Tài liệu Học sinh Trung học Cơ sở bị bắt nạt: Tỉ lệ và yếu tố liên quan: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 142
HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ BỊ BẮT NẠT:
TỈ LỆ VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Lê Huỳnh Như*, Trần Quang Trọng**, Phạm Phương Thảo***, Lê Minh Thuận***
TÓM TẮT
Mở đầu: Bắt nạt học sinh là hành vi cố ý gây hại có tính chất lặp đi lặp lại của một hay nhiều học sinh
đối với học sinh khác, có thể gây ra tổn thương về mặt thể chất, tinh thần, xã hội, thậm chí là tử vong. Và đã
trở thành một vấn đề y tế công cộng đáng quan tâm ở Việt Nam.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ học sinh bị bắt nạt và các yếu tố liên quan.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tại một thời điểm được thực hiện trên 248 học sinh
trung học cơ sở tại tỉnh Phú Yên. Học sinh trả lời bộ câu hỏi tự điền sau khi đồng ý tham gia nghiên cứu.
Học sinh bị bắt nạt được đánh giá qua thang đo FBS-V gồm 10 câu, học sinh được xem là bị bắt nạt khi trả
lời có xảy ra ít nhất một hình thức bị bắt nạt với tần suất thườn...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 511 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Học sinh Trung học Cơ sở bị bắt nạt: Tỉ lệ và yếu tố liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 142
HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ BỊ BẮT NẠT:
TỈ LỆ VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Lê Huỳnh Như*, Trần Quang Trọng**, Phạm Phương Thảo***, Lê Minh Thuận***
TÓM TẮT
Mở đầu: Bắt nạt học sinh là hành vi cố ý gây hại có tính chất lặp đi lặp lại của một hay nhiều học sinh
đối với học sinh khác, có thể gây ra tổn thương về mặt thể chất, tinh thần, xã hội, thậm chí là tử vong. Và đã
trở thành một vấn đề y tế công cộng đáng quan tâm ở Việt Nam.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ học sinh bị bắt nạt và các yếu tố liên quan.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tại một thời điểm được thực hiện trên 248 học sinh
trung học cơ sở tại tỉnh Phú Yên. Học sinh trả lời bộ câu hỏi tự điền sau khi đồng ý tham gia nghiên cứu.
Học sinh bị bắt nạt được đánh giá qua thang đo FBS-V gồm 10 câu, học sinh được xem là bị bắt nạt khi trả
lời có xảy ra ít nhất một hình thức bị bắt nạt với tần suất thường xuyên (cứ vài tuần 1 lần hoặc nhiều hơn).
Phương pháp Bayesian Model Average được dùng để xác định các yếu tố tiên lượng.
Kết quả: Tỉ lệ học sinh bị bắt nạt là 37,9% (KTC 95%: 31,8% đến 44,3%). Yếu tố liên quan đến học
sinh bị bắt nạt là học lực, hạnh kiểm, khối lớp, kinh tế gia đình, tình trạng đánh nhau/cãi nhau và xảy ra các
tệ nạn xã hội tại khu vực sống, có chứng kiến bắt nạt trong trường học và mối quan hệ không tốt với giáo
viên. Phân tích mô hình tiên lượng theo phương pháp Bayesian Model Average với các yếu tố học lực, kinh
tế gia đình và tình trạng đánh nhau hoặc cãi nhau tại khu vực sống, xác suất xuất hiện mô hình là 18,9 %.
Kết luận: Học sinh bị bắt nạt liên quan đến các yếu tố cá nhân, trường học, môi trường sống, và gia
đình.
Từ khóa: Học sinh bị bắt nạt, trung học cơ sở, bắt nạt, trường học, yếu tố liên quan
ABSTRACT
MIDDLE SCHOOL STUDENTS ARE BULLIED: RATE AND RELATED FACTORS
Le Huynh Nhu, Tran Quang Trong, Pham Phuong Thao, Le Minh Thuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1 - 2018: 142 - 149
Background: Bullying is a repetitive, intentional repetitive act of one or more students to another
student, which can cause physical, mental and social harm, even dead. And it has become a public health
concern in Vietnam.
