Tài liệu Hoạt động học tập của sinh viên dưới góc độ tiếp cận sự gắn kết của sinh viên vào giờ học trên lớp: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0083
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 6A, pp. 123-130
This paper is available online at
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN DƯỚI GÓC ĐỘ TIẾP CẬN
SỰ GẮN KẾT CỦA SINH VIÊN VÀO GIỜ HỌC TRÊN LỚP
Nguyễn Hoàng Đoan Huy
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Theo quan niệm dạy học hiện đại, hoạt động học trên lớp của sinh viên có thể
được hiểu là sự gắn kết của họ vào các nhiệm vụ học tập trên lớp, biểu hiện ở ba khía cạnh
bao gồm nhận thức, hành vi và thái độ. Trong môi trường đào tạo theo học chế tín chỉ, với
những giờ học được giảng viên thực hiện một cách hợp lí theo tiếp cận sư phạm tương tác,
bên cạnh hoạt động tự học, mức độ gắn kết vào hoạt động học tập của sinh viên trên lớp
có thể được xem là yếu tố quan trọng nhất trong việc quyết định chất lượng của giờ học.
Dưới góc nhìn về sự gắn kết đó, hoạt động học tập của sinh viên trên lớp cũng cần được
khái niệm lại một cách phù hợp, trên cơ sở ...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 649 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoạt động học tập của sinh viên dưới góc độ tiếp cận sự gắn kết của sinh viên vào giờ học trên lớp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0083
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 6A, pp. 123-130
This paper is available online at
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN DƯỚI GÓC ĐỘ TIẾP CẬN
SỰ GẮN KẾT CỦA SINH VIÊN VÀO GIỜ HỌC TRÊN LỚP
Nguyễn Hoàng Đoan Huy
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Theo quan niệm dạy học hiện đại, hoạt động học trên lớp của sinh viên có thể
được hiểu là sự gắn kết của họ vào các nhiệm vụ học tập trên lớp, biểu hiện ở ba khía cạnh
bao gồm nhận thức, hành vi và thái độ. Trong môi trường đào tạo theo học chế tín chỉ, với
những giờ học được giảng viên thực hiện một cách hợp lí theo tiếp cận sư phạm tương tác,
bên cạnh hoạt động tự học, mức độ gắn kết vào hoạt động học tập của sinh viên trên lớp
có thể được xem là yếu tố quan trọng nhất trong việc quyết định chất lượng của giờ học.
Dưới góc nhìn về sự gắn kết đó, hoạt động học tập của sinh viên trên lớp cũng cần được
khái niệm lại một cách phù hợp, trên cơ sở đó, xác định cấu trúc của hoạt động học cũng
như phân loại các kiểu học tập, làm căn cứ lí thuyết để đánh giá và nâng cao hiệu quả quá
trình dạy học ở bậc đại học.
Từ khóa: Hoạt động học tập của sinh viên trên lớp, sự gắn kết của sinh viên vào hoạt động
học tập trên lớp.
1. Mở đầu
Học tập thường được xem là hoạt động chủ đạo của sinh viên để chuẩn bị hành trang về
kiến thức, kĩ năng và thái độ nghề nghiệp, giúp họ sẵn sàng bước vào môi trường lao động nghề
nghiệp trong tương lai. Nguyễn Thạc (2009) đã định nghĩa về hoạt động học tập ở đại học là “một
loại hoạt động tâm lí được tổ chức một cách độc đáo của sinh viên nhằm mục đích có ý thức là
chuẩn bị trở thành người chuyên gia phát triển toàn diện sáng tạo và có trình độ nghiệp vụ cao”
[2]. Là một loại hoạt động tâm lí, học tập ở đối tượng sinh viên mang những nét đặc trưng bao
gồm sự căng thẳng mạnh mẽ về trí tuệ, các quá trình tâm lí cấp cao, các hoạt động khác nhau cũng
như nhân cách người sinh viên nói chung. Học tập chỉ thực sự mang lại hiệu quả đối với người học
khi và chỉ khi người đó chủ động, tích cực tập trung vào hành vi và thao tác học. Nói cách khác,
hoạt động học tập với cấu trúc phức tạp bao gồm các yếu tố như nhận thức, thái độ và hành vi là
biểu hiện rõ nét nhất của vấn đề sinh viên tham gia học hay không học. Do vậy, sự tham gia học
tập trên lớp của sinh viên đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc định hướng, hướng dẫn và hỗ
trợ cho sinh viên cách thức tìm kiếm tri thức, hình thành và rèn luyện năng lực nghề cũng như hun
đúc, củng cố tình cảm đối với công việc mình đã lựa chọn.
