Tài liệu Hoạt động nghĩa thục ở Bắc Trung Kỳ (Việt Nam) đầu thế kỷ XX: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
145
HOẠT ĐỘNG NGHĨA THỤC Ở BẮC TRUNG KỲ (VIỆT NAM)
ĐẦU THẾ KỶ XX
“Free school” activities in the North Central Region of Vietnam
at the beginning of the twentieth century
Dương Thị Kim Oanh
Trường THCS Thiệu Khánh, Thanh Hóa
Tóm tắt
Đầu thế kỷ XX, phong trào chống xâm lược Pháp ở Việt Nam diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt, trong đó
phong trào Nghĩa thục là một cuộc vận động văn hóa, chính trị, tư tưởng quan trọng với những hoạt
động phong phú, sáng tạo, có sức lan tỏa nhanh chóng và sâu rộng. Bắc Trung Kỳ là vùng có hoạt động
Nghĩa thục phát triển, có liên kết chặt chẽ với phong trào Duy Tân và Đông Du. Tuy nhiên, các nghiên
cứu trước đây chưa mô phỏng và phân tích chi tiết hoạt động Nghĩa thục ở Bắc Trung Kỳ với các phong
trào cùng thời kỳ. B...
12 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 325 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoạt động nghĩa thục ở Bắc Trung Kỳ (Việt Nam) đầu thế kỷ XX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
145
HOẠT ĐỘNG NGHĨA THỤC Ở BẮC TRUNG KỲ (VIỆT NAM)
ĐẦU THẾ KỶ XX
“Free school” activities in the North Central Region of Vietnam
at the beginning of the twentieth century
Dương Thị Kim Oanh
Trường THCS Thiệu Khánh, Thanh Hóa
Tóm tắt
Đầu thế kỷ XX, phong trào chống xâm lược Pháp ở Việt Nam diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt, trong đó
phong trào Nghĩa thục là một cuộc vận động văn hóa, chính trị, tư tưởng quan trọng với những hoạt
động phong phú, sáng tạo, có sức lan tỏa nhanh chóng và sâu rộng. Bắc Trung Kỳ là vùng có hoạt động
Nghĩa thục phát triển, có liên kết chặt chẽ với phong trào Duy Tân và Đông Du. Tuy nhiên, các nghiên
cứu trước đây chưa mô phỏng và phân tích chi tiết hoạt động Nghĩa thục ở Bắc Trung Kỳ với các phong
trào cùng thời kỳ. Bài viết sẽ tổng hợp nguồn tư liệu lưu trữ và phục dựng lại hoạt động Nghĩa thục ở
Bắc Trung Kỳ trên các bình diện: hoạt động của các trường học với thành phần tham gia, chương trình
học tập, nguồn kinh phí, mối liên kết giữa hoạt động Nghĩa thục với các phong trào đang diễn ra ở đầu
thế kỷ XX. Từ đó, khẳng định vai trò, đóng góp của nhân dân Bắc Trung Kỳ với phong trào đấu tranh
của dân tộc Việt Nam.
Từ khóa: Bắc Trung Kỳ, cách mạng dân tộc, phong trào cách mạng, nghĩa thục
Abstract
In the early twentieth century, the movements against French aggression took place strongly and
drastically in Vietnam. Among those, the “nghia thuc” (literally meaning “free school”) movement was
a cultural, political, and ideological movement which spread quickly and extensively. The North Central
region of Vietnam was one of the regions where “nghia thuc” activities strongly developed in close
connection with Duy Tan and Dong Du movements. In fact, the previous studies have not described and
analyzed in depth the “nghia thuc” activities as well as those movements in the same period. This
article, based on archives, aims to describe “nghia thuc” activities in the North Central region of
Vietnam in the following perspectives: school activities and its participants, school curriculum, the link
between “nghia thuc” activities and the other movements in the early twentieth century. It might be
concluded that the North Central region’s contribution to the Vietnamese revolution should be
acknowleged.
Keywords: the North Central region of Vietnam, national revolution, revolutionary movement, nghia
thuc (free school)
Email: thanhhai78dhv@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
146
1. Đặt vấn đề
Bắc Trung Kỳ (North – Annam), theo
cách gọi của người Pháp gồm ba tỉnh
Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Đây là
vùng đất có nhiều nét tương đồng về địa lý
tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội, chiếm
giữ một vị trí quan trọng trong khu vực
Trung Kỳ, là căn cứ tốt nhất, mạnh nhất và
hiệu quả nhất trong các cuộc đấu tranh của
cả nước.
Đầu thế kỷ XX, cuộc vận động chống
Pháp diễn ra với nhiều xu hướng khác
nhau, tiêu biểu là xu hướng cứu nước của
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Phong
trào Đông Du, Duy tân và Đông Kinh
Nghĩa thục diễn ra sôi nổi mạnh mẽ, lôi
cuốn đông đảo thành phần tham gia. Trong
đó, hoạt động Nghĩa thục lan tỏa khắp các
tỉnh vùng châu thổ sông Hồng như Hà
Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải
Dương sang Thái Bình, Nam Định, mở
rộng xuống vùng Trung Kỳ. Sự lan tỏa của
phong trào Nghĩa thục đã đánh dấu tư duy
cứu nước của các nhà yêu nước Việt Nam,
đồng thời mở đầu cho một thời kỳ mới
trong lịch sử đấu tranh chống Pháp của
nhân dân ta.
Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà Sử
học đã dành nhiều thời gian, tâm huyết
nghiên cứu về Đông Kinh Nghĩa thục và
các hoạt động Nghĩa thục ở Bắc Kỳ, Trung
Kỳ bởi nó mang tư tưởng hiện đại của nội
dung học tập và hơi thở của thời đại mới.