Objective: To estimate prevalence of bullying and to identify related factors of bullying students.
Methods: A cross-sectional study was conducted in 248 middle school students in Phu Yen province.
Students completed a self-report questionnaire after they agreed to participate in the study. Bullying is
assessed on a 10-point FBS-V scale, which is considered bullied when respondents report at least one form of
bullying at regular intervals (one time for every few weeks or more). The Bayesian Model Average method is
used to determine the prognostic factors.
Results: The prevalence of bullying was 37.9% (95% CI: 31.8% to 44.3%). The factors that are
involved in bullying include academic strength, behavior, grade, family economics, fighting / quarreling and
the occurrence of social evils in the living area, witnessed bullying in school and bad relationship with the
*CN Y tế công cộng 2013-2017, Đại học Y Dược TP.HCM, **Khoa Tâm lý lâm sàng, BV Quận 2 TP.HCM,
***Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: CN Lê Huỳnh Như ĐT: 0977780845 Email: lehuynhnhu12995@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 143
teacher. Analyzing the Bayesian Model Average prognosis model with learning factors, family economics
and fights or quarrels in the living area, the model probability is 18.9%.
Conclusions: Bullying is related to individual, living, school and family factors.
Keywords: Bullying students, middle school, bullying, school, related factor
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bắt nạt học sinh là hành vi cố ý gây hại có
tính chất lặp đi lặp lại của một hay nhiều học
sinh đối với học sinh khác, liên quan đến sự
mất cân bằng quyền lực, xảy ra tại trường học.
Một học sinh có thể là người có hành vi bắt
nạt, là nạn nhân của bắt nạt hoặc cả hai(2, 7, 14).
Bắt nạt học sinh là một dạng của bạo lực học
đường, có thể gây ra tổn thương về mặt thể
chất, tinh thần và xã hội, thậm chí là tử vong.
Và đã trở thành một vấn đề y tế công cộng
được quan tâm trên toàn cầu(12).
Trên thế giới, mỗi năm có 6 triệu trẻ trai và
4 triệu trẻ gái có liên quan trực tiếp đến bạo
lực học đường(8,13), trên 3,2 triệu học sinh là
nạn nhân của bắt nạt mỗi năm. Tại Hoa Kỳ, có
khoảng 28% học sinh từ 12 – 18 tuổi bị bắt nạt
tại trường học, trong đó 18% học sinh bị xúc
phạm, trêu chọc, 18% là nạn nhân của những
tin đồn, 5% bị đe dọa và 3% học sinh bị bắt
làm những điều mà họ không muốn(3). Trong
số 33 quốc gia, một số nước có xu hướng giảm
về tỉ lệ bị bắt nạt và có hành vi bắt nạt người
khác như Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha, Anh và Na-uy. Bên cạnh đó, một số nước
như Pháp, Bỉ, Hà Lan có tỉ lệ bị bắt nạt vẫn gia
tăng ở cả hai giới(4). Theo báo cáo của tổ chức
Plan International (PI), khảo sát trên 5 quốc
gia châu Á cho thấy học sinh 12 đến 17 tuổi bị
bắt nạt trong 6 tháng qua dao động trong
khoảng 28% đến 75% với các hình thức bắt nạt
thể chất, bắt nạt tinh thần và lạm dụng tình
dục, trong đó, tỉ lệ bị bắt nạt ở Việt Nam là
71%(10).
Tại Việt Nam, trong thời gian gần đây học
sinh bị bắt nạt như hăm dọa, đánh đập được
chia sẻ phổ biến trên các trang mạng xã
hội(3,12). Hành vi bắt nạt trong độ tuổi đi học
liên quan đến các vấn đề như thành tích học
tập kém, hút thuốc lá và xu hướng lạm dụng
rượu tăng, khả năng kiểm soát cảm xúc kém,
có nguy cơ tự tử tiềm ẩn(1).
