
Chiến dịch Liên minh nhân dân chống ma
túy từ ngày 1/4/2008 cho thấy Thái Lan
dốc sức cho việc phòng chống ma túy. “Ba
giảm, ba tăng, ba tập trung” [14] là chiến
lược chủ đạo của Thái Lan trong giải quyết
vấn đề ma túy.
Ngoài ra, cơ quan chức năng của hai
nước Việt - Thái đã triển khai nhiều nội
dung hợp tác. Chính phủ Thái Lan đã cử sĩ
quan liên lạc về phòng chống ma túy sang
Việt Nam làm cầu nối trao đổi thông tin.
ết quả đã phát hiện 3 vụ vận chuyển ma
túy qua đường hàng không, bắt 6 đối
tượng, thu giữ gần 10kg cocain. Để việc
phối hợp hiệu quả hơn, trưởng đoàn hai
nước quyết tâm bằng nhiều biện pháp để
phát triển hơn nữa sự hợp tác bền vững
trong công cuộc phòng chống ma túy, vì
một ASEAN không có ma túy. Trên các
diễn đàn hợp tác khu vực và quốc tế như
SOCCOM, ASOD, ACCORD, MOU,
hai nước luôn bàn bạc, phối hợp và nêu cao
quan điểm, thúc đẩy thực thi các sáng kiến
nhằm hướng tới một khu vực ASEAN
không có ma tuý; cùng nhau chia sẻ kinh
nghiệm trong quá trình triển khai các dự án
hợp tác khu vực như dự án về tăng cường
năng lực giám định do JICA (Nhật Bản) tài
trợ. Cơ quan phòng chống ma túy Việt
Nam và Thái Lan nhất trí rằng, việc phối
hợp trao đổi thông tin giữa hai nước nhằm
phát hiện sớm các hoạt động buôn bán, vận
chuyển trái phép các chất ma tuý trên tuyến
Hành lang kinh tế Đông - Tây đang đặt ra
yêu cầu cấp bách cho cơ quan phòng chống
ma tuý của hai nước.
Hợp tác giữa Việt Nam và Thái Lan đã
góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội phạm ma túy. Số vụ án
HỢP TÁC VI T NAM VÀ THÁI LAN TRONG VI C GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
68
ma túy và đối tượng bắt giữ ngày càng
tăng, mở rộng được nhiều vụ án xuyên
quốc gia liên quan đến quốc tế; phối hợp
quản lý buôn bán tiền chất dùng vào việc
sản xuất trái phép chất ma tuý; nâng cao
hiệu quả trao đổi thông tin Thực tế
những năm qua, thông qua các hoạt động
hợp tác quốc tế trong phòng, chống ma tuý
Việt Nam đã học hỏi và trao đổi được
nhiều kinh nghiệm phòng, chống ma tuý từ
Thái Lan, tranh thủ được sự ủng hộ, giúp
đỡ về đào tạo cán bộ, cai nghiện về kinh
phí, trang thiết bị của cơ quan phòng chống
ma túy và tội phạm của Liên hợp quốc
(UNODC) và các quốc gia. Dự báo thời
gian tới vấn đề tội phạm ma tuý ở Việt
Nam, Thái Lan cũng như nhiều quốc gia
trên thế giới sẽ gia tăng và có nhiều diễn
biến phức tạp. Cuộc đấu tranh phòng,
chống ma tuý của Việt Nam cũng như trên
toàn cầu sẽ còn nhiều khó khăn, vất vả.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy trên cơ sở Hiệp
định và các cam kết, quan hệ hợp tác
phòng, chống ma tuý giữa hai nước ngày
càng chặt chẽ, đồng thời mở rộng quan hệ
hợp tác với các nước khác để đáp ứng với
yêu cầu của tình hình mới.
2.2. Vấn đề tuần tra chung ở
Vịnh Thái Lan
Bối cảnh an ninh khu vực đang có
nhiều diễn biến mới, phức tạp và khó
lường, trong đó có những thách thức an
ninh trên biển như cướp biển, khủng bố,
phổ biến vũ khí, buôn người, di cư bất hợp
pháp, vận chuyển ma túy, tranh chấp lãnh
thổ, tài nguyên, tác động tiêu cực của biến
đổi khí hậu như động đất, sóng thần, gây ra
các thảm họa thiên tai cho nhân loại...