Tuy nhiên, vẫn còn những khoảng trống
trong nghiên cứu hoạt động Nghĩa thục tại
các địa phương như mối liên hệ, tính vùng
miền.v.v. Trên cơ sở tiếp cận nguồn tài liệu
lưu trữ của chính quyền Pháp, kế thừa
những công trình nghiên cứu về phong trào
duy tân cải cách, về hoạt động Nghĩa
thục bài viết cố gắng khái quát những
nét nổi bật nhất về hoạt động của các
trường học do văn thân, sĩ phu yêu nước
đầu thế kỷ XX ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh lập nên như thành phần tham
gia, kinh phí hoạt động.v.v. Làm rõ mối
liên kết giữa hoạt động Nghĩa thục với Duy
Tân Hội, Phong trào Đông Du và Phong
trào Duy Tân trên địa bàn Bắc Trung Kỳ.
2. Từ Đông Kinh Nghĩa thục đến
phong trào nghĩa thục ở Việt Nam
Sau khi cơ bản hoàn tất quá trình chinh
phục và bình định Việt Nam, chính quyền
thực dân Pháp nhanh chóng bắt tay vào
khai thác thuộc địa nhằm bòn rút của cải,
làm giàu cho chính quốc. Dưới tác động
của Chương trình khai thác bóc lột thuộc
địa lần thứ nhất (1897-1914) của tư bản
Pháp, Việt Nam đã có biến đổi rõ rệt về cả
hai mặt cấu trúc kinh tế và phân hóa xã hội.
Trong quá trình phân hóa xã hội ở Việt
Nam đầu thế kỷ XX, nhiều thành phần giai
cấp, tầng lớp mới hình thành, song đứng ra
tiếp thu trào lưu tư tưởng mới – tư tưởng
dân chủ tư sản từ ngoài đưa vào thông qua
Tân thư, Tân văn từ Trung Quốc và Nhật
Bản – lại là những văn thân, sĩ phu yêu
nước có xu hướng tiến bộ. Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh là người đề xướng và đại
diện cho khuynh hướng cứu nước dân chủ
tư sản ở Việt Nam. Hai ông và nhiều văn
thân sĩ phu yêu nước đã nhận thức con
đường cứu nước mới là thực hiện khai hóa
dân trí, nâng cao dân khí và làm cho dân
giàu, nước mạnh, tiến tới tự lập, tự cường.
Từ tấm gương thành công của Nhật Bản
trên con đường cải cách đất nước ở cuối
thế XIX, đầu thế kỷ XX đã mở ra trong đầu
óc các sĩ phu yêu nước tiến bộ ở Việt Nam
một thế giới mới lạ, đầy sức hấp dẫn và
thuyết phục. Chính vì vậy, Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh đã tìm đường sang Nhật,
DƯƠNG THỊ KIM OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
147
chứng kiến tận mắt bài học Âu hóa mà
đông đảo các chí sĩ khác của châu Á đã đến
đây để suy ngẫm về bài học duy tân của
Nhật Bản.
Sau khi về nước, hai nhà chí sĩ yêu
nước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
đã gặp gỡ lớp nho sĩ yêu nước thức thời ở
Hà Thành như: Lương Văn Can, Nghiêm
Xuân Quảng, Nguyễn Quyền cùng với
những trí thức tân học như Nguyễn Văn
Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Trần Hữu Đức, Phan
Huy Thịnh họp bàn về mô hình Khánh
Ứng Nghĩa Thục (Keio – Gijuku) - Trường
học đào tạo nhân tài, xây dựng đất nước do
Phúc Trạch Dụ Cát sáng lập (Fukugawa
Yukuchi, 1835-1901) năm 1858. Những
con người thuộc hai thế hệ đang trăn trở
trước vận mệnh của đất nước đã hợp sức
lại, lập ra Đông Kinh Nghĩa thục (Trường
tư thục dạy học vì nghĩa mở tại Đông Kinh
(tên thành Thăng Long đời nhà Hồ) vào
tháng 3 - 1907. Khởi đầu, trường đặt tại
ngôi nhà số 4, phố hàng Đào, nhà ở của gia
đình cụ Lương Văn Can, sau phát triển
sang nhà số 10 cùng phố. Trên Đăng Cổ
tùng báo, số 797 ra ngày 27/4/1907, ở mục
tín văn Hà Nội có đưa thông tin quan trọng
về Đông Kinh Nghĩa Thục, cụ thể:
- Trường lập theo Nghị định cải cách
giáo dục ở Bắc Kỳ ra ngày 16/1/1906;
- Trường được phân thành nhiều lớp
tùy theo lứa tuổi (người lớn, trẻ con) tùy
theo giới (con trai, con gái), tùy theo trình
độ (lớp dành cho những nho sĩ học chữ
Pháp, lớp dành cho những người biết chữ
Pháp thì học chữ nho, các em nhỏ chưa biết
chữ nho, chữ Pháp thì học chữ Quốc ngữ);
- Thời gian học cả ngày và đêm; người
dạy không có lương, người học không mất
tiền, trường làm việc nghĩa;
- Một mô hình trường học thích hợp
với hoàn cảnh đất nước lúc đó, vì thế mà
trong một thời gian ngắn, sau hơn một
tháng khai trường Đông Kinh Nghĩa Thục
đã thu hút được gần 400 người theo học
(Phan Bội Châu, 1990, tr. 41).
Nội dung và phương pháp dạy học của
Đông Kinh Nghĩa Thục với các môn học
sử, địa, toán pháp, luân lý cùng các môn tự
nhiên, học sinh tiếp cận một nền học thuật
mới qua các sách giáo khoa nhà trường
biên soạn như Nam quốc vĩ nhân, Luân lý
giáo khoa thư, Quốc dân độc bản cùng
nhiều bài học được soạn bằng chữ Nôm và
chữ Quốc ngữ theo vần thơ lục bát để học
sinh dễ nhớ. Vì vậy, sức lan tỏa của trường
rộng lớn, số lượng học sinh có lúc lên tới
1.000 người, chia làm 8 lớp, có cấp tiểu
học và trung học (Chương Thâu, 2007).