Câu hỏi nghiên cứu: Tỉ lệ học sinh bị bắt
nạt học sinh tại trường là bao nhiêu? Có mối
liên quan giữa học sinh bị bắt nạt với các yếu
tố (1) đặc điểm cá nhân (hạnh kiểm, học lực, giới
tính và khối lớp của học sinh), (2) gia đình (nghề
nghiệp, học vấn, tình trạng hôn nhân của cha
mẹ, kinh tế gia đình, học sinh sống chung với ai,
mức độ quan tâm của gia đình, mức độ học sinh
chứng kiến bạo hành gia đình và mức độ bị
người thân la mắng, đánh đập), (3) môi trường
sống (mức độ đánh nhau, cãi nhau tại nơi sinh
sống và tệ nạn xã hội), và (4) nhà trường (mối
quan hệ với giáo viên, học sinh sống cô lập và
chứng kiến bắt nạt tại trường học) hay không?
PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế và đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả tại
một thời điểm trong thời gian 4-5/2017 trên
tổng số 254 học sinh đang theo học ở 4 khối
lớp 6, 7, 8, 9 tại một trường trung học cơ sở tại
tỉnh Phú Yên. Sử dụng phương pháp lấy mẫu
cụm, đơn vị cụm là lớp. Có 9 lớp được chọn
bằng phương pháp bốc thăm ngẫu nhiên. Lấy
toàn bộ số học sinh đang theo học tại các lớp
đã chọn.
Tiêu chí chọn vào
Những học sinh đang theo học tại các lớp
được chọn đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại ra
Học sinh trả lời không đầy đủ các câu hỏi
về bắt nạt hoặc trả lời không quá 2/3 tổng số
câu hỏi về các yếu tố liên quan.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 144
Phương pháp thu thập số liệu
Sau khi được cung cấp thông tin về nghiên
cứu và đồng ý tham gia vào nghiên cứu thì
học sinh trả lời bộ câu hỏi tự điền trong
khoảng 20 phút. Nghiên cứu viên có mặt để
giải đáp các thắc mắc nếu có của học sinh.
Công cụ thu thập
Bộ câu hỏi gồm (1) thông tin cá nhân (2)
đặc điểm gia đình và môi trường sống (3) đặc
điểm nhà trường. Thang đo FBS-V đánh giá
nạn nhân của bắt nạt (10 câu). Các mục trong
thang đo các hình thức bắt nạt FBS được dựa
trên phiên bản sửa đổi của OBVQ (Olweus,
1996) và PRQ (Rigby, 1998), các hạng mục đã
được sửa đổi để phù hợp với học sinh trung
học, các mục hiện có được tách ra hoặc bổ
sung thêm để đánh giá các hình thức bắt nạt
khác nhau một cách chi tiết hơn(11).
Kiểm soát sai lệch thông tin
Thiết kế bộ câu hỏi đúng mục tiêu, từ ngữ
rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu. Thực hiện nghiên
cứu thử. Nghiên cứu viên giải thích rõ ràng về
mục tiêu nghiên cứu, nhấn mạnh tính khuyết
danh và mục đích sử dụng số liệu cho học
sinh. Giải đáp thắc mắc cho học sinh trong quá
trình thu thập số liệu.
Kiểm soát sai lệch hồi tưởng
In đậm mốc thời gian trong bộ câu hỏi để
học sinh tập trung chú ý nhớ lại và dễ hình
dung.
Phân tích toán thống kê
Số liệu sau khi thu thập sẽ được kiểm tra
loại bỏ các bộ câu hỏi chưa hoàn chỉnh. Dữ
liệu được mã hóa và nhập liệu bằng phần
mềm Epidata 3.1. Phân tích dữ liệu bằng phần
mềm R 3.4.0. Tần số và tỉ lệ phần trăm được
dùng để mô tả các biến số định tính. Biến số
kết cuộc (bị bắt nạt) được mô tả bằng tần số, tỉ
lệ phần trăm và khoảng tin cậy 95% của một tỉ
lệ. Các kiểm định Chi bình phương, kiểm định
chính xác Fisher‘s được dùng khi phù hợp.
Lượng giá độ lớn mối liên quan bằng tỉ số tỉ lệ
hiện mắc PR với khoảng tin cậy (KTC) 95%.
Xây dựng mô hình tiên lượng bằng phương
pháp BMA (Bayesian Model Average).
Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành thông qua sự
chấp thuận của Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí
Minh. Các thông tin của học sinh tham gia
nghiên cứu hoàn toàn được bảo mật, chỉ sử
dụng cho mục đích nghiên cứu. Học sinh
tham gia nghiên cứu được giải thích rõ ràng
về mục đích của nghiên cứu và có quyền từ
chối tham gia. Khảo sát được tiến hành sau khi
nhận được sự đồng ý của học sinh. Trong quá
trình khảo sát, học sinh có quyền không trả lời
bất cứ câu hỏi nào mà không muốn trả lời,
cũng như có quyền dừng cuộc khảo sát bất cứ
lúc nào.
KẾT QUẢ
Đặc tính chung
Nghiên cứu, có 141 học sinh nữ (56,8%) và
107 học sinh nam (43,2%). Các học sinh khối
lớp 8 có tỉ lệ cao nhất với 35,4%. Đa số học
sinh có học lực khá và trung bình (38,7% và
33,5%). Học sinh có hạnh kiểm tốt với tỉ lệ cao
nhất là 69,4 %. Phần lớn học sinh có cha, mẹ có
trình độ học vấn trung học cơ sở (49,4% và
41,1%). Nghề nghiệp chủ yếu của cha, mẹ học
sinh là làm ruộng/ làm rẫy (77,8% và 79,8%).
Hầu hết cha mẹ học sinh đang sống chung với
nhau (94,4%). Học sinh sống chung với cả cha
và mẹ là chủ yếu (89,5%). Đa số gia đình học
sinh có tình trạng kinh tế từ trung bình khá trở
lên (46,5%). Phần lớn học sinh nhận được sự
quan tâm từ gia đình, trong đó 64,5% cho là
rất quan tâm và 31,1% là quan tâm, có 0,8%
cho rằng không được gia đình quan tâm.
Trong 12 tháng qua, đa số học sinh không
chứng kiến bạo lực gia đình (60,1%), nhưng có
tới 51,6% học sinh trả lời đã bị người thân la
mắng đánh đập, trong đó 6,8% học sinh bị la
mắng, đánh đập với mức độ thường xuyên.
Hơn 50% học sinh sống trong khu vực có xảy
ra đánh nhau hoặc cãi nhau, với mức độ thỉnh
thoảng là 43,1% và thường xuyên là 8,9%. Khu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 145
vực sinh sống của học sinh hiếm khi xảy ra các
tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, cướp giật
(71,4%), tuy nhiên vẫn có 5,2% khu vực
thường xuyên xảy ra tệ nạn xã hội.
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, có
52% học sinh nhận định có mối quan hệ tốt với
thầy cô. Hầu hết học sinh sống hòa đồng với
bạn bè ở trường, có 2,4% học sinh sống cô lập
một mình và không nhận được sự giúp đỡ từ
bạn bè. Phần lớn học sinh có chứng kiến bắt
nạt học đường (68,6%), trong đó có 23,8% học
sinh chứng kiến với mức độ thường xuyên.
Tỉ lệ học sinh bị bắt nạt
Tỉ lệ học sinh bị bắt nạt là 37,9% dao động
trong khoảng tin cậy 95% từ 31,8% đến 44,3%.
Trong nghiên cứu này, hình thức học sinh bị
bắt nạt nhiều nhất là gọi tên làm khó chịu và
trêu chọc với tỉ lệ lần lượt là 54,3% và 36,2%.
Tỉ lệ học sinh bị tổn thương thân thể là thấp
nhất (13,8%).
Các yếu tố liên quan
Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa bị bắt nạt với giới tính của học
sinh (p = 0,14). Những học sinh từ khối lớp 7
đến khối lớp 9 có tỉ lệ bị bắt nạt cao hơn so với
học sinh lớp 6 (p = 0,03). Học sinh có học lực từ
khá trở xuống có tỉ lệ bị bắt nạt cao hơn so với
học sinh có học lực giỏi (p < 0,01). Học sinh có
hạnh kiểm từ khá trở xuống có tỉ lệ bị bắt nạt
cao hơn so với học sinh có hạnh kiểm tốt (p =
0,02) (Bảng 1).