Trong nỗ lực đảm bảo ổn định cho vùng
Vịnh Thái Lan - một trong những tuyến
đường biển quan trọng trên thế giới, Việt
Nam đề xuất các nước trong vùng thiết lập
đường dây nóng giải quyết sự cố trên biển,
tuần tra chung, diễn tập tìm kiếm cứu nạn
và ứng phó thảm họa trên biển.
Vịnh Thái Lan nằm dọc theo dải
Malacca, Singapore và Biển Đông, là một
trong những tuyến đường liên lạc trên biển
quan trọng nhất thế giới. hu vực này
được biết đến như hành lang trung chuyển
hàng lậu và các hoạt động trái phép, đồng
thời cũng là tuyến đường giao thương chủ
yếu giữa các nước công nghiệp ở Đông
Bắc Á và Trung Đông. Bởi thế, việc thống
nhất nguyên tắc thực thi pháp luật trên
biển, tăng cường hợp tác giữa các nước
trong khu vực vùng Vịnh Thái Lan đóng
vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu
buôn lậu, đồng thời góp phần cải thiện an
ninh các tiểu vùng khác như dải Malacca,
Singapore, quần đảo Sulu.
Trước tình hình đó, Thái Lan và Việt
Nam ký biên bản thỏa thuận tuần tra chung
và thiết lập kênh liên lạc trên biển giữa Hải
quân Việt Nam và Hải quân Thái Lan ngày
20/6/1999. Để triển khai hợp tác, hai nước
tiến hành khóa học nâng cao cho cán bộ tàu
thuyền, xây dựng kế hoạch, liên lạc, tham
mưu, hậu cần và các nghiệp vụ hỗ trợ trong
việc ngăn chặn, can thiệp ở trên biển, hội
thảo về chỉ huy an ninh hàng hải...
Với các hình thức hợp tác phù hợp với
khả năng của các quốc gia, trong đó có các
lĩnh vực như chia sẻ thông tin, xây dựng
năng lực, phối hợp đào tạo và huấn luyện
chung, thiết lập đường dây nóng giải quyết
sự cố trên biển, tuần tra chung, diễn tập tìm
kiếm cứu nạn và ứng phó thảm họa trên
biển. Thái Lan - Việt Nam đã tiến hành
được 29 chuyến tuần tra chung góp phần
duy trì ổn định trật tự trên vùng biển tiếp
giáp giữa hai nước. Biên đội tàu của 2
nước đã phối hợp xử lý các tình huống
như: tìm kiếm cứu nạn; luyện tập chống
HÀ LÊ HUYỀN
69
khủng bố Qua đó, đã góp phần xây dựng
vùng biển giáp ranh hòa bình, ổn định, hợp
tác và phát triển; tạo điều kiện thuận lợi
cho ngư dân của mỗi nước làm ăn trên
vùng biển nước mình. Hải quân hai nước
tăng cường trao đổi Đoàn các cấp; đẩy
mạnh các hoạt động phối hợp luyện tập
chung trên biển; tăng cường chia sẻ thông
tin; hợp tác về chống cướp biển và bảo vệ
môi trường biển; phối hợp với các cơ quan
chức năng của mỗi bên tăng cường công
tác tuyên truyền, giáo dục, thông báo cho
ngư dân của mình không vi phạm vùng
biển của mỗi nước; phối hợp giải quyết
nhân đạo việc ngư dân vi phạm và đánh bắt
trái phép, góp phần giữ gìn ổn định và an
ninh trật tự trên vùng biển giáp ranh.
2.3. Vấn đề nạn buôn bán người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em
Buôn bán người là một dạng của nô lệ
thời hiện đại. Sự vi phạm quyền con người
này hình thành một loại tội phạm xâm hại
đến cá nhân và Nhà nước, cần phải được
nhận biết và trừng phạt bằng phương tiện
pháp lý. Với tình hình hiện nay, nạn buôn
người đã trở thành vấn nạn toàn cầu, vượt
khỏi phạm vi một quốc gia và cần có sự nỗ
lực hợp tác đấu tranh của toàn thế giới.
Cụm từ buôn bán người đã được định
nghĩa rõ ràng trong Nghị định thư về
phòng, chống và trừng trị tội buôn bán
người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. “Buôn
bán người có nghĩa là việc mua bán, vận
chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận
người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử
dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực hay bằng
các hình thức ép buộc, bắt cóc, gian lận,
lừa gạt, hay lạm dụng quyền lực hoặc vị
thế dễ bị tổn thương hay bằng việc đưa hay
nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự
đồng ý của một người đang kiểm soát
những người khác. Hành vi bóc lột sẽ bao
gồm, ít nhất, việc bóc lột mại dâm những
người khác hay những hình thức bóc lột
tình dục khác, các hình thức lao động hay
phục vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình
thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc lấy các bộ
phận cơ thể” [15]. Đông Nam Á đã được
xác định là khu vực có khoảng 200.000
phụ nữ và trẻ em được mua bán mỗi năm
cho việc mại dâm [17, 18].