Ngày nhận bài: 21/2/2015. Ngày nhận đăng: 2/5/2015.
Liên hệ: Nguyễn Hoàng Đoan Huy, e-mail: nguyenhoangdoanhuy@gmail.com.
123
Nguyễn Hoàng Đoan Huy
Theo quan điểm hiện đại, hoạt động học trên lớp của sinh viên, có thể được hiểu là sự tham
gia của sinh viên vào tiến trình dạy học trên lớp, có thể được nhìn nhận dưới 2 góc độ. Thứ nhất
là sự tham gia biểu hiện bên ngoài, bề mặt, thông qua hành vi, cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, hoặc đơn
giản chỉ là sự có mặt của sinh viên trong lớp (classroom participation); và thứ hai là sự gắn kết vào
tiến trình dạy học trên lớp (classroom engagement) thông qua hoạt động tâm lí thực sự đang diễn
ra bên trong họ trong suốt giờ học. Một sinh viên gắn kết với hoạt động trong lớp học có thể được
xem là người đóng vai trò chủ động trong việc học của mình [3]. Đồng tình với quan điểm đó, bài
báo đề cập đến hoạt động học tập dưới góc độ sự gắn kết của sinh viên vào hoạt động học trên lớp,
qua đó khái niệm lại hoạt động học tập trên lớp của sinh viên, cấu trúc lại hoạt động đó, đồng thời,
phân loại các kiểu hoạt động học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm hoạt động học tập trên lớp của sinh viên dưới góc nhìn sự gắn
kết
Trong quá trình phát triển của giáo dục, kể từ khi nhà trường ra đời, hình thức dạy học lớp - bài với
những lớp học nhiều học sinh cùng lứa tuổi và trình độ tương đồng, giáo viên sử dụng kiểu dạy học “thông
báo - đồng loạt” mới có thể hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt toàn bộ nội dung quy định trong
chương trình và kế hoạch giảng dạy do nhà trường quy định. Cũng từ đó, học sinh thường có xu hướng học
theo kiểu thụ động, chú trọng ghi nhớ và ít thực hành, vận dụng và trải nghiệm. Nhận thấy hạn chế và bất
cập trong xu hướng này cũng như thực tế chất lượng đào tạo yếu kém, không đáp ứng yêu cầu của xã hội
đặt ra cho giáo dục, nhu cầu cần phải đổi mới vai trò của người dạy cũng như người học, đặc biệt là nhu
cầu phát huy tính tích cực chủ động học tập của học sinh cũng như thực hiện dạy học phân hoá, quan tâm
đến nhu cầu, khả năng của cá nhân người học... ngày càng trở nên cấp thiết. Các cách tiếp cận, quan điểm,
phương pháp dạy học tích cực trong đó “dạy học lấy người học làm trung tâm” hay “dạy học hướng vào
người học”... ra đã đời xuất phát từ những nhu cầu đó.
Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng, tư tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực, chủ động của người học,
xem người học là chủ thể của quá trình dạy học đã xuất hiện từ rất lâu, ở thế kỉ XVII, A.Kômenski đã viết:
“Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán, phát triển nhân cách... hãy tìm ra phương
pháp cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn”. Tiếp sau đó, rất nhiều nhà giáo dục học như
John Dewey hay Carl Rogers... cũng đề cao nhu cầu, lợi ích của người học, đề xuất việc phát huy vai trò lựa
chọn nội dung học tập cũng như vai trò tự tìm tòi, nghiên cứu của người học. Quan điểm dạy học hướng vào
người học dần hình thành, phát triển và hiện vẫn được xem là cách tiếp cận đúng đắn và được sử dụng rộng
rãi trong các nền giáo dục tiên tiến ở các quốc gia trên thế giới.
Theo đó, với cách tiếp cận dạy học hướng vào người học, toàn bộ quá trình dạy học (giáo dục) đều
hướng vào nhu cầu, khả năng, lợi ích của người học. Mục tiêu của dạy học là trang bị cho học sinh năng lực
và phẩm chất để sớm thích ứng với cuộc sống xã hội, hoà nhập và phát triển cộng đồng; đặc biệt là tôn trọng
nhu cầu, lợi ích, khả năng và tiềm năng của người học. Nội dung dạy học không chỉ là kiến thức phổ thông
và khoa học mà cái chính là phương pháp tìm kiếm và tiếp thu kiến thức trong bể tri thức rộng lớn đang
ngày càng gia tăng của nhân loại; bên cạnh đó, dạy học còn chú trọng hình thành và rèn luyện hệ thống kĩ
năng thực hành, vận dụng cũng như phát triển các năng lực phát hiện và giải quyết các vấn đề thực tiễn. Với
mục tiêu và nội dung đó, quá trình dạy học theo quan điểm này cũng phải sử dụng hệ thống phương pháp
dạy học tích cực trong đó chủ yếu tổ chức cho người học hoạt động độc lập hoặc theo nhóm, qua đó các em
có thể tự giác và chủ động chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng và thái độ đồng thời rèn luyện phương pháp tự học
cũng như làm quen với hoạt động nghiên cứu khoa học. Và như vậy, giờ học trên lớp của sinh viên trở thành
khoảng thời gian các em thực sự tham gia vào hoạt động học tập, là chủ thể của quá trình dạy học dưới sự
124
Hoạt động học tập của sinh viên dưới góc độ tiếp cận sự gắn kết...
hướng dẫn và điều chỉnh của giảng viên.
Trong các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, hoạt động học tập của sinh viên trên lớp được
tiếp cận với nhiều cách thức và khía cạnh khác nhau. Ở Việt Nam, hoạt động học tích cực, chủ động được
nghiên cứu tập trung vào phương hướng, phương pháp, cách thức, công nghệ cụ thể mang tính sư phạm
nhằm tạo ra hành vi và thao tác học tập, kích thích và nâng cao tính tích cực của chủ thể, đặc biệt là tính
tích cực nhận thức của người học. Theo đó, mảng đề tài về tính tích cực học tập được nghiên cứu trên nhiều
đối tượng bao gồm sinh viên đại học. Trên bình diện chung, tính tích cực học tập được nhìn nhận dưới góc
độ là phẩm chất nhân cách của người sinh viên, thể hiện ý thức tự giác của họ về mục đích của hoạt động
học tập, thông qua đó sinh viên huy động ở mức cao các chức năng tâm lí nhằm tổ chức và thực hiện hoạt
động học tập có hiệu quả (Đỗ Thị Coong 2003, Lê Thị Xuân Liên 2007, Phạm Văn Tuân 2011) [4,5,6]. Và
như vậy, hoạt động học thực sự chỉ được đề cập đến trên bình diện là một thuộc tính tâm lí của nhân cách
thiêng về nhận thức, chưa bao hàm yếu tố xúc cảm, thái độ và hành vi của người học; đây có thể được xem
là một hạn chế trong các nghiên cứu ở nước ta hiện nay về hoạt động học của sinh viên.
