Tài liệu Hội nhập kinh tế và những tác động tới thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam: Xó hội học, số 1(109), 2010
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
57
Hội nhập kinh tế và những tác động
tới thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam
Đặng Bích Thủy*
1. Đặt vấn đề
Hội nhập kinh tế là một quá trình phức tạp và có những tác động đa dạng đến
các nhóm xã hội, trong đó, trẻ em là nhóm nhạy cảm nhất bởi trẻ em dễ bị tổn thương,
bị phụ thuộc mọi mặt vào người lớn. Mặc dù vậy, những vấn đề của trẻ em thường
không được xem xét, cân nhắc đầy đủ trong quá trình xây dựng các chính sách và
chiến lược phát triển trong quá trình hội nhập. Điều này đang tạo ra những thách
thức đối việc đảm bảo thực hiện các quyền trẻ em ở các nước tham gia hội nhập, trong
đó có Việt Nam.
Nói theo Chaujar P. (2004), thế giới của người lớn thường khó nhận thức được
rằng trẻ em có thể bị ảnh hưởng từ nhiều khía cạnh bởi các quyết định và chính sách
vĩ mô ở cả tầm quốc gia và quốc tế. Trẻ em thường có xu hướng bị đặt ở “vị trí ngoài lề”
một cách “đặc biệt” bởi vì các em...
7 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 885 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hội nhập kinh tế và những tác động tới thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xó hội học, số 1(109), 2010
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
57
Hội nhập kinh tế và những tác động
tới thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam
Đặng Bích Thủy*
1. Đặt vấn đề
Hội nhập kinh tế là một quá trình phức tạp và có những tác động đa dạng đến
các nhóm xã hội, trong đó, trẻ em là nhóm nhạy cảm nhất bởi trẻ em dễ bị tổn thương,
bị phụ thuộc mọi mặt vào người lớn. Mặc dù vậy, những vấn đề của trẻ em thường
không được xem xét, cân nhắc đầy đủ trong quá trình xây dựng các chính sách và
chiến lược phát triển trong quá trình hội nhập. Điều này đang tạo ra những thách
thức đối việc đảm bảo thực hiện các quyền trẻ em ở các nước tham gia hội nhập, trong
đó có Việt Nam.
Nói theo Chaujar P. (2004), thế giới của người lớn thường khó nhận thức được
rằng trẻ em có thể bị ảnh hưởng từ nhiều khía cạnh bởi các quyết định và chính sách
vĩ mô ở cả tầm quốc gia và quốc tế. Trẻ em thường có xu hướng bị đặt ở “vị trí ngoài lề”
một cách “đặc biệt” bởi vì các em là “trẻ em”. Hay, theo như Devylder S. (2002:II):
“Người ta rất ít khi bàn chính sách kinh tế vĩ mô gắn liền với trẻ em. Hầu hết những
người hoạt động vì quyền trẻ em nhìn kinh tế học vĩ mô với sự bàng quan hoặc hoàn
toàn nghi kỵ, và mặc dù hầu hết các nhà kinh tế học đều có con cái, nhưng nghề
nghiệp chuyên môn của họ lại hầu như hoàn toàn mù “về trẻ em”. Thực tế này sẽ làm
nảy sinh những vấn đề, những mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và những vấn đề
của trẻ em nói chung và việc thực hiện quyền trẻ em nói riêng.
Việt Nam đang tham gia ngày càng sâu hơn vào quá trình hội nhập kinh tế toàn
cầu. Tăng trưởng kinh tế đã làm giảm đáng kể tỷ lệ dân số nghèo đói và góp phần cải
thiện nhiều mặt đời sống xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em được hưởng các
quyền được quy định trong Công ước Quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, quá trình
hội nhập kinh tế này cũng tạo ra nhiều thách thức trong việc đảm bảo thực hiện đầy
đủ các quyền của trẻ em, đặc biệt là sự gia tăng bất bình đẳng trong việc thực hiện
quyền của các nhóm trẻ em.