Bảng 1. Liên quan giữa học sinh bị bắt nạt với đặc
điểm cá nhân
Đặc tính Học sinh bị bắt
nạt n (%)
Giá trị
p
PR
(KTC 95%)
Giới
Nữ 35 (32,7) 1
Nam 59 (41,8) 0,14 1,28 (0,92-1,79)
Khối lớp
Lớp 6 14 (27,5)
0,03*
1
Lớp 7 18 (29,5) 1,25 (1,06-1,47)
Lớp 8 38 (43,2) 1,57 (1,13-2,17)
Lớp 9 24 (50,0) 1,96 (1,21-3,19)
Học lực của của học sinh
Giỏi 14 (25,5)
<0,01*
1
TB-Khá 70 (39,1) 1,66 (1,21-2,27)
Yếu-kém 10 (71,4) 2,74 (1,46-5,14)
Đặc tính Học sinh bị bắt
nạt n (%)
Giá trị
p
PR
(KTC 95%)
Hạnh kiểm của học sinh
Tốt 59 (34,3)
0,02*
1
Khá 26 (40,6) 1,36 (1,09-1,70)
Trung bình–
yếu
9 (75,0) 1,86 (1,19-2,89)
Ghi chú: PR= tỉ số tỉ lệ hiện mắc; KTC 95% = khoảng tin
cậy 95%, n = số học sinh,
*Kiểm định chi bình phương khuynh hướng.
Không có mối liên quan có ý nghĩa thống
kê giữa bị bắt nạt ở học sinh với tình trạng hôn
nhân của cha mẹ, học sinh sống chung với ai,
sự quan tâm của gia đình, học sinh chứng kiến
bạo hành gia đình và học sinh bị người thân la
mắng, đánh đập (p > 0,05). Học sinh có kinh tế
gia đình từ trung bình khá trở lên có tỉ lệ bị
bắt nạt cao hơn 1,43 lần so với học sinh nghèo/
cận nghèo với khoảng tin cậy 95% từ 1,04 đến
1,97.
Bảng 2 cho thấy học sinh sống trong khu
vực không có đánh nhau hoặc cãi nhau có tỉ lệ
bị bắt nạt thấp hơn 44% so với những học sinh
sống trong khu vực có xảy ra đánh nhau hoặc
cãi nhau (p < 0,01). Tương tự, không có các tệ
nạn xã hội như bài bạc, trộm cắp, cướp giật có
tỉ lệ bị bắt nạt thấp hơn 32% so với học sinh
sống trong khu vực có xảy ra tệ nạn xã hội (p =
0,02).
Bảng 2. Mối liên quan với đặc điểm môi trường
sống
Đặc tính Học sinh bị
bắt nạt
n (%)
Giá trị p PR
(KTC 95%)
Đánh nhau, cãi nhau tại khu vực sinh sống ( 12 tháng
qua)
Có 62 (48,1) 1
Không 32 (26,9) <0,01 0,56 (0,40-0,79)
Tệ nạn xã hội: cờ bạc, trộm cắp, cướp giật (12 tháng
qua)
Có 35 (49,3) 1
Không 59 (33,3) 0,02 0,68 (0,49-0,93)
Ghi chú: PR= tỉ số tỉ lệ hiện mắc; KTC 95% = khoảng tin
cậy 95%, n = số học sinh
Học sinh không chứng kiến bắt nạt học
đường có tỉ lệ bị bắt nạt thấp hơn 23% so với
học sinh có chứng kiến bắt nạt học đường (p =
0,03) (Bảng 3).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 146
Bảng 3. Mối liên quan với đặc điểm nhà trường
Đặc tính Học sinh bị bắt
nạt n (%)
Giá trị
p
PR
(KTC 95%)
Học sinh chứng kiến bắt nạt học đường
Có 72 (42,4) 1
Không 22 (28,2) 0,03 0,67
(0,45-0,99)
Học sinh sống cô lập
Có 3 (50,0) 1
Không 91 (37,6) 0,68** 0,75
(0,33-1,70)
Mối quan hệ với giáo viên
Tốt 44 (34,1) 1
Không tốt 50 (42,0) 0,2 1,23
(0,89-1,70)
Ghi chú: PR= tỉ số tỉ lệ hiện mắc; KTC 95% = khoảng tin
cậy 95%, n = số học sinh
**Kiếm định chính xác Fisher’s
Phân tích theo mô hình BMA, chúng tôi
ghi nhận có 5 mô hình tiên lượng tốt nhất trên
42 mô hình khả dĩ. Trong đó, mô hình 1 có xác
suất xuất hiện cao nhất với 18,9%, gồm 3 yếu
tố tiên lượng là học lực của học sinh, kinh tế
gia đình và đánh nhau hoặc cãi nhau tại khu
vực sống.