Theo tiếp cận hiện đại, trong các công trình nghiên cứu đã và đang được thực hiện trên thế giới, các
nhà giáo dục học nghiên cứu về hoạt động học tập của sinh viên trên lớp theo tiếp cận “sự gắn kết của sinh
viên vào hoạt động học” (student engagement in classroom). Ở đây, hoạt động học của sinh viên, hay nói
cách khác là sự gắn kết học tập của sinh viên được định nghĩa là “sự tham gia vào hoạt động giáo dục, ở
cả trong và ngoài lớp học, nhằm đạt được những kết quả có thể đo lường được” (Kuh và cộng sự 2007), và
là “mức độ sinh viên tham gia vào các hoạt động giáo dục được kết nối với những kết quả học tập có chất
lượng cao” (Krause và Coates 2008), hay là “hiệu quả của những nỗ lực bản thân sinh viên cống hiến cho
các hoạt động giáo dục nhằm góp phần trực tiếp tạo ra các kết quả họ mong đợi” (Hu và Kuh 2001). Coates
(2007) cho rằng sự gắn kết học tập của sinh viên là “một cấu trúc tương đối rộng trong đó sinh viên nỗ lực
trong lĩnh vực học thật để đạt mục tiêu đã định”, bao gồm các yếu tố như học tích cực và hợp tác, tham
gia vào các hoạt động học thuật mang tính thách thức, giao tiếp chính thức với cán bộ giảng dạy và cán bộ
trường đại học, tham gia trải nghiệm các hoạt động giáo dục, cảm thấy thuộc về và được hỗ trợ từ cộng đồng
học tập trong nhà trường [7].
Trong công trình nghiên cứu xây dựng hệ thống phiếu điều tra bằng bảng hỏi (survey) với tên gọi
Điều tra quốc gia về sự tham gia của sinh viên (NSSE), được tiến hành hằng năm trong các trường đại học
công lập và tư thục tại Hoa Kì, Canada và hiện được đưa vào sử dụng tại Úc, các nhà nghiên cứu đã định
nghĩa về sự gắn kết học tập của sinh viên như là “trạng thái tham gia của người học vào các hoạt động và
các điều kiện có khả năng kiến tạo việc học có chất lượng cao”, và được đánh giá trên 6 khía cạnh gồm:
Thách thức học thuật, học tích cực, tương tác giữa sinh viên và cán bộ giảng dạy, trải nghiệm hoạt động giáo
dục, môi trường học tập được hỗ trợ và học đi đôi với vận dụng vào nghề nghiệp.
Trong phạm vi lớp học, sự gắn kết của sinh viên vào hoạt động học trong giờ học còn được hiểu là
“một quá trình người học chủ động gắn hoạt động của cá nhân vào hoạt động học tập trên lớp với những
biểu hiện cụ thể ở các khía cạnh bao gồm: Tâm thế sẵn sàng cho hoạt động học, tham gia đóng góp vào
thảo luận trên lớp, các kĩ năng làm việc theo nhóm, các kĩ năng giao tiếp và sự hiện diện trên lớp” (Dancer
& Kamvounias, 2005) [8]. Trong một quan niệm khác, Fritschner (2000) đã chỉ ra được 6 mức độ tham gia
hoạt động học trên lớp của sinh viên, từ mức đơn thuần chỉ là sự hiện diện đến mức cao nhất là trình bày
bằng ngôn ngữ nói trước toàn thể lớp học [9]; và trong giờ học, sinh viên có thể lựa chọn im lặng hoặc tham
gia hoạt động bằng cách thể hiện qua ngôn ngữ nói như đặt câu hỏi, tham gia thảo luận, trình bày trước
nhóm, trước lớp,... nhưng khi sinh viên lựa chọn im lặng không có nghĩa là không tham gia vào hoạt động
học trên lớp [10].
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu khác cũng đã chỉ ra những quan niệm khác nhau về các yếu tố thành
phần tạo nên sự gắn kết. Chẳng hạn như, mô hình 2 thành phần bao gồm hành vi (sự tham gia, nỗ lực,
thực hành một cách tích cực,...) và xúc cảm (hứng thú, cảm giác thuộc về, giá trị, các xúc cảm tích cực,...)