2. Tác động của hội nhập kinh tế tới thực hiện quyền trẻ em
Có rất nhiều tranh luận xung quanh những tác động của quá trình hội nhập
kinh tế, mà tâm điểm là vấn đề “cái được” và “cái mất” từ tăng trưởng kinh tế với các
vấn đề xã hội. Có quan điểm cho rằng mở cửa nền kinh tế dẫn tới một cuộc chạy đua
giảm thiểu chi phí xã hội khiến bất bình đẳng ngày càng gia tăng, trong khi một số
quan điểm khác lại cho rằng toàn cầu hóa kinh tế kích thích tăng trưởng và sáng tạo,
vì vậy góp phần vào sự phát triển, đẩy lùi đói nghèo và tiến tới giảm dần bất bình
đẳng. Tuy nhiên, xu hướng chung là các nhà phân tích đều khẳng định tính “hai mặt”
* ThS, Viện Gia đình và Giới.
Hội nhập kinh tế và những tỏc động
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
58
của vấn đề: hội nhập tạo ra những cơ hội và cả những thách thức (F. Sachwald. 2003).
Vì vậy, những tác động mang tính hai mặt này ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền
trẻ em, tức là vừa tạo ra những thuận lợi cho việc thực hiện quyền trẻ em, vừa gây ra
những yếu tố cản trở thực hiện quyền trẻ em.
2.1. Những cơ hội
Trong khi sự hội nhập kinh tế đã tạo ra các lo ngại về việc gia tăng bất bình
đẳng, các tệ nạn xã hội, nhưng có một điều không thể phủ nhận là hội nhập kinh tế
giúp tăng trưởng kinh tế nhanh hơn và là tác nhân mạnh mẽ đối với giảm nghèo đói
và tăng mức sống. Việt Nam được dẫn chứng như là một trong các ví dụ về tác động
của hội nhập kinh tế toàn cầu với gia tăng thu nhập bình quân đầu người và giảm
đáng kể tỷ lệ người nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm nhanh chóng ở Việt Nam: Từ 58,1% năm
1993 xuống 37,4% năm 1998, 28,9% năm 2002, 19,5% năm 2004, 16,0% năm 2006 và
ước tính chỉ còn khoảng 14,8% vào năm 2007, theo chuẩn nghèo mới, áp dụng cho giai
đoạn 2006 - 2010 (TCTK. Niên giám thống kê 2007).
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không chỉ góp phần làm giảm tỷ lệ nghèo mà
còn cung cấp nhiều nguồn lực hơn cho khu vực công giúp tăng cường phúc lợi xã hội.
Một phần đáng kể những nguồn lực này được hướng tới lĩnh vực giáo dục và góp phần
quan trọng vào việc đảm bảo quyền được học hành và phát triển của trẻ em Việt Nam
trong những năm qua. Chi tiêu ngân sách cho giáo dục ở Việt Nam đã tăng gấp 3 lần
trong giai đoạn 1991 - 2002. Tỷ trọng chi cho giáo dục trong ngân sách nhà nước tăng
từ 13 - 14% đầu những năm 1990 lên khoảng 17% năm 2002, và tiếp tục tăng lên
18,6% vào năm 2004. Tỷ lệ chi tiêu ngân sách cho giáo dục trên GDP thậm chí còn
tăng nhiều hơn do tỷ lệ chi ngân sách trên GDP đã tăng lên theo thời gian. Trong vài
năm gần đây, Việt Nam đầu tư trên 4% GDP vào giáo dục công cộng, tương đương với
nhiều nước có mức thu nhập và trình độ phát triển cao hơn (Ari Kokko và cộng sự.
2008).
Một ví dụ minh họa cho mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư ngân
sách cho việc thực hiện quyền trẻ em về đảm bảo quyền sống còn và chăm sóc sức khỏe
cho trẻ em ở Việt Nam là, nhà nước đã đầu tư hàng triệu đôla (Mỹ) cho hoạt động
khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi tại các cơ sở y tế công lập (được triển
khai từ năm 2005). Tính đến tháng 6/2006, đã có gần 8,5 triệu trẻ em được cấp phát
thẻ khám chữa bệnh miễn phí, đạt trên 96% tổng số trẻ em dưới 6 tuổi trên toàn quốc.