Nhận thức được tính nguy hiểm của
hoạt động này cũng như việc cần phải hợp
tác cho việc phòng và chống buôn người,
ngày 24/3/2008 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ
Công An Lê Thế Tiệm (Việt Nam) và Bộ
Trưởng Bộ phát triển xã hội và an ninh con
người (Thái Lan) đã ký Hiệp định về hợp
tác song phương nhằm loại trừ nạn buôn
bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em và
giúp đỡ nạn nhân bị buôn bán. Hiệp định
có hiệu lực từ ngày 22/01/ 2009.
Nhằm tăng cường hơn nữa mối quan
hệ hữu nghị giữa hai nước và thúc đẩy hợp
tác song phương để trấn áp nạn buôn bán
phụ nữ và trẻ em. Nhận thức rằng nạn buôn
bán phụ nữ và trẻ em là sự vi phạm thô bạo
nhân quyền và chà đạp trắng trợn phẩm giá
con người, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự
phát triển về thể chất, tinh thần, tình cảm,
đạo đức của con người và làm phương hại
đến nền tảng và các giá trị của xã hội. Bên
cạnh đó, các băng nhóm và tổ chức tội
phạm xuyên quốc gia đang tích cực tham
gia vào việc buôn bán phụ nữ và trẻ em và
loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
này không chỉ ảnh hưởng đến Việt Nam và
Thái Lan mà còn ảnh hướng đến toàn khu
vực và cộng đồng thế giới. Việt Nam và
Thái Lan cùng quan tâm đấu tranh chống
nạn buôn bán người có tính chất xuyên
quốc gia như đã đề cập trong Tuyên bố
Bangkok về Di cư bất hợp pháp đã được
thảo luận tại Hội nghị chuyên đề quốc tế về
HỢP TÁC VI T NAM VÀ THÁI LAN TRONG VI C GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
70
di cư “Tiến tới hợp tác khu vực chống di
cư bất hợp pháp/di cư lén lút” được tổ chức
từ ngày 21 - 23/4/1999 tại Bangkok và
“Hội nghị Bali về chống buôn người và
vận chuyển người bất hợp pháp” tổ chức
tại Bali từ ngày 26 - 28/02/2002; Bản Ghi
nhớ về Hợp tác chống buôn bán người hu
vực tiểu vùng sông Mêkông ký tại Yangon,
Myanmar ngày 29/02/2004 và các hoạt
động liên quan khác. Trong những năm
qua, tình hình tội phạm mua bán người, đặc
biệt là mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên
giới giữa ba nước Việt Nam, Lào và Thái
Lan diễn ra phức tạp. Qua điều tra, khảo
sát trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, từ năm
1997 đến nay, các cơ quan chức năng đã
phát hiện 10 nhóm/19 đối tượng thực hiện
hành vi mua bán người ra nước ngoài với
32 nạn nhân [4]. Việc trấn áp tội phạm
buôn bán phụ nữ và trẻ em thông qua hợp
tác song phương trong thực thi pháp luật và
tố tụng hình sự là biện pháp hữu hiệu nhằm
đảm bảo công lý chống nạn buôn người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, và để bảo vệ
và giúp đỡ nạn nhân bị buôn bán.
Việt Nam và Thái Lan đều cho rằng
mục đích buôn bán phụ nữ và trẻ em bao
gồm: Mại dâm và các hình thức bóc lột
tình dục khác; làm việc nhà có tính cưỡng
bức hoặc bóc lột; lao động trong cảnh bị
giam cầm và các loại hình lao động có tính
rủi ro, nguy hiểm; hôn nhân nô lệ hoặc hôn
nhân trái ý muốn của nạn nhân; nhận con
nuôi giả; lấy các bộ phận trên cơ thể người;
ăn xin; nô lệ thông qua việc sử dụng ma
túy đối với trẻ em và phụ nữ... Việt Nam
và Thái Lan tiến hành các cải cách pháp
luật cần thiết và các biện pháp thích hợp
khác để đảm bảo rằng khuôn khổ pháp lý
của nước mình phù hợp với Tuyên bố toàn
cầu về Nhân quyền, Công ước về Quyền
trẻ em, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ và các văn
kiện quốc tế nhân quyền khác có hiệu lực
trong việc xoá bỏ nạn buôn bán phụ nữ và
trẻ em và bảo vệ các quyền của phụ nữ và
trẻ em là nạn nhân của hoạt động buôn bán
mà hai bên đã phê chuẩn hoặc tham gia.