Mô hình giáo dục của Đông Kinh
Nghĩa Thục lấy chữ Quốc ngữ làm phương
tiện giảng dạy chủ yếu, coi trọng thực học,
học đi đôi với hành, kết hợp việc giảng dạy
trên lớp với sinh hoạt ngoài lớp (diễn
thuyết, bình văn) là sự kế thừa truyền
thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận những
giá trị văn hóa phương Tây du nhập vào
nước ta khi nền Nho học đang trên bước
đường suy tàn. Vì vậy, phong trào đã tạo ra
sức hút mạnh mẽ, một phản ứng dây
chuyền tích cực trong xã hội đương thời.
Khi mới thành lập Đông Kinh Nghĩa thục,
Giám học Nguyễn Quyền đã nói: "Chúng
tôi lập Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội là
cốt thử nghiệm. Nếu thấy thành hiệu thì
trong ít lâu, ở mỗi Kỳ, Trung, Nam, Bắc sẽ
có một Đại học đường như thế, rồi tính lần
lần về sau, mỗi tỉnh, mỗi phủ, huyện cũng
có Đông Kinh Nghĩa Thục nữa" (Nguyễn
Hiến Lê, 1966, tr. 22). Đúng như lời của
Giám học Nguyễn Quyền nói, chỉ trong
thời gian ngắn, sức lan tỏa rộng lớn, nhanh
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
148
chóng của hoạt động Nghĩa thục diễn ra
khắp các tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Ban
đầu, tư tưởng khai dân trí của Phan Châu
Trinh từ địa bàn trung tâm Bắc Kỳ là Đông
Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội lan vào các
trường học ở Quảng Nam vùng Trung Kỳ.
Trên Đăng Cổ Tùng Báo số 82, ra
ngày 3-10-1907 đã mô tả lại: từ trung tâm
Hà Nội, làng Hoàng Mai, huyện Hoàn
Long, những văn thân hào mục trong làng
đã họp nhau lại quyên góp tiền bạc, lập
trường có tên là Mai Lâm Nghĩa Thục và
được Thống sứ Bắc Kỳ phê duyệt điều lệ
của nhà trường vào ngày 10-8-1907 (Phạm
Xanh, 2007, tr. 41). Buổi ra mắt ngôi
trường có sự hiện diện của Bouzat, đại diện
Phủ Thống sứ Bắc Kỳ và Đỗ Thận, nghị
viên hạt Hoàn Long. Trong bài diễn văn
thành lập trường, Đăng Cổ Tùng Báo, số
820, ra ngày 3-10-1907 cho biết những
người đứng đầu đã nói rõ mục đích của
việc lập ra Mai Lâm Nghĩa thục là: “Hội
này lập ra là chú ý để dạy dỗ các con em
trong làng, cứ theo như tân nghị về việc
học mà nhà nước đã định, trước là cho
được phổ thông chữ Quốc ngữ, chữ Nho,
chữ Pháp, sau là cho được học tập lấy kỹ
nghệ, toán pháp, địa dư và hóa học bên
Thái tây. Bởi trong hạ Bắc Kỳ ta nhiều xã
khai trường học theo tân thức rồi, mà làng
nào chưa có trường thì cũng lục đục đặt
hương sư cả, cho nên mấy anh em chúng
tôi trộm nghĩ rằng làng mình ở tiếp giáp
thành phố Hà Nội, là kinh đô Bắc Kỳ và
kinh đô của Đông Dương, mà không lo
nghĩ vào việc học hành cho được văn minh
ra, thì sợ ngày sau phải đớn hèn không
được bằng anh em ở các xã khác” (Phạm
Xanh, 2007, tr. 42).
Ở Hà Đông, quê hương của nhiều sáng
lập viên của Đông Kinh Nghĩa thục có tên
tuổi, đã lập được ba phân hiệu Nghĩa thục
ở thôn Canh, Tân Mỗ (Hoài Đức), ở Tân
Hội, (Đan Phượng). Ở Bắc Ninh, một số
lớp học theo kiểu Đông Kinh Nghĩa thục
cũng được mở ra, trong số đó, tại làng
Đình Xuyên, việc tổ chức quy củ và số
lượng đông đảo con em tham gia học. Ở
Hưng Yên, xuất hiện Nghĩa thục ở các
huyện Văn Giang, Yên Mỹ. Ở Hải Dương,
nhiều nhà nho tiến bộ đứng lên tuyên
truyền cổ động cho công cuộc duy tân, mở
trường dạy học theo lối mới, lập hiệu buôn
(Hiệu buôn Hưng Lợi Tế của Tùng
Hương), hội đọc sách báo, bình thơ văn
(làng Tạ Xá, Hương Yên).v.v.
Quảng Nam – quê hương của những
nhà duy tân như Phan Châu Trinh, Trần
Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng đã nhanh
chóng mở trường học bởi đó là mục tiêu
khai dân trí của các ông. Vì thế, Quảng
Nam trở thành trung tâm Nghĩa thục sau
Hà Nội, có ảnh hưởng và lan tỏa rộng lớn
ra toàn vùng Nam Trung Kỳ. Theo thống
kê thì tại Quảng Nam thành lập được 40
trường học kiểu mới (Tạ thị Thúy, 2017,
tr. 318). Nội dung, chương trình học tập
hướng theo Đông Kinh Nghĩa thục, trong
đó tất cả các môn học đều được học bằng
chữ Quốc ngữ. Báo cáo tình hình chính trị
ở Trung Kỳ năm 1908 của Pháp có ghi lại
như sau: “Hoạt động của các hội viên
trong hội kín ở Quảng Nam diễn ra chủ
yếu ở phủ Thăng Bình và phủ Tam Kỳ, các
thành viên trong hội tham gia vào các
trường học trong làng. Họ định hướng việc
học tập, họ đưa cho những học viên trẻ
những quyển sách có dụng ý ca ngợi lòng
yêu nước, căm thù quân xâm lược, coi
thường cái chết. Ai cũng phải sẵn sàng hi
sinh cuộc sống của mình vì Tổ quốc. Đó là
những bài học về sức mạnh rất hay”
DƯƠNG THỊ KIM OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
149
(Rapport politique, 1907, tr. 3).