Biểu đồ 1. Tiên lượng học sinh bị bắt nạt theo mô hình BMA (Bayesian Model Average)
Kết quả nghiên cứu một lần nữa cho thấy
có 3 yếu tố liên quan với bị bắt nạt ở học sinh
là học lực của học sinh, kinh tế gia đình và
đánh nhau hoặc cãi nhau tại khu vực sống.
Với học lực, những học sinh từ trung bình khá
trở xuống có tỉ lệ bị bắt nạt cao hơn so với học
sinh có học lực giỏi. Học sinh có kinh tế gia
đình từ trung bình khá trở lên có tỉ lệ bị bắt
nạt cao hơn 51% so với các học sinh nghèo/cận
nghèo. Những học sinh sống tại khu vực có
đánh nhau hoặc cãi nhau có tỉ lệ bị bắt nạt cao
hơn 75% so với học sinh sống trong khu vực
không xảy ra tình trạng này (Bảng 4).
Bảng 4. Mối liên quan đa biến giữa học sinh bị bắt
nạt với các yếu tố (n =248)
Đặc điểm Đơn vị so sánh PR (KTC 95%) Giá trị p
Học lực của của học sinh
Giỏi 1
TB-Khá 1,66 (1,24–2,22)
Yếu-kém 2,76 (1,54– 4,93) 0,001
Kinh tế gia đình
Nghèo/cận nghèo 1
TB – khá trở lên 1,51 (1,11 –
2,05)
0,008
Đánh nhau hoặc cãi nhau tại khu vực sinh
sống
Không 1 0,001
Có 1,75 (1,25 –
2,45)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 147
BÀN LUẬN
Tỉ lệ học sinh bị bắt nạt
So sánh tỉ lệ học sinh bị bắt nạt trong bảy
nghiên cứu khác bằng phương pháp phân tích
gộp, chúng tôi ghi nhận tỉ lệ trung bình học
sinh bị bắt nạt là 49%, dao động trong khoảng
tin cậy 95% từ 37 đến 61%. Trong khi đó, tỉ lệ
nghiên cứu của chúng tôi là 37,9 % nằm trong
khoảng tin cậy trên, cho nên không có sự khác
biệt. Hay nói cách khác tỉ lệ trong nghiên cứu
của chúng tôi phù hợp với một số nghiên cứu
khác trong nước và thế giới (Biểu đồ 2).
Biểu đồ 2. Biểu đồ phân tích tổng hợp (meta-analysis) giữa các nghiên cứu về tỉ lệ bị bắt nạt ở học sinh
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
học sinh ở các khối lớp cao hơn sẽ có tỉ lệ bị
bắt nạt cao hơn (Bảng 2). Theo định nghĩa, khi
trêu chọc được thực hiện một cách thân thiện,
vui vẻ thì không được xem là bắt nạt, có thể
học sinh đang trong độ tuổi có sự biến chuyển
về mặt tâm lý, những học sinh ở khối lớp lớn
hơn dễ nhạy cảm hơn với sự trêu chọc của bạn
bè và cho rằng đó là hành vi bắt nạt đối với
mình. Tuy nhiên, kết quả của một số nghiên
cứu khác lại cho thấy khuynh hướng ngược
lại. Nghiên cứu của Kubwalo H.W (2015) về tỉ
lệ bắt nạt trên thanh thiếu niên ở Malawi chỉ
ra rằng những học sinh 12 tuổi hoặc nhỏ hơn
có tỉ lệ bị bắt nạt cao và tỉ lệ này giảm dần ở
những độ tuổi lớn hơn(5). Một nghiên cứu của
tác giả Lê Thị Hải Hà (2016) kết quả cho thấy
học sinh lớp 6, lớp 7 có điểm trung bình bị bắt
nạt cao hơn học sinh ở các lớp 8, lớp 10 và lớp
11, tác giả Phạm Thùy Dung (2015) cho thấy tỉ
lệ bắt nạt học sinh nói chung giảm dần khi
khối lớp tăng dần, tuy nhiên sự khác biệt này
là không có ý nghĩa thống kê(9).