Việt Nam và Thái Lan nỗ lực phòng
ngừa nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em thông
qua các biện pháp phòng ngừa sau đây:
Thứ nhất, tăng dịch vụ xã hội như hỗ trợ
tìm việc làm, tạo thu nhập, chăm sóc y tế
đối với những phụ nữ và trẻ em, đặc biệt
đối với những người dễ trở thành nạn nhân
bị buôn bán. Thứ hai, cải cách thực hiện
các chương trình giáo dục và đào tạo dạy
nghề đặc biệt dành cho phụ nữ và trẻ em
nhằm tăng cơ hội việc làm để giảm nguy
cơ trở thành nạn nhân bị buôn bán. Thứ ba,
tăng cường nhận thức và hiểu biết của cộng
đồng về vấn đề buôn bán phụ nữ và trẻ em.
Thứ tư, phổ biến thông tin tới cộng đồng về
các yếu tố rủi ro liên quan tới nạn buôn bán
phụ nữ và trẻ em và về việc kinh doanh bóc
lột phụ nữ và trẻ em.
Trong việc ngăn chặn, trấn áp nạn
buôn bán phụ nữ và trẻ em các cơ quan
thực thi pháp luật của hai nước, nhất là tại
khu vực biên giới, hợp tác chặt chẽ nhằm
kịp thời phát hiện, và điều tra tội phạm
buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ
em ở trong nước và qua biên giới. Quá
trình thực thi pháp luật được tổ chức hợp lý
nhằm đấu tranh chống tội phạm buôn bán
người có hiệu quả. Tăng cường công tác
điều tra, truy tố người phạm tội và các tổ
chức tội phạm liên quan đến các vụ buôn
bán phụ nữ và trẻ em. Việt Nam và Thái
Lan tiến hành các chương trình đào tạo đơn
phương và song phương cho các sỹ quan
thực thi pháp luật về các quy định pháp
luật có thể áp dụng, kỹ năng điều tra và bảo
vệ trong các vụ buôn bán, nhấn mạnh các
HÀ LÊ HUYỀN
71
quyền của con người. Cơ quan Công an và
các cơ quan hữu quan có thẩm quyền khác
của hai nước sẽ hợp tác trao đổi thông tin
về các vụ buôn bán phụ nữ và trẻ em như
tuyến đường, địa điểm buôn bán, nhận
dạng những kẻ buôn bán, mạng lưới,
phương thức buôn bán và dữ liệu về việc
buôn bán đó và thực hiện các biện pháp
bảo vệ cần thiết để bảo đảm an toàn cho
các nạn nhân và nhân chứng để tránh sự trả
thù hay đe dọa trong và sau quá trình điều
tra xét xử.
Sau khi những nạn nhân bị bắt được
tái hòa nhập cộng đồng, Việt Nam và Thái
Lan nỗ lực để tái hòa nhập an toàn và hiệu
quả nhằm khôi phục phẩm giá, tự do và
danh dự của họ. Vì mục đích này, Việt
Nam và Thái Lan áp dụng các biện pháp
thích hợp để tái hòa nhập có hiệu quả như
cung cấp các chương trình đào tạo hướng
nghiệp cho nạn nhân bị buôn bán nhằm
tăng cơ hội có được cách kiếm sống phù
hợp; và các chương trình đào tạo về sự
phát triển của trẻ em, quyền của trẻ em và
các vấn đề về trẻ em và giới được đề cập
trong Công ước về quyền trẻ em, Công ước
về loại trừ mọi hình thức phân biệt đối xử
đối với phụ nữ và các văn kiện khác có liên
quan về quyền con người mà hai nước
tham gia, nhằm khơi dậy sự cảm thông của
xã hội đối với nạn nhân bị buôn bán.
Buôn bán người ở Đông Nam Á được
xem là mối hiểm họa to lớn trong thời gian
gần đây [6, 32]. Văn phòng Liên hợp quốc
về ma túy và tội phạm (UNODC) ước tính
có khoảng 75% nạn nhân bị buôn bán ở
Đông Nam Á là phụ nữ và trẻ em [22,7].