Từ trung tâm Quảng Nam, phong trào
Nghĩa thục mở rộng đến tỉnh Bình Thuận.
Tỉnh Bình Thuận, nơi hội tụ những nhà
nho khí tiết từ Đồng Nai trong phong trào
chống Pháp cuối thế kỷ XIX đến đầu thế
kỷ XX như Nguyễn Quý Anh, Nguyễn
Trọng Lội, Hồ Tá Bang, Trần Lê Chất,
Nguyễn Hiệt Chi cùng những nhà nho yêu
nước thức thời khác hùn vốn lập Công ty
nước mắm Liên Thành do Nguyễn Trọng
Lội làm Tổng lý. Nhờ làm ăn phát đạt năm
1907, Công ty mở trường tư thục kiểu mới
đặt tên Dục Thanh do Nguyễn Quý Anh
làm tổng đốc. Với chương trình dạy và học
theo lối mới, ngoài giờ học chính, học sinh
còn được học hát và học thể dục nên học
sinh có lúc lên tới 70 người. Trường không
chỉ thu hút học sinh trong tỉnh mà cả vùng
Nam Kỳ thuộc địa ra học.
Như vậy, từ hai trung tâm, Hà Nội ở
Bắc Kỳ, Quảng Nam ở Trung Kỳ, phong
trào Nghĩa thục như làn sóng dâng trào
mạnh mẽ, lôi cuốn tâm nguyện của các văn
thân, sĩ phu trước trào lưu mới – khai dân
trí. Gia nhập vào trào lưu chung đó, trí thức
yêu nước Bắc Trung Kỳ đã hành động tạo
phong khí cách mạng mới mà chúng tôi cố
gắng làm rõ ở phần tiếp dưới đây.
3. Hoạt động Nghĩa thục ở Bắc
Trung Kỳ
Dưới sự vận động của trí thức Nho học
yêu nước tiến bộ, hoạt động Duy Tân Hội
và phong trào Nghĩa thục ở Bắc Trung Kỳ
diễn ra mạnh mẽ. Tháng 7 năm 1905 Phan
Bội Châu về Nghệ - Tĩnh gặp gỡ đốc học
Đặng Nguyên Cẩn và đi đến thống nhất:
"chúng ta nên nhân cơ hội này tổ chức các
hội nông, hội thương, hội học làm cho
người ở trong nước biết có đoàn thể, đặng
sau dễ cổ động tấn hành" (Phan Bội Châu,
1990, tr. 100). Từ đây, trí thức yêu nước xứ
Nghệ đã nhanh chóng sáng lập “nông hội,
học hội” khắp mọi nơi (Phan Bội Châu,
1956, tr. 59). Báo cáo của Công sứ Nghệ -
Tĩnh gửi Toàn quyền Đông Dương cho
biết: công cụ tuyên truyền tại vùng đất này
được tiến hành bằng “công kích”, “thóa
mạ” và “những tập tài liệu phổ biến” ở
khắp Trung Kỳ đã được in tại Nhật. Năm
1906, lời kêu gọi đầu tiên của Phan Bội
Châu trong “Huyết thư của một người An
Nam”, kèm theo bức ảnh của Cường Để và
Phan Bội Châu được lưu hành trong dân
chúng và truyền tay nhau ở Nghệ - Tĩnh
(Rapport Gouverneur, 1908). Năm 1906,
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh có ghé
qua Thanh Hóa gặp Nguyễn Thượng Hiền
và nhóm sĩ phu yêu nước xứ Thanh như
Nguyễn Xứng, Nguyễn Soạn, Nguyễn Lợi
Thiệp để bàn bạc xu hướng cứu nước
mới. Như vậy, có thể thấy rõ, những hoạt
động ban đầu của Phan Bội Châu và các sĩ
phu yêu nước ở Bắc Trung Kỳ là cơ sở cho
hoạt động Nghĩa thục nơi đây.
Vào cuối năm 1905, đầu năm 1906,
Duy Tân Hội lần lượt hình thành ở các tỉnh
Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, lãnh đạo
Hội có có Đặng Thái Thân, Đặng Tử Kính
(Nghệ An), Lê Võ, Ngô Đức Kế, Lê Huân
(Hà Tĩnh), Nguyễn Xứng (Thanh Hóa).v.v.
Hội viên tham gia gồm đông đảo những
“thân bằng cố hữu”, “cừu gia đệ tử”, với
nhiều thế hệ thầy trò; những người đã từng
tham gia chống Pháp dưới ngọn cờ "phò
Vua cứu nước" và có cả những giáo dân
yêu nước. Duy Tân Hội ở Bắc Trung Kỳ
hoạt động theo hai phái "Minh xã" và "Ám
xã". Phái Minh xã là tiền đề cho phong
trào Nghĩa thục ở Bắc Trung Kỳ, đã thực
hiện cổ động duy tân, bài trừ những cái
không thích hợp với hoàn cảnh và thời đại,
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
150
công khai, hợp pháp, lập trường học mới,
vận động thương hội. Hoạt động phụ trách
phân công như sau: Hội thương do Ngô
Đức Kế, Lê Huân đảm nhận; Hội học do
Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế phụ trách;
Vận động tài chính do Đặng Thái Thân,
Mai Lão Bạng thực hiện; Phụ trách các
huyện với trụ sở kinh tài là Vương Thúc
Quý, Võ Am, Vương Thúc Loan, Phan
Đức Nhuận, Bà Lụa (Quỳnh Lưu, Nghệ
An), Phan Thị Hét (Đức Thọ, Hà Tĩnh).v.v.