Nghiên cứu tìm thấy sự khác biệt liên
quan theo khuynh hướng giữa bị bắt nạt với
học lực và hạnh kiểm của học sinh. Học lực
thấp hơn một bậc thì tỉ lệ bị bắt nạt cao hơn
1,66 lần (KTC 95% : 1,21 đến 2,27). Tương tự,
hạnh kiểm thấp hơn một bậc thì tỉ lệ bị bắt nạt
cao hơn 1,36 lần (KTC 95%: 1,09 đến 1,70).
Điều này phù hợp với khái niệm về bắt nạt, đó
là bắt nạt có liên quan đến sự mất cân bằng về
quyền lực, kẻ bắt nạt thường to lớn hơn, đông
hơn về số lượng, khéo léo nhanh nhẹn hơn,
học giỏi hơn, đến từ gia đình giàu có thế lực
hơn(6,14).
Những học sinh có kinh tế gia đình từ
trung bình khá trở lên có tỉ lệ bị bắt nạt cao
gấp 1,43 lần so với những học sinh nghèo/cận
nghèo (KTC 95%: 1,04 đến 1,97). Cho thấy học
sinh còn có những biểu hiện ganh tị về kinh tế
của mỗi gia đình, chưa có những kỹ năng sống
ứng xử phù hợp cả về hai phía, học sinh bị bắt
nạt và có hành vi bắt nạt học sinh khác. Kết
quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc có đánh nhau
hoặc cãi nhau, xảy ra các tệ nạn cờ bạc, trộm
cắp, cướp giật tại khu vực sống đều có liên
quan đến bị bắt nạt ở học sinh. Những học
sinh chứng kiến bắt nạt trong trường học có tỉ
lệ bị bắt nạt cao hơn 33% so với những học
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 148
sinh không chứng kiến bắt nạt (p < 0,05). Mặc
dù mối liên quan giữa học sinh bị bắt nạt với
các yếu tố khác về đặc điểm nhà trường là
chưa rõ ràng, song vẫn cần sự quan tâm nhiều
hơn từ phía nhà trường. Việc học sinh nhận
định rằng giáo viên đối xử không công bằng
có thể nảy sinh sự ganh tị, dẫn đến những ứng
xử không phù hợp giữa các học sinh với nhau.
Bên cạnh đó, tác động từ phương pháp giáo
dục có thể có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực
đến nhận thức của học sinh, vì vậy việc lựa
chọn hình thức xử phạt một cách hợp lý và
khoa học là quan trọng.
Kết quả từ mô hình tiên lượng càng cho
thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa 3 yếu tố là học
lực của học sinh, kinh tế gia đình và tình trạng
đánh nhau hoặc cãi nhau tại khu vực sống với
học sinh bị bắt nạt. Có thể những học sinh có
học lực kém thường bị bạn bè trêu chọc gây
khó chịu hoặc ít được chú ý gây cảm giác bị xa
lánh, đó được xem là những hình thức bắt nạt.
Tâm lý chung của các bậc phụ huynh là không
muốn cho con em mình chơi với những trẻ
sống ở môi trường sống phức tạp, có lẽ vì vậy
mà những học sinh sống ở nơi thường xuyên
xảy ra đánh nhau/cãi nhau thường bị bắt nạt
hơn. Bên cạnh đó, với những học sinh có điều
kiện kinh tế gia đình khá giá, thứ nhất, có thể
cách ứng xử của các em chưa phù hợp; thứ
hai, các em thường mang những đồ vật có giá
trị đến lớp, vô hình chung những điều đó đã
khiến các em trở thành nạn nhân của bắt nạt
trong trường học.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ học sinh bị bắt nạt là 37,9% (KTC 95%
từ 31,8% đến 44,3%). Những yếu tố liên quan
đến bị bắt nạt ở học sinh là học lực, hạnh
kiểm, khối lớp, kinh tế gia đình, tình trạng
đánh nhau/cãi nhau và xảy ra các tệ nạn xã hội
tại khu vực sống, có chứng kiến bắt nạt trong
trường học và mối quan hệ không tốt với thầy
cô. Trong đó 3 yếu tố gồm học lực, kinh tế gia
đình và tình trạng đánh nhau hoặc cãi nhau
tại khu vực sống cần được chú trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alex-Hart BA, Okagua J and Opara PI (2015). Prevalence
of bullying in secondary schools in Port Harcourt. Int J
Adolesc Med Health, 27 (4): 391-6.