Chính phủ hai nước Thái Lan và Việt Nam
lo ngại về sự lây lan của tội phạm buôn bán
người có thể cấu kết với các loại tội phạm
khác như buôn bán ma túy, vũ khí [3, 219].
Cho nên, hợp tác chống buôn bán người,
nhất là phụ nữ và trẻ em giữa hai nước
Thái Lan và Việt Nam ngày càng phối hợp
chặt chẽ nhằm ngăn chặn các hình thức
mua bán người; truyền thông cho cộng
đồng để phòng tránh các nguy cơ bị mua
bán; phối hợp trong việc xác minh, tiếp
nhận, cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho nạn nhân
và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng; trao đổi,
chia sẻ thông tin liên quan đến tình hình tội
phạm mua bán người tỉnh mình với các
tỉnh bạn nhằm hạn chế tình trạng mua bán
người xuyên quốc gia.
3. Một vài nhận xét
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các yếu
tố gây bất ổn ngày càng trở nên đa dạng,
khó lường, việc hợp tác giữa các quốc gia
trên cơ sở cùng mục tiêu an ninh trong khu
vực và trên toàn thế giới trở thành một nhu
cầu tất yếu. Vì thế, Thái Lan và Việt Nam
không ngừng nâng cao quan hệ trong lĩnh
vực an ninh phi truyền thống - đây là một
bộ phận cấu thành quan trọng trong tổng
thể quan hệ song phương của hai nước.
Trước sự biến động lớn của môi
trường địa chính trị và trật tự trong thế kỷ
XXI, mối quan hệ về an ninh phi truyền
thống đóng vai trò quan trọng trong việc ổn
định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội. Nghiên cứu về vấn đề an
ninh phi truyền thống trong quan hệ Việt
Nam và Thái Lan nổi cộm trên các mặt: ma
túy; tuần tra chung ở Vịnh Thái Lan; và
nạn buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và
trẻ em để thấy được sự quan tâm của Việt
Nam và Thái Lan trong việc tăng cường
hợp tác với các cơ quan an ninh, cảnh sát
của hai nước trong vấn đề an ninh phi
truyền thống, thiết lập hành lang pháp lý,
xây dựng các chương trình, kế hoạch và cơ
chế hợp tác phù hợp để cùng nhau phối
hợp hành động chung và đề ra những giải
pháp quan trọng nhằm đối phó với các vấn
HỢP TÁC VI T NAM VÀ THÁI LAN TRONG VI C GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
72
đề an ninh phi truyền thống hiện nay.
Những mối nguy từ các vấn đề an ninh
phi truyền thống trên đã có tác động to lớn
đến toàn bộ nền kinh tế, chính trị và văn
hóa xã hội của Việt Nam, Thái Lan nói
riêng và toàn bộ khu vực Đông Nam Á nói
chung. Trước những thách thức trên bản
thân nội tại các nước Đông Nam Á có
nhiều biện pháp để truy kích tận gốc tội
phạm buôn người, cướp biển, ma túy.
Đồng thời các chính phủ Đông Nam Á đã
có sự hợp tác chặt chẽ với các nước trong
và ngoài khu vực nhằm tìm kiếm những
giải pháp tối ưu để đối phó đưa ra chính
sách phòng ngừa.
Trước những thay đổi của bối cảnh
quốc tế, Việt Nam là quốc gia đang phát
triển, có vị trí địa lý đặc thù, nằm trên dải
khí hậu xích đạo nhiệt đới, nên chịu tác
động rất nặng nề từ an ninh phi truyền
thống, nhất là những mối hiểm họa từ thiên
tai, bão lụt, sự biến đổi khí hậu, nước biển
dâng cao, các loại dịch bệnh. Cùng với đó,
những vấn đề về buôn lậu, vận chuyển trái
phép vũ khí, ma túy, cướp biển, tội phạm
có tổ chức xuyên quốc gia, khủng bố, nhập
cư và di cư trái pháp luật, ô nhiễm môi
trường, đã và đang tác động mạnh mẽ
đến an ninh của Việt Nam. Đặc biệt, trong
bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu,
rộng, bên cạnh thời cơ, thuận lợi, chúng ta
cũng đang phải đối mặt với không ít thách
thức, trong đó có thách thức từ an ninh phi
truyền thống trên các lĩnh vực kinh tế, quốc
phòng - an ninh. Để giải quyết và ứng phó
hiệu quả với tác động của an ninh phi
truyền thống, bảo vệ an ninh quốc gia, Việt
Nam cần nhận thức rõ hơn và phải có sự
phối hợp chặt chẽ với các nước trong khu
vực vì đây là mối đe dọa mang tính thách
thức toàn cầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Quốc phòng (2004), Quốc phòng Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Thế
giới, Hà Nội, trang 11.