Để thực hiện khai dân trí, sĩ phu yêu
nước ở Bắc Trung Kỳ đã tiến hành tuyên
truyền tư tưởng dân quyền thông qua việc
phổ biến "Tân thư", "Tân văn" của Trung
Quốc và những sáng tác của Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, của nhóm Đông
Kinh Nghĩa Thục.v.v. Từ trung tâm Hà
Nội, tiếng vang của Đông Kinh Nghĩa thục
lan tỏa nhanh chóng, lôi cuốn những nhà
nho yêu nước thức thời vào phong trào mở
trường học ở các tỉnh miền Trung, trong đó
có Thanh – Nghệ – Tĩnh.
Năm 1907, trường học nổi tiếng được
thành lập ở Nghệ An là trường Võ Liệt,
huyện Thanh Chương. Đội ngũ giảng dạy
là những ông thầy yêu nước có ít nhiều
kiến thức “tân học” như phó bảng Đặng
Nguyên Cẩn, Tiến sĩ Ngô Đức Kế.v.v. Học
trò theo học tại trường không chỉ ở địa bàn
Thanh Chương mà cả ở Hưng Nguyên,
Nam Đàn, Hương Sơn (Hà Tĩnh). Tài liệu
giảng dạy, học tập ở đây phần lớn do Đông
Kinh Nghĩa thục ở Hà Nội cung cấp như
“Văn minh tân học sách”, “Quốc dân độc
bản”, “Nam quốc địa dư”. Ở Hà Tĩnh lập
trường học mới có tên gọi trường Phong
Phú ở Thạch Hà, học trò của trường gồm
đông đảo thanh niên ưu tú của huyện và
các huyện lân cận như Can Lộc, Cẩm
Xuyên, Kỳ Anh.v.v. Tinh thần quyết tâm
học tập tư tưởng mới, xóa bỏ lối học xưa
cũ đã được nhân dân trong vùng hưởng
ứng, lưu truyền trong bài ca “Kêu gọi học
quốc ngữ” như sau:
“ . Ngoài tứ xứ phong trào xụp rụp
Khắp hoàn cầu nam nữ bình quyền
Vứt trâm thoa mà đỡ lấy bút nghiên
Để học tập vài vần quốc ngữ
Kẻ nam giới – tu mi nam tử
Cũng chẳng qua học tập mà nên
Chị em tôi – phận gái nữ hiền
Vì thầy mẹ không cho học thức
Phải chịu ở trong vòng bếp núc
Chưa thỏa lòng gặp lúc văn minh
Ngoài tứ phương trống đánh biểu tình
Đều Nam – Nữ bình quyền rứa cả
Việc gia thất xin chàng thong thả
Khuyên anh về nhận dạy học hành
Một hai năm cách mệnh hoàn thành
Chàng với thiếp sẽ về lo liệu”
(Chương Thâu, 1997, tr.15).
Tại Thanh Hoá, Nghĩa thục thành lập
vào ngày 5 tháng 5 năm 1907 với tên gọi
“Tri tân học hội Thanh Hóa”. Tài liệu
Société D’enseignement Mutuel (Fondée le
5 Mai 1907) (có kèm theo chữ ký của
Khâm sứ Trung kỳ Levecque ngày
16/7/1907) ghi lại điều lệ và quá trình
thành lập Hội với 30 điều khoản, gồm
những vấn đề cơ bản như: Mục đích lập
hội, tên hội, điều kiện gia nhập, kinh phí,
chương trình dạy học, thiết bị.v.v. Điều 1:
Mục đích thành lập hội: “Hội tương trợ
học tập lấy tên là Tri tân học hội, được
sáng lập tại Thanh Hóa. Tôn chỉ mục đích
của Hội là tạo điều kiện cho các hội viên
thực hành tiếng Pháp, chữ Nho và các trí
thức thông thường, bằng các phương
tiện cần thiết như tủ sách, phòng đọc, hội
họp học tập, diễn giảng” (“Société
D’enseignement Mutuel”, 1933, tr.2). Điều
DƯƠNG THỊ KIM OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
151
3: Quản lý hội viên: “Hội được quản lý bởi
một hội đồng quản trị gồm chủ tịch, phó
chủ tịch, thư ký (cho phần chữ Pháp); thư
ký cho phần chữ Hán, thủ qũy (“Société
D’enseignement Mutuel”, 1933, tr.5). Điều
16: Về chương trình dạy học: mở các lớp
tiếng Pháp và chữ Nho cho mọi hội viên và
trẻ em theo học. Các cuộc họp để đọc
giảng tại Hội sáu lần mỗi tuần. Nội dung
của một chương trình do chủ tịch chuẩn bị
và các hội viên giảng dạy. Thành viên
được vào học miễn phí là con em của hội
viên và tất cả trẻ em muốn vào học (không
kể số lượng) (“Société D’enseignement
Mutuel” 1933, tr.7). Về địa điểm, Hội tạm
thời thuê một căn nhà làm phòng họp và
phòng học, đó là nhà bà Cả Bát (sau này là
hiệu ảnh Nguyễn Khắc Hoan ở phố Lớn
Thanh Hóa). Phong khí cách mạng ở đây
đã được Huỳnh Thúc Kháng ghi lại, rằng:
“Thanh Hóa lúc ấy phong trào duy tân
cũng khá mạnh, hưởng ứng với trào lưu
chung. Phái cựu học và phái tân học lập ra
Hà Thành Thư xã cùng giao thông với
Đông Kinh Nghĩa thục ngoài Bắc, Hợp
thương trong Quảng và Triêu Dương ở
Nghệ” (Huỳnh Thúc Kháng, 1968).