Nhiều trẻ em gia đình nghèo, khó khăn, trẻ em vùng núi phía bắc bị mắc các bệnh
hiểm nghèo như bệnh tim bẩm sinh, bệnh về máu, dị tật xương khớp v.v.. đã được điều
trị miễn phí và hưởng các dịch vụ y tế kỹ thuật cao không phải trả tiền. Bên cạnh đó,
việc chi ngân sách và sự quan tâm thực hiện các chương trình chương trình tiêm
chủng mở rộng cho trẻ em cũng đã góp phần quan trọng trong việc tăng cường đảm
bảo các quyền về sức khỏe của trẻ em (Xem CHXHCNVN. 2007)
ở cấp độ gia đình, nhờ các chính sách phát triển kinh tế do quá trình hội nhập
đem đến, các gia đình trở nên năng động hơn và mức sống của đại bộ phận gia đình
được tăng lên, nhờ đó là chi phí cho ăn uống, nâng cao sức khỏe cho các thành viên gia
Đặng Bớch Thủy 59
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
đình cũng tăng.
Đây là yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo thực hiện các quyền của trẻ em
thuộc nhóm quyền sống còn, quyền được chăm sóc sức khỏe và phòng chống suy dinh
dưỡng. Theo UBDSGĐTE (2006), tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em dưới 5 tuổi giảm
từ 42% (1991) còn 25,2% năm 2005. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em thể cân nặng/độ tuổi
của trẻ dưới 5 tuổi giảm gần một nửa, từ 44,8% năm 1993 xuống còn 26,6% năm 2004
(giảm trung bình hàng năm là 1,9%). Tỷ lệ suy dinh duỡng cân nặng/chiều cao chỉ còn
7,7% vào năm 2002 (giảm 41% trong khoảng thời gian từ năm 1993 - 2003). Theo báo
cáo của Viện Dinh dưỡng Việt Nam, năm 2007 tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
giảm xuống còn 21,2% tính theo cân nặng; 33,9% tính theo chiều cao; 7,1% tính theo
cân nặng và chiều cao (Báo cáo của Viện Dinh dưỡng tại Hội nghị quốc tế về dinh
dưỡng. Hà Nội. 2008).
Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi (IMR) và 5 tuổi (U5MR) - một chỉ báo quan trọng
để đánh giá tình hình thực hiện quyền sống còn của trẻ em, cũng giảm đáng kể qua các
năm: Tỷ lệ IMR giảm từ 44,2%o vào năm 1993 xuống còn 21%o vào năm 2003, và giảm
còn 17,8%o vào năm 2005. Tỷ lệ U5MR cũng giảm từ 55,4%o vào năm 1993 xuống còn
32,8%o vào năm 2003, và 25,5%o vào năm 2005 (UB DS - GĐ - TE. 2006).
Những số liệu trên cho thấy mối tương quan tích cực giữa tăng trưởng kinh tế và
các cơ hội cho việc thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em trong những năm qua. Nhiều
quyền cơ bản của trẻ em đã có những điều kiện thuận lợi để thực hiện và đạt được
những kết quả tốt hơn so với thời gian trước đây, khi Việt Nam chưa tham gia vào quá
trình hội nhập.
2.2. Các thách thức
Hội nhập kinh tế toàn cầu, một mặt đem đến các cơ hội cho việc thực hiện quyền
trẻ em, như đã đề cập, mặt khác, những thách thức từ quá trình này đối với thực hiện
quyền trẻ em là không nhỏ. Những thách thức xuất phát từ mối lo ngại về bất bình
đẳng xã hội, nghèo đói, thất nghiệp, di cư, vấn đề lao động trẻ em, tệ nạn xã hội
thường có liên quan với quá trình mở cửa hội nhập.
Gay gắt nhất là những rủi ro xuất phát từ sự nghèo đói và bất bình đẳng xã
hội - nguyên nhân dẫn đến sự thất học, suy dinh dưỡng, các rủi ro về sức khỏe,
HIV/AIDS. Mặc dù, nghèo đói không phải là vấn đề mới, nhưng toàn cầu hóa đã
làm tăng thêm khoảng cách khác biệt giữa trẻ em nghèo và trẻ em không nghèo.
Theo Edward (2003), tự do hóa thương mại và tư nhân hóa các dịch vụ đã làm giảm
phúc lợi xã hội cho người nghèo, thậm chí ở một số nước còn không có mạng lưới an
sinh xã hội. Điều này làm ảnh hưởng trầm trọng đến việc thực hiện các quyền trẻ
em (Xem Edward N. 2003. Children in Turmoil: a mordern predicament?