(Finn 1989, Marks 2000, Skinner, Kindermann, & Furrer 2009); hoặc 3 thành phần bao gồm hành vi, xúc
cảm và nhận thức (Archaumbault 2009, Fredricks 2004, Jimerson 2003, Wigfield 2008); hoặc 4 thành phần
125
Nguyễn Hoàng Đoan Huy
bao gồm học thuật, hành vi, nhận thức và tâm lí (Appleton, Christenson, Kim, & Reschly 2006, Reschly &
Christenson 2006) [11]. Mặc dù vẫn tồn tại những khác nhau cơ bản về số lượng và dạng thức của các thành
phần cấu thành nên sự gắn kết học tập của sinh viên trên lớp, các nhà nghiên cứu cũng đã có sự thống nhất
tương đối về quan niệm cấu trúc đa thành tố của thuật ngữ này.
Xuất phát từ phân tích trên, chúng tôi lựa chọn cách hiểu về thuật ngữ sự gắn kết của sinh viên vào
hoạt động học như là một trạng thái hoạt động của người học bao gồm các mặt về nhận thức, thái độ và
hành vi, khi người đó tham gia một cách tích cực, chủ động và sáng tạo vào các hoạt động diễn ra trên lớp
nhằm đạt được các mục tiêu học tập một cách hiệu quả.
Trên cơ sở lí thuyết dạy học lấy người học làm trung tâm và lí thuyết về sự gắn kết vào hoạt động
học tập của sinh viên như đã trình bày ở trên, chúng tôi thống nhất quan niệm hoạt động học trên lớp của
sinh viên như sau:
Hoạt động học trên lớp của sinh viên là hoạt động trung tâm của quá trình dạy học trên lớp ở bậc
đại học, trong đó sinh viên tham gia và gắn kết với các nhiệm vụ học tập trên cả ba bình diện bao gồm nhận
thức, hành vi và thái độ.
2.2. Cấu trúc hoạt động học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp
Với khái niệm hoạt động học như trên, mô hình cấu trúc của hoạt động học tập của sinh viên trong
giờ học có thể được minh hoạ ở Hình 1 như sau:
Hình 1. Cấu trúc hoạt động học tập của sinh viên trên lớp
Theo đó, các yếu tố cấu thành nên sự gắn kết học tập của sinh viên trên lớp bao gồm 3 khía cạnh:
Về mặt hành vi, về mặt thái độ và về mặt nhận thức.
Về mặt hành vi, đây có thể xem là khía cạnh biểu hiện rõ nét nhất của hoạt động học tập của sinh
viên trong giờ học trên lớp, bao gồm cả hoạt động mang tính chất học thuật lẫn tính chất xã hội. Có 3 thành
phần hoat động học tập được biểu hiện về mặt hành vi: Hành động tích cực (tuân thủ nội quy lớp học),
tham gia vào các nhiệm vụ học tập (chú ý, tập trung, kiên trì, nỗ lực, trình bày thắc mắc, đóng góp cho thảo
luận...) và tham gia vào các hoạt động khác của lớp (chơi trò chơi, giúp đỡ bạn bè trong học tập...). Như vậy,
với những phương pháp và kĩ thuật dạy học được giảng viên sử dụng trong giờ học, có thể dễ dàng quan
sát được sinh viên học hay không học thông qua những hành vi thông thường như sau: Hiện diện trong lớp,
lắng nghe lúc giảng viên thuyết trình hoặc bạn bè thảo luận, ghi chép bài học, làm bài tập, tham gia thảo
luận, trình bày trước nhóm, cả lớp, tham gia các hoạt động được giảng viên tổ chức trên lớp,... Ngoài ra,
hoạt động học tập trên lớp của sinh viên còn cho thấy sự gắn kết thực sự hay không còn bộc lộ qua mối quan
hệ tương tác giữa sinh viên với giảng viên và giữa sinh viên với nhau.
Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, sinh viên im lặng và không bộc lộ một hay nhiều hơn trong số
những biểu hiện đã liệt kê ở trên không đồng nghĩa với việc họ không gắn kết vào hoạt động học tập. Bởi
vì, sinh viên tham gia hoạt động học hay không còn có thể biểu hiện trên khía cạnh xúc cảm. Đó là những
126
Hoạt động học tập của sinh viên dưới góc độ tiếp cận sự gắn kết...
biểu hiện về mặt thái độ của sinh viên trong suốt giờ học khi họ cho thấy mức độ chú ý, sự hứng thú hay thờ
ơ, háo hức hay buồn chán, và cảm giác thuộc về hay không thuộc về cộng đồng học tập trong lớp thông qua
quá trình tương tác với giảng viên, bạn cùng lớp, hoặc những biểu hiện của ngôn ngữ cơ thể như nét mặt,
ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ...
Về mặt nhận thức, đây là khía cạnh khó quan sát nhất nhưng lại chính là thành phần quan trọng nhất
trong hoạt động học tập của sinh viên trên lớp. Chúng tôi cho rằng, thành tố này tương đồng với quan niệm
về tính tích cực nhận thức vốn được nghiên cứu rộng rãi trong ngành Tâm lí học, Giáo dục học ở nước ta
hiện nay. Sinh viên biểu hiện tính tích cực nhận thức khi họ huy động các quá trình tâm lí như tư duy, tưởng
tưởng, trừu tượng hoá, tổng hợp, phân tích, sáng tạo,... vào hoạt động học của mình, họ tìm cách để đáp ứng
những yêu cầu, đòi hỏi của giảng viên về bài học và cố gắng vượt qua các thử thách do vấn đề học thuật
mang lại. Như vậy, sự gắn kết về mặt nhận thức là sự tổng hợp của 2 thành phần chính: Tâm lí và nhận thức.
Thành tố tâm lí bao gồm mục tiêu, động cơ học, và khả năng tự quản lí của người học liên quan đến những
vấn đề như tâm thế sẵn sàng, nỗ lực cố gắng để thông hiểu các vấn đề khoa học trừu tượng cũng như hình
thành và rèn luyện các kĩ năng nghề nghiệp phức tạp. Thành tố nhận thức liên quan đến khả năng tự quản lí
của người học về đến những vấn đề như ý thức học tập, vận dụng các phương pháp học phù hợp cũng như
có chiến lược trong tư duy và học tập. Nói cách khác,
Các khía cạnh biểu hiện hoạt động học tập của sinh viên còn có thể được phân chia thành các mức
độ khác nhau qua đó cho thấy người học tích cực, không tích cực, hay thậm chí có những biểu hiện tiêu cực
trong việc thực hiện các thao tác học trên lớp. Bảng 1 cho thấy một số ví dụ về các mức độ như sau:
Bảng 1. Ví dụ về mức độ tham gia hoạt động học tập của sinh viên
Gắn kết tích cực Không gắn kết Tham gia tiêu cực.
Mặt hành vi
Có mặt ở lớp, tham
gia các hoạt động
được tổ chức trên lớp
một cách nhiệt tình,
tích cực
Vắng mặt trong giờ học
không lí do
Tẩy chay, ngắt quảng hoặc
phá phách khi giảng viên và
cả lớp đang thực hiện hoạt
động dạy và học.
Mặt thái độ Hứng thú với các
hoạt động trên lớp
Buồn chán, ủ rủ trong
giờ học
Gắt gỏng, cáu kỉnh, dè bỉu
giảng viên hoặc bạn bè.
Mặt nhận thức
Đáp ứng hoặc vượt
qua yêu cầu của
giảng viên về các
nhiệm vụ học tập
trên lớp
Không thực hiện các
nhiệm vụ học tập, hoặc
thực hiện không đầy đủ
Thay đổi, làm khác đi so với
yêu cầu của giảng viên và tổ
chức của nhóm khi thực hiện
các nhiệm vụ học tập trên
lớp.