Để tạo nguồn kinh phí hỗ trợ cho hoạt
động Nghĩa thục ở Bắc Trung Kỳ, các sĩ
phu vận động đóng góp kinh phí bằng
nhiều hình thức.
Thứ nhất, góp vốn kinh doanh công
thương nghiệp, lập các hội buôn. Tại
Thanh Hóa, công ty Phương Lâu thành lập,
có chi nhánh ở Vinh, Hà Tĩnh, Huế. Tại
Nghệ An, Hà Tĩnh, hai nhân vật nhiệt
thành với công cuộc cải cách là Đặng
Nguyên Cẩn và Ngô Đức Kế đã cùng góp
vốn lập nên Triều Dương thương quán (9-
1906). Cuối năm 1906, phân hiệu Triều
Dương thương quán lập tại Cầu Giát,
Quỳnh Lưu (Nghệ An) do bà Trần Thị
Trâm phụ trách, và hiệu buôn Mộng Hanh
của Lê Phú Thành (em trai Lê Văn Huân) ở
Chợ Trổ, Đức Thọ (Hà Tĩnh).v.v. Với sự
lan tỏa của "Triều Dương Thương quán" và
mối liên kết với hiệu buôn ở Trung, Bắc
Kỳ, Công sứ Hà Tĩnh đã cho rằng:"
Đặng Nguyên Cẩn và Ngô Đức Kế bắt đầu
vận động góp vốn để mở hiệu buôn, nhưng
chỉ nhằm để che dấu động cơ chính là gửi
tiền sang Nhật và ủng hộ hội học”
(Résidence de Hà Tĩnh, 1907, tr.2). Hơn
thế nữa, “ Bề ngoài là một hội buôn,
nhưng thực chất là để thu nhận các khoản
đóng góp, có khi bằng bạo lực, dùng cung
cấp cho đông đảo người xuất dương sang
Nhật và những hoạt động học tập ở đây”
(Résident Supérieur Vinh, 1907, tr. 3).
Thứ hai, lập Ban liên lạc góp tiền ủng
hộ cho phong trào Đông Du và Duy tân
trên địa bàn gồm có các sĩ phu Vương
Thúc Quý, Võ An, Vương Thúc Loan,
Trần Thị Lụa (Nghệ An); Phan Thị Hét,
Phan Huy Diễn, Nguyễn Đình Kiên, Phan
Trọng, Đội Quyên, Đội Phấn (Hà Tĩnh).
Ủng hộ tích cực cho hoạt động này còn có
sự tham gia của phụ nữ ở huyện Quỳnh
Lưu, Yên Thành, Nghi Lộc, Nam Đàn
(Nghệ An), trong đó tiêu biểu như: Bà Ngô
Thị Khôn Duy (Con gái của Ngô Quảng,
vợ của Hồ Học Lãm), Bà Nguyễn Thị
Thanh (Con gái đầu của cụ Nguyễn Sinh
Sắc, chị gái của chủ tịch Hồ Chí Minh), bà
Tôn Thị Chiêm (Thanh Chương) (là vợ của
Lê Kim Tường, người yêu nước tích cực ở
làng Nguyệt Bổng, huyện Thanh Chương,
là nhà mà cụ Nguyễn Sinh Sắc đã chọn gửi
ông Nguyễn Sinh Khiêm ăn học).
Thứ ba, quyên góp tiền bạc trong nhân
dân. Các tổ chức yêu nước ở địa phương có
nhiệm vụ trấn áp chức sắc, hào lý giàu có
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
152
để thu gom lương thực và tiền bạc. Tài liệu
của mật thám Pháp ở Nghệ An, Hà Tĩnh
ghi lại: “Ngày 20-8-1907, Chánh tổng và
Phó Chánh tổng Nam Kim, huyện Thanh
Chương được báo có một nhóm 5 người lạ
mặt đến nhà lý trưởng Đa Lộc đòi các chức
sắc cấp lương thực và tiền bạc. Ba tên
trong bọn đã bị tuần đinh bắt và giải xuống
Vinh. Được hỏi cung chúng khai là được
Đề đốc Cao Đạt phái đến đưa thư, hăm
dọa và thu tiền góp được. Cao Đạt là một
trong những kẻ cầm đầu phiến loạn cũ nổi
tiếng nhất...” (Résidence de Ha Tinh,
1907, tr. 2). Thành phần tham gia các hoạt
động quyên góp tiền bạc gồm: “... mọi tầng
lớp xã hội, có nhiều quan lại đang tại chức
ở Hà Tĩnh, những nhà Nho đã đỗ tú tài, cử
nhân, tiến sĩ. Cuối cùng là những tay
cường đạo mà công việc chính là ép đám
nhà giàu tham gia vào công cuộc phục
hưng đất nước. Trong số đó có Tiến sĩ Ngô
Đức Kế, cử nhân Đặng Văn Bá, cử nhân
Lê Văn Huân, thủ lĩnh cầm đầu các vụ
cướp có Đội Quyên, tú tài Phạm Văn
Ngôn” (Résidence de Ha Tinh, 1907, tr. 2).
Kết quả từ phong trào Nghĩa thục Bắc
Trung Kỳ là sự nổi dậy mạnh mẽ của nông
dân kháng sưu, thuế năm 1908. Sự kết hợp,
chặt chẽ giữa các cuộc biểu tình chống thuế
ôn hoà với hình thức khởi nghĩa vũ trang là
nét đặc sắc nhất của phong trào yêu nước ở
Thanh -Nghệ - Tĩnh, cho thấy sự tác động
mạnh mẽ từ cuộc vận động cải cách trên
bình diện văn hóa. Chính quyền Pháp nhận
thấy trường học trên địa bàn Bắc Trung Kỳ
không đơn thuần dạy và học, trên thực tế
đã gây nên “sự kích động và lan truyền
tinh thần đấu tranh của đám chống đối bảo
hộ” (Rapport bimestriel, 1907, tr.3). Chính
quyền Pháp cho rằng, những trường học
lập nên ở đây thực sự là "một cái lò yêu
nước", vì vậy quy trách nhiệm cho sĩ phu
duy tân và thẳng tay đàn áp các phong trào.