Các chính sách định hướng thị trường và thương mại hóa trong lĩnh vực giáo dục
và y tế ở Việt Nam đã cho thấy những thay đổi lớn trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Gánh nặng tài chính cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã chuyển từ nhà nước sang cho
Hội nhập kinh tế và những tỏc động
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
60
người sử dụng, với sự trợ cấp hạn chế của nhà nước. Uớc tính, khoảng 80% tổng chi phí
y tế được chi trả trực tiếp bởi người sử dụng, còn ngân sách nhà nước chỉ tài trợ dưới
15%. Phần còn lại được trang trải bởi các tài trợ nước ngoài và các chính sách bảo hiểm
khác (Số liệu của Bộ Y tế. 2002. Dẫn theo Ari Kokko và cộng sự. 2008). Sự xóa bỏ bao
cấp trong điều trị y tế sẽ đặt nhóm trẻ em nghèo vào vị trí rất bất lợi trong việc hưởng
các quyền sống còn và được đảm bảo chăm sóc sức khỏe khi bị ốm đau.
Mặc dù có sự cải thiện rõ rệt về tình trạng sức khỏe chung của người dân song cơ
hội có được sự chăm sóc sức khỏe tốt không đến một cách đồng đều với các nhóm cư
dân, đặc biệt là giữa khu vực thành thị và nông thôn. Do vậy, trong khi trẻ em ở nhóm
các gia đình khá giả và không nghèo được hưởng các quyền được chăm sóc sức khỏe,
thì nhóm trẻ em nghèo có nguy cơ không được hưởng các quyền này. Nhóm trẻ em đô
thị cũng có điều kiện thuận lợi hơn trong việc hưởng quyền này trẻ em nông thôn. Vào
giữa những năm 90, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh ở nhóm 1/5 dân số nghèo nhất cao
gấp đôi tỷ lệ này ở nhóm dân số giầu nhất (Số liệu Bộ Y tế. 2002). Kết quả điều tra
MICS 2006 cho thấy có sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ tử vong giữa các nhóm dân tộc và
giữa khu vực thành thị và nông thôn. Trẻ em dân tộc ít người đối mặt với nguy cơ chết
cao hơn nhiều so với trẻ em thuộc các hộ dân tộc Kinh: 27 phần nghìn so với 20 phần
nghìn đối với chết dưới 1 tuổi và 35 phần nghìn so với 25 phần nghìn đối với chết dưới
5 tuổi. Tương tự, vùng nông thôn có tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi và 5 tuổi cao hơn
nhiều so với thành thị: 24 phần nghìn so với 14 phần nghìn đối với IMR và 30 phần
nghìn so với 16 phần nghìn đối với U5MR (TCTK. 2008).
Các bất bình đẳng khác về cơ hội tiếp cận thực hiện quyền sống còn và được
chăm sóc sức khỏe cũng được thể hiện ở mức chênh lệch về tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em
giữa nhóm giầu và nhóm nghèo, ngay cả khi Nhà nước đã nỗ lực cải thiện tình hình
trong những năm gần đây. Theo kết quả điều tra Y tế quốc gia năm 2002, trẻ từ 0 - 3
tuổi trong nhóm nghèo bị SDD là 25,6% trong khi tỷ lệ này ở nhóm không nghèo chỉ là
11,8%; Trẻ em từ 4 - 6 tuổi trong nhóm nghèo bị SDD là 40,3% so với nhóm không
nghèo là 19,9% (gấp hơn 2 lần). Vùng Tây Nguyên, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi SDD cân
năng theo tuổi còn tới 34,5%, SDD chiều cao theo tuổi là 41,5%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5
tuổi bị thiếu máu dinh dưỡng là 34,15%. Chỉ có 29% trẻ nhỏ dưới 4 tháng tuổi được bú
sữa mẹ hoàn toàn (Viện Dinh dưỡng Quốc gia. 2004).