2. CDC (2016). Featured Topic: Bullying Research.
https://www.cdc.gov/violenceprevention/youthviolence/b
ullyingresearch/index.html. Accessed on 21/12/2016.
3. Institute of Education Science (2015). Bullying.
https://nces.ed.gov/fastfacts/display.asp?id=719. Accessed
on 2017 April 25.
4. Kayleigh L, Chester L, Mary C, Alina C, Oeter D, Wendy
C, Sophie W and Molcho M (2015). Cross- national time
trends in bullying victimization in 33 countrys among
children aged 11, 13 and 15 from 2002 to 2010. The
European Jounal of Public Health, Oxford University, 22
(2): 61-64.
5. Kubwalo HW, Muula AS, Siziya S, Pasupulati S and
Rudatsikira E (2013). Prevalence and correlates of being
bullied among in-school adolescents in Malawi: results
from the 2009 Global School-Based Health Survey. Malawi
Med J, 25 (1): 12-4.
6. Lê Thị Hải Hà, Nguyễn Thanh Hương, Trương Quang
Tiến, Marilyn C, Michelle G and Michael D (2016). Giá trị
và độ tin cậy của thang đo bị bắt nạt học đường và qua
mạng: Kết quả nghiên cứu với học sinh đô thị Hà Nội,
Hải Dương. Tạp chí Y tế công cộng, 40 (13): 198-204.
7. Nguyễn Cao Thế (2014). Bạo lực học đường và những hậu
quả. Bộ môn Tâm lý- Giáo dục, Trường Đại học Hà Tĩnh.
nhung-hau-qua.html. Cập nhật ngày 31/10/2017.
8. Nguyễn Hoàng Thanh Tâm (2016). Bạo lực học đường và
các yếu tố liên quan ở học sinh trường THPT Tây Ninh,
tỉnh Tây Ninh năm 2016. Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Y
tế công cộng. Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, tr.
9-47.
9. Phạm Thùy Dung (2015). Bắt nạt và các yếu tố liên quan ở
học sinh trường THCS Tân Lập, huyện Đồng Phú, tỉnh
Bình Phước năm 2015. Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Y tế
công cộng. Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, tr. 1-
40.
10. Plan International (2015). Promoting equality and safety
in schools in Asia. Summary report.
https://www.educaid.be/fr/node/1242 accessed on
02/2015.
11. Shaw T, Dooley JJ, Cross D, Zubrick SR and Waters S
(2013). The Forms of Bullying Scale (FBS): validity and
reliability estimates for a measure of bullying
victimization and perpetration in adolescence.
Psychological Assessment, 25 (4): 1045- 1057.
12. Srabstein J and Piazza T (2008). Public health, safety and
educational risks associated with bullying behaviors in
American adolescents. Int J Adolesc Med Health, 20 (2): 223-
33.
13. Võ Thị Hoài (2015). Bạo lực học đường và các yếu tố liên
quan ở học sinh trường THPT Nguyễn Du, thị xã Đồng
Xoài, tỉnh Bình Phước năm 2015. Khóa luận tốt nghiệp cử
nhân Y tế công cộng Đại học Y dược thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 5-38.
14. Võ Thị Hoàng Yến (2009). Bắt nạt tuổi học trò- chuyện cũ
mà không cũ. Trung tâm khuyết tật và phát
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 149
triển.
tuoi-hoc-tro-%E2%80%93-chuyen-cu-ma-khong-cu.html.
Cập nhật ngày 31/10/2017.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 142_1_177_2164441.pdf