2. Chris Baker, Pasuk Phongpaichit (2002),
Thailand: Economic and Politics, Oxford
University Press.
3. Chris Beyrer (2001), Accelerating and
Disseminating Across Asia, The Washington
Quarterly, vol. 24, no. 1.
4. Chương trình hành động phòng, chống tội
phạm mua bán người giai đoạn 2011-2015 đã
được Thủ tướng Việt Nam phê duyệt ngày
18/8/2011 trong Quyết định số 1427/QĐ-TTg.
5. John Funston (2009), Divided Over Thaksin:
Thailand's Coup and Problematic Transition,
Institute of Southeast Asian Studies,
Singapore.
6. International Labour Organization (ILO), A
future without child labour (Geneva: ILO,
2002), p. 32.
7. Nguyễn Tương Lai (2001), Quan hệ Việt Nam
- Thái Lan trong những năm 90, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
8. Phạm Nguyên Long, Nguyễn Tương Lai
(1998), Lịch sử Thái Lan, Nxb hoa học Xã
hội, Hà Nội.
9. Chu Duy Ly, An ninh phi truyền thống, xem
thêm tại trang
ninh-phi-truyen-thong/.
10. Michael J. Montesano, Lee Poh Onn (2010),
Regional Outlook: Southeast Asia 2010 –
2011, ISEAS, Singapore.
11. Hoàng hắc Nam (2007), Quan hệ Việt Nam
- Thái Lan 1976-2000, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
12. Vũ Dương Ninh (1990), Vương quốc Thái
Lan: Lịch sử và hiện tại, Trường Đại học
Tổng hợp, Hà Nội.
13. Pavin Chachavalpongpun (2010), Reinventing
Thailand: Thaksin and His Foreign Policy,
Institute of Southeast Asian Studies,
Singapore.
HÀ LÊ HUYỀN
73
14. Phát biểu của Phó Tỉnh trưởng tỉnh
Mahasarakham: Ba giảm, ba tăng, ba tập
trung, ngày 7/11/2012, xem thêm tại trang:,
Văn phòng thông tin tỉnh Mahasarakham
Ba giảm: giảm người bán, giảm người nghiện,
giảm số thanh thiếu niên trong nhóm nguy cơ cao.
Ba tăng: tăng cường hoạt động của nhân viên
nhà nước; tăng vai trò các tổ chức xã hội; tăng
cường công tác cộng đồng.
Ba tập trung: tập trung khu vực Bangkok và
lân cận; tập trung vùng biên giới miền Nam;
tập trung vùng đã từng buôn bán ma túy.
15. Protocol to Prevent, Suppress and Punish
Trafficking in Persons Especially Women and
Children, supplementing the United Nations
Convention against Transnational Organized
Crime. Adopted and opened for signature,
ratification and accession by General
Assembly resolution 55/25 of 15 November
2000 (
16. Randle C.Zebioli (2009), Thailand:
Economic, Political and Social Issuess, Nova
Science Publishers, Inc, New York.
17. Ralf Emmers (2004), Globalization and Non-
Traditional Security Issues: A Study of
Human and Drug Trafficking in East Asia,
IDSS Working Papers, no. 62 , p.18.
18. Ralf Emmers, Mely Calballero-Anthoy and
Amitav Acharya (2006), Studying Non-
Traditional Security in Asia (Sigapore:
Marshall Cavendish), p.23.
19. Saurabh Chaudhuri: Difining no-traditional
security threats,
20. Tổng quan tình hình ma túy tiểu vùng sông
Mê Công và sự hợp tác phòng, chống ma túy
của Việt Nam, xem thêm:
tinhhinhmatuy-nd-7ffbef36.aspx, truy cập
ngày 4/5/2015.
21. Trịnh Diệu Thìn, Thanyathip Sripana (2006),
Việt kiều Thái Lan trong mối quan hệ Thái Lan
- Việt Nam, NXB hoa học Xã hội, Hà Nội.
22. United Nations Office on Drugs and Crime
(UNODC), Global Report on Trafficking in
Persons (New York: United Nations, 2012), p. 7.
Ngày nhận bài: 26/7/2017 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20/8/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 41_3056_2215093.pdf