Các bất bình đẳng trong việc tiếp cận quyền giáo dục và phát triển cũng được thể
hiện ở thực tế ở Việt Nam. Theo số liệu thống kê, có sự khác biệt rõ ràng giữa tỷ lệ
nhập học của trẻ em thuộc nhóm gia đình nghèo và nhóm gia đình giầu, và càng lên
bậc học cao hơn, sự bất bình đẳng càng thể hiện sâu sắc hơn. Năm 1993, tỷ lệ nhập
học thực tế cấp tiểu học của trẻ em thuộc nhóm 1/5 dân số giầu nhất là 93% trong khi
tỷ lệ này ở nhóm 1/5 dân số nghèo nhất là 72%. Tỷ lệ tương đương của 2 nhóm ở bậc
trung học cơ sở là 55% so với 12%, trung học phổ thông là 21% so với 1%. Số liệu năm
2002 cho thấy những tiến bộ về tỷ lệ nhập học của trẻ em, nhưng sự bất bình đẳng vẫn
chưa được cải thiện nhiều: tỷ lệ nhập học tiểu học của trẻ em thuộc nhóm 1/5 dân số
giầu nhất là 95% trong khi tỷ lệ này ở nhóm 1/5 dân số nghèo nhất là 84%. Tỷ lệ tương
đương của 2 nhóm giầu nhất và nghèo nhất ở bậc trung học cơ sở là 86% so với 54%,
Đặng Bớch Thủy 61
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
trung học phổ thông là 67% so với 17% (Nguồn SRV.2005. Dẫn theo Ari Kokko và cộng
sự. 2008).
Mặt khác, học sinh từ các hộ gia đình khá giả nhận được sự dạy dỗ nhiều hơn
đáng kể dưới các hình thức học thêm và đầu tư giáo dục khác, nhờ đó nâng cao được
khả năng thi đỗ đại học. Trong khi cơ hội học lên đại học và cao đẳng của trẻ em nghèo
dường như là rất hiếm hoi do gánh nặng chi phí giáo dục và sự đầu tư hạn chế ở các
cấp học phổ thông. Như vậy, trẻ em ở nhóm gia đình nghèo bị thiệt thòi hơn rất nhiều
so với trẻ em thuộc nhóm giầu trong việc tiếp cận các quyền học tập và phát triển. Sự
thiệt thòi này sẽ còn ảnh hưởng đến tương lai của trẻ em thuộc nhóm nghèo về nghề
nghiệp, thu nhập, địa vị xã hội và hàng loạt các vấn đề do vòng luẩn quẩn của đói
nghèo gây nên.
Những thách thức liên quan đến việc thực hiện quyền trẻ em trong bối cảnh hội
nhập kinh tế cũng có thể nhìn thấy từ một số vấn đề nảy sinh từ các chính sách tự do
hóa kinh tế. Các chính sách cải cách về kinh tế, ví dụ như các chính sách kinh tế vĩ mô
liên quan đến tự do hóa thương mại, các cơ hội việc làm, thu nhập trong nền kinh tế
thị trường v.v.. có thể ảnh hưởng đến các quyền của trẻ em. Các cơ hội việc làm và thu
nhập trong một nền kinh tế mở có thể gây nên những thay đổi trong phương kế sinh
nhai và việc sử dụng các nguồn lao động trong gia đình. Theo đó, trẻ em cũng tham
gia vào lực lượng lao động và điều này có thể ảnh hưởng đến các quyền học tập, vui
chơi giải trí và các phúc lợi của trẻ em.
Trẻ em lang thang cũng xuất hiện và đã có những giai đoạn tăng nhiều trong
những năm đầu của của quá trình cải cách kinh tế (Bộ LĐ - TB - XH. 2002; Dương Kim
Hồng và cộng sự. 2007). Hội nhập kinh tế và những rủi ro của quá trình này như thất
nghiệp, nghèo đói còn đẩy một bộ phận trẻ em ra đường phố bị dụ dỗ, lừa gạt làm nghề
mại dâm. Điều này vi phạm nghiêm trọng quyền được bảo vệ của trẻ em.
Khi các nước mới toàn cầu hóa thâm nhập vào thị trường thế giới, tốc độ công
nghiệp hóa và đô thị hóa sẽ tăng cao. Người dân tận dụng cư hội để di cư ra khỏi nông
thôn thu nhập thấp để đến với các công việc có thu nhập cao hơn tại các thị trấn và
thành phố (Xem Ngân hàng thế giới. 2002). Điều này cũng sẽ xảy ra ở Việt Nam và có
những ảnh hưởng nhất định tới việc thực hiện quyền “không bị cách ly khỏi gia đình”
trong hệ thống quyền trẻ em, và một số quyền khác. Ví dụ như những ảnh hưởng từ
việc thiếu vắng cha mẹ của những trẻ em có cha mẹ đi làm ăn xa, và việc sống xa gia
đình của lao động di cư trẻ em tại các đô thị.