Cũng như cả nước, trường học, hội buôn
trên toàn địa bàn Bắc Trung Kỳ bị đóng
cửa. Cảnh bắt bớ, giam cầm bao trùm khắp
cả nước, Phan Châu Trinh đã viết lại, rằng:
“ phàm xã thôn nào có trường học, lính
cũng đóng lại một hai ngày, bắt dân sắm
ăn uống, nói là bắt phạt, cướp nhiễu cũng
nhiều, không kể xiết. Tình hình đó, tỉnh nào
có trường học thì cũng đều có như vậy,
nhất là ở Nghệ An, Hà Tĩnh lại càng dữ
hơn” (Nguyễn Văn Xuân, 2000, tr. 274).
Những nho sĩ Thanh – Nghệ – Tĩnh bị
chính quyền thực dân bắt với tội danh “âm
mưu phản loạn”, Nghệ - Tĩnh gồm có: Tiến
sĩ Ngô Đức Kế, Cử nhân Đặng Văn Bá, Cử
nhân Lê Văn Huân, Cử nhân Võ Bá Hợp,
Tú tài Phạm Văn Ngôn, Đào Văn Huân, Tú
tài Nguyễn Sĩ Vận; Nho sinh Nguyễn Tân
Khiêm, Nho sinh Nguyễn Khắc Hoàng,
Cựu chánh tổng: Nguyễn Đống, Phan Hữu
Nghị, Đào Sự... (Huỳnh Thúc Kháng,
1968, tr.45); Thanh Hóa có Nguyễn
Nguyên Thành, Cử Xứng, Cử Soạn, Tú
Thiệp, Tú Khải bị đày đi Côn Lôn.
4. Một vài nhận xét
Cũng như phong trào Nghĩa thục ở
Trung và Bắc Kỳ, Nghĩa thục ở Bắc Trung
Kỳ hoạt động ngắn ngủi, cuối cùng bị thực
dân Pháp đàn áp (tháng 12/1907), song
phong trào cho ta thấy rõ tính chất phong
phú, đa dạng của cuộc vận động chính trị ở
buổi giao thời, chứa đựng những sinh khí
của thời đại. Phong trào Nghĩa thục thực sự
là một phong trào chính trị, văn hóa mang
tính cách mạng bởi đã hướng dẫn nhân dân
chống lại các thế lực phản động, lạc hậu
ngăn cản sự phát triển của lịch sử. Sự lan
toả của Nghĩa thục có ảnh hưởng, tác động
sâu sắc đến đời sống tư tưởng của người
DƯƠNG THỊ KIM OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
153
dân Việt Nam, tạo bầu không khí cách
mạng sôi nổi khắp cả nước. Hoạt động của
phong trào đã tạo nên một “nguồn lực”
quan trọng, làm phong phú “nội lực” cho
quê hương đất nước. Qua hoạt động Nghĩa
thục ở Bắc Trung Kỳ, chúng tôi rút ra một
số nhận xét như sau:
Thứ nhất, hoạt động nghĩa thục ở Bắc
Trung Kỳ cho thấy vai trò to lớn của lớp
Nho sĩ yêu nước thức thời, họ đã làm được
việc mà trước đó chưa ai làm được là hô
hào đổi mới, trước tiên là đổi mới tư tưởng.
Những tư tưởng mới này tuy chưa phải là
một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, song
phong trào Nghĩa thục đã thể hiện tính tích
cực tiến bộ thông qua tinh thần ý chí tự lập,
tự cường, tấn công vào sự “ngu dốt”, “yếu
kém” do chế độ thực dân để lại, đả phá chế
độ khoa cử từ chương, bài trừ hủ tục mê
tín, đề cao chữ Quốc ngữ và lối học
mới.v.v. Phong trào đã đáp ứng được phần
nào tâm tư, nguyện vọng của quần chúng
bị áp bức bóc lột đang phải sống cuộc sống
tối tăm dưới ách thống trị nặng nề của đế
quốc, phong kiến và thực sự mở hướng đi
mới cho những trăn trở trước vận mệnh đất
nước của lớp Nho sĩ tiến bộ.
Thứ hai, hoạt động nghĩa thục ở Bắc
Trung Kỳ có sự tiếp nhận tinh thần từ
Đông Kinh Nghĩa thục và phong trào nghĩa
thục Bắc Kỳ cùng hoạt động duy tân cải
cách ở Trung Kỳ, song ở đây mang sắc thái
riêng của “một phong trào cách mạng... ”.
Các hoạt động chống Pháp cùng “câu
thông với nhau”, “cán dùi trống một nhịp
với nhau”. Điều này có thể lý giải rằng:
Thanh - Nghệ - Tĩnh vốn là “xứ sở của các
bậc danh nho”, có lớp văn thân, sĩ phu
đông đảo, có tinh thần yêu nước nồng
nhiệt, lại rất nhạy bén và nhiệt tình trong
công việc. Khi bắt gặp “Tân thư”, “Tân
văn”, lớp Nho sĩ tiến bộ đã nhanh chóng
tiếp thu chủ trương cứu nước mới và sẵn
sàng đứng ra lãnh đạo phong trào đấu
tranh. Vì vậy, trong phong trào đấu tranh,
lớp sĩ phu không phân biệt rạch ròi “bạo
động” hay “cải cách” mà cùng “hò reo như
gió đưa diều” theo hệ tư tưởng tư sản,
thống nhất “một nhịp” với nhau trong mục
đích chung "giành độc lập dân tộc”. Vì
vậy, hoạt động mở trường học, lập hội
buôn, vận động Đông Du, tiến hành diễn
thuyết, kêu gọi duy tân đã hòa lẫn cùng
nhau, hỗ trợ cho nhau, hòa nhịp với phong
khí chung của dân tộc.