Nhu cầu phát triển kinh tế của các gia đình không chỉ kéo theo việc trẻ em phải
tham gia lao động sớm và đối mặt với các điều kiện lao động bất lợi, mà sự đòi hỏi cao
về thời gian và tập trung công việc trong nền kinh tế mang tính cạnh tranh sẽ đẩy các
gia đình tới những nguy cơ phải giảm thời gian chăm sóc con cái. Mặt khác, sự phổ
biến văn hóa hiện đại cùng với sự phát triển tính tự do cá nhân trong lối sống hiện đại
đã đưa số các vụ ly dị tăng lên, làm cho sự ổn định của gia đình ngày càng giảm sút là
nguyên nhân đẩy trẻ em vào các hoàn cảnh đặc biệt và các hoạt động phạm pháp. Đây
cũng chính là những thách thức đối với việc đảm bảo thực hiện các quyền liên quan
Hội nhập kinh tế và những tỏc động
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
62
đến chăm sóc và bảo vệ trẻ em.
Cũng liên quan đến yếu tố văn hóa, những ảnh hưởng của văn hóa phẩm khiêu
dâm được du nhập vào Việt Nam trong những năm mở cửa và hội nhập cũng là một
trong các nguyên nhân làm gia tăng tình trạng xâm hại tình dục trẻ em - một hình
thức vi phạm quyền trẻ em trầm trọng nhất, để lại nhiều hậu quả nặng nề và lâu dài
cho trẻ em. Báo cáo năm 2009 của Cục Phòng chống Tệ nạn Xã hội cho biết, theo số
liệu thống kê báo cáo của các tỉnh, thành phố, trong năm 2008 đã phát hiện trên 1.300
trẻ em bị xâm hại tình dục, phần lớn các em còn đang đi học, chủ yếu ở độ tuổi từ 13
đến dưới 16 (52%), tiếp đó là nhóm từ 6 đến dưới 13 tuổi (chiếm 40%), dưới 6 tuổi là
8% (Cục Phòng chống Tệ nạn Xã hội.2009). Cũng theo nguồn báo cáo này thì so với
năm 2007, tình hình xâm hại tình dục trẻ em năm 2008 vẫn có xu hướng gia tăng và
diễn ra ở hầu khắp các địa phương.
3. Những thách thức trong thời gian tới
Trên đây là một phần của bức tranh về những tác động của hội nhập kinh tế đến
việc thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam trong những năm qua. Trong bối cảnh nền
kinh tế toàn cầu đang phải đối mặt với cuộc đại khủng hoảng kinh tế như hiện nay,
những ảnh hưởng mang tính dây chuyền giữa các nền kinh tế đang ngày càng đậm
nét. Kinh tế Việt Nam cũng đang đứng trước các nguy cơ phải đối mặt với những ảnh
hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế này. Điều đó đồng nghĩa với việc Việt
Nam phải đối mặt nhiều hơn với các rủi ro do nền kinh tế hội nhập đem đến. Những
thách thức đối với việc thực hiện quyền trẻ em sẽ sâu sắc hơn, khi mà số các công ty
phá sản có thể sẽ gia tăng, nạn thất nghiệp và nghèo đói có thể sẽ trở nên trầm trọng
hơn, tình trạng lạm phát ở mức cao ảnh hưởng lớn đến chi tiêu của gia đình cho các
nhu cầu tối thiểu, và các vấn đề bất bình đẳng xã hội cũng có thể được dự đoán là gia
tăng trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế này.
Đối tượng dễ bị tổn thương là trẻ em cũng có nhiều khả năng phải gánh chịu
những tác động tiêu cực này một cách trầm trọng hơn, các quyền của trẻ em có thể
chịu nhiều thách thức hơn trong quá trình thực hiện. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần
chú trọng hơn nữa trong việc thực hiện Chiến lược chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Các nhu
cầu thiết yếu của trẻ em cần phải được ưu tiên xem xét, cân đối, nhằm đối phó với
những thách thức mới bên cạnh việc xây dựng và thực hiện các quyết sách về kinh tế.
Việc bổ sung các chính sách bảo trợ xã hội liên quan đến công tác chăm sóc và bảo vệ
trẻ em có lẽ là điều cần quan tâm thực hiện trong điều kiện trẻ em có nhiều nguy cơ bị
rủi ro như hiện nay.
Bên cạnh những giải pháp mang tính cấp bách để đối phó với những thách thức
mới, Việt Nam có thể sẽ cần tiếp tục xử lý mâu thuẫn giữa phát triển nền kinh tế thị
trường và việc đảm bảo công bằng xã hội giữa các vùng miền và các nhóm cư dân, trong
đó có các nhóm trẻ em thuộc các nhóm mức sống khác nhau, cả ở nông thôn và thành thị,
miền núi và đồng bằng nhằm đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản cho mọi trẻ em./.
Tài liệu tham khảo:
Đặng Bớch Thủy 63
Bản quyền thuộc viện Xó hội học www.ios.org.vn
1. Ari Kokko và cộng sự. Nhà nước phúc lợi. Trong cuốn Việt Nam 20 năm Đổi mới. Viện
KHXH VN. Nxb Thế giới. 2008
2. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội – UNICEF. Vấn đề phụ nữ và trẻ em thời kỳ 2001
- 2010. NXB Lao động - xã hội. Hà Nội. 2002.
3. Chaujar P. Globalization. 2004. Will our Children Pay the Prices? Child Relief and
You at the World Social Forum, Mumbai. India. January 18, 2004.
4. Devylder Stefan. Chính sách kinh tế vĩ mô và quyền trẻ em. Save the children Sweden. 2002.
5. Dương Kim Hồng và Kenichi Ohmo. Trẻ đường phố Việt Nam. Trong cuốn: Các vấn đề
xã hội trong quá trình chuyển đổi và hội nhập kinh tế ở Việt Nam. Tập 1. Diễn đàn phát
triển Việt Nam (VDF). Giang Thanh Long, Dương Kim Hồng cb. Hà Nội. 2007)
6. Edward N.2003. Children in Turmoil: a modern predicament?. Paper presented at the
WorldLink Fifth Regional Youth Town Meeting on Global Affairs Conference.
University of San Diego. 2003.
7. Hitchcock R. 2002. The challenge of change: globalization, child labor, and children's rights.
8. Edward N.2003. Children in Turmoil: a modern predicament?. Paper presented at the
WorldLink Fifth Regional Youth Town Meeting on Global Affairs Conference.
University of San Diego. 2003.
9. Nicola. J at all. 2007. Trade liberalization and intra-household poverty in Vietnam: a
q2 social impact analysis. MPRA Paper. No. 4206, posted 07. November 2007. Có thể
xem trên trang web:
10. Nước CHXHCNVN. Báo cáo Quốc gia định kỳ lần thứ ba và bốn - Việt Nam thực hiện
công ước quốc tế về quyền trẻ em giai đoạn 2002 - 2007. HN. 2007
11. References of Workshop No2- Globalization, liberalization and child labour. ILO.
2008.
12. UBCS và BVTE. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong thời kỳ mới - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn. Trần Thị Thanh Thanh (cb). HN. 2002.
13. Vig George. Globalization, Rick and Social Proplems. Page 9- 28. In Global proplems.
Edited by Vic George and Robert M.Page. Polity Press ltd. UK. 2004.
14. Nhóm các nhà tài trợ. Báo cáo phát triển Việt Nam 2006. Vươn đến tầm cao mới.
UNDP 2007.
15. TCTK. Chuyên đề phân tích. 20 năm Đổi mới và phát triển. 2005
16. TCTK. 2006. Niên giám thống kê 2005.
17. TCTK. 2008. Niên giám thống kê 2007.
18. TCTK. Unicef. 2007. Điều tra đánh gi ácác mục tiêu trẻ em và phụ nữ 2006 (MICS 2006).
19. Uỷ ban dân số, gia đình trẻ em. Báo cáo đánh giá 5 năm (2001 - 2005) thực hiện
chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001 - 2010. Hà Nội 12/2006).
20. UNICEF State of the World’s Children 2005 "Childhood Under Threat" .UNICEF 2004
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_1_2010_dangbichthuy_8635.pdf