Tóm lại, từ những nghiên cứu trên,
chúng tôi nhận thấy hoạt động nghĩa thục ở
Bắc Trung Kỳ đã hòa cùng phong trào
Nghĩa thục ở Trung – Bắc Kỳ, thực sự góp
phần hướng tới mục tiêu khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh, làm cơ sở cho việc
thực hiện hai mục tiêu tối hậu gắn chặt với
nhau là chấn hưng, hiện đại hóa đất nước và
khôi phục chủ quyền quốc gia. Sự kết hợp
của chủ nghĩa yêu nước thiết tha, tư tưởng
duy tân, cải cách và sự nhạy bén trước thời
cuộc của lớp nho sĩ tiến bộ ở Thanh – Nghệ
– Tĩnh đã tạo nên một phong trào mang tính
sáng tạo, biến hoạt động giáo dục thành
cuộc vận động yêu nước, kết nối chặt chẽ
giữa hoạt động Nghĩa thục với các phong
trào Đông Du, Duy Tân. Đến nay, phong
trào đã lùi xa hơn một thế kỷ, song để lại
bài học ý nghĩa về một nền giáo dục dân
tộc, yêu nước, thấm đẫm hơi thở của thời
đại trong bối cảnh lịch sử hội nhập sâu,
rộng của thời đại 4.0.
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
154
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phan Bội Châu. (1956). Tự Phán. NXB Anh Minh.
Phan Bội Châu. (1990). “Phan Bội Châu niên biểu” trích trong Phan Bội Châu toàn tập
(tập 6). Hà Nội: NXB Thuận Hoá..
Nguyễn Hiến Lê. (1966). Đông Kinh Nghĩa Thục. Sài Gòn: NXB Lá Bối.
Huỳnh Thúc Kháng. (1963). Huỳnh Thúc Kháng tự truyện. NXB Anh Minh.
Huỳnh Thúc Kháng. (1968). “Vụ kháng thuế ở Trung kỳ 1908”, Thi văn quốc cấm Thái
Bạch. Nhà sách Khai Trí.
Phạm Xanh. (2007). “Đông Kinh Nghĩa Thục - Tiếp cận từ văn hóa tư tưởng”. Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, 8 (376), 38-46.
Chương Thâu. (1997). “Đông Kinh Nghĩa thục 1907 và phong trào nghĩa thục ở các địa
phương”. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 4 (293), 11-16.
Chương Thâu. (2007). “Từ Khánh Ứng Nghĩa Thục ở Nhật Bản đến Đông Kinh Nghĩa
Thục ở Việt Nam”. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 2 (370), 7-14.
Tạ Thị Thúy. (2017). Lịch sử Việt Nam tập 7, (từ 1897 đến 1918). Hà Nội: NXB Khoa học
Xã hội.
Rapport politique, Décembre 1907 (Hoi An 08-01-1908). No 4. Nguồn tài liệu được truy
xuất từ Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV, Đà Lạt. KH 244/1 RSA/RP.
Rapport A.M Le Gouverneur general (15mai 1908). Nguồn tài liệu được truy xuất từ
Phông Khâm sứ Trung Kỳ. Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. KH 265 RSA/RP.
Rapport A.M. Le Résident Supérieur, Vinh, le 3 Septembre Résidence de Ha Tinh:
Rapport A.M.Le. Résidence Supérieur Vinh. Nguồn tài liệu được truy xuất từ Phông Khâm
sứ Trung Kỳ. Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. KH 262 RSA/RP
Rapport bimestriel (Juillet – AoUˆt) de Résidént provinciaux de l'Annam au Résidént
Suppérieur en Annam, année 1907. Nguồn tài liệu được truy xuất từ Phông Khâm sứ
Trung Kỳ. Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. KH 253 RSA/RP.
Résidence de Hà Tĩnh, Interrogatiore de Tác Lanh (Résumé). RP. Nguồn tài liệu được truy
xuất từ Phông Khâm sứ Trung Kỳ. Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. KH 240 RSA.
Résidence de Ha Tinh: Rapport A.M.Le. Résidence Supérieur Vinh. Nguồn tài liệu được truy
xuất từ Phông Khâm sứ Trung Kỳ. Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. KH 240 RSA/.
Société D’enseignement Mutuel (Fondée le 5 Mai 1907) Statuts de la Société. (1933) IMP.
NORD – ANNAM 67, Av. Maréchal Foch Vinh.
Ngày nhận bài: 12/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019
HỘP THƯ BẠN ĐỌC
Kính gửi Quý bạn đọc,
Trong số Tạp chí này, chúng tôi xin giới thiệu đến Quý bạn đọc và các nhà khoa
học những bài nghiên cứu thuộc lĩnh vực Khoa học Xã hội và Giáo dục.
Ban Biên tập Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn xin trân trọng thông báo đã
nhận được bài viết của rất nhiều nhà khoa học ở các chuyên ngành và lĩnh vực khác
nhau. Ban Biên tập chân thành cảm ơn sự cộng tác của Quý vị. Vì điều kiện giới hạn
về số lượng bài trong mỗi số, chúng tôi xin được chọn đăng ở các số Tạp chí tiếp
theo.
Với những bài viết đã chọn đăng trong số Tạp chí này, chắc chắn vẫn còn thiếu
sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý bạn đọc để có thể ngày
một nâng cao hơn nữa chất lượng cho Tạp chí.
Một lần nữa, Ban Biên tập Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn chân thành cảm
ơn Quý bạn đọc, các nhà khoa học trong cả nước và mong muốn được đón nhận sự
tín nhiệm lâu dài của Quý vị trong tương lai.
Trân trọng.
BAN BIÊN TẬP
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 43_0884_2214948.pdf