Như vậy, một sinh viên có thể bộc lộ cho thấy một số biểu hiện ở mức độ tích cực về một hoặc nhiều
khía cạnh của hoạt động học tập nhưng đồng thời cũng có thể cho thấy sự không gắn kết hoặc thậm chí tham
gia một cách tiêu cực ở các khía cạnh khác. Chẳng hạn, trong lớp học thuộc học phần Xã hội học, một sinh
viên nữ chăm chỉ tham gia tất cả các hoạt động học trên lớp như lắng nghe giảng viên thuyết trình, đặt câu
hỏi cho giảng viên về những vấn đề chưa hiểu, tham gia thảo luận với bạn cùng lớp... là những biểu hiện về
mặt hành vi của sự gắn kết của sinh viên này trong hoạt động học trên lớp. Tuy vậy, trong suốt buổi học,
người sinh viên bộc lộ ánh mắt thờ ơ và nét mặt không hứng thú. Không những vậy, khi tham gia vào hoạt
động thảo luận nhóm, cô đã không đồng ý sự phân công của nhóm khi được đề xuất là người thuyết trình
sản phẩm hoạt động của cả nhóm vì cô cho rằng giảng viên giao nhiệm vụ không công bằng cho các nhóm.
Đó là một ví dụ cho thấy sự phong phú và đa dạng về mức độ gắn kết của sinh viên trong hoạt động học
tập trên lớp. Thấy được một cách cụ thể và chi tiết từng loại mức độ trong mỗi khía cạnh của sự gắn kết này
sẽ cho phép giảng viên cũng như cán bộ giáo dục có được cái nhìn chính xác và khách quan hơn trong việc
đánh giá hoạt động học tập của sinh viên nói riêng và đánh giá chất lượng quá trình dạy học nói chung.
127
Nguyễn Hoàng Đoan Huy
Bên cạnh đó, hoạt động học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp còn được xem xét dưới 2 góc độ
bao gồm: Tính chất học thuật (academic) và tính chất xã hội (social) (Coates 2007) [12]. Sự phân chia này
được chúng tôi sử dụng làm cơ sở để phân loại các kiểu gắn kết của sinh viên sẽ trình bày ở phần tiếp theo.
Từ những phân tích ở trên, có thể kết luận rằng, hoạt động học tập của sinh viên trong giờ học trên
lớp theo tiếp cận lí thuyết “dạy học lấy người học làm trung tâm” và lí thuyết “sự gắn kết vào hoạt động học
của sinh viên” có thể được hiểu là một tổ hợp các biểu hiện về mặt nhận thức, thái độ và hành vi của sinh
viên khi họ tham gia một cách tích cực, chủ động và sáng tạo vào các hoạt động diễn ra trong giờ học nhằm
đạt được các mục tiêu học tập một cách hiệu quả và chất lượng.
2.3. Các kiểu hoạt động học tập của sinh viên trong giờ học
Từ khái niệm và cấu trúc đã phân tích ở trên, chúng tôi phân chia hoạt động học tập của sinh viên
trên lớp thành những kiểu được minh hoạ ở Hình 2 dưới đây.
Hình 2. Các hoạt động học của sinh viên trong giờ học trên lớp
Khi phân chia cấu trúc hoạt động học tập của sinh viên trong giờ học thành 2 yếu tố chính mang tính
chất học thuật và tính chất xã hội, những kết hợp giữa các mức độ cao hay thấp của 2 ngưỡng này cho thấy
rõ các kiểu học tập sinh viên thực hiện trong giờ học trên lớp.
- Kiểu học tập tích cực. Đây là hình thức trong đó người học tham gia sâu vào hoạt động học để
trang bị kiến thức khoa học, tri thức chuyên môn và kĩ năng nghề nghiệp đồng thời phát triển các kĩ năng xã
hội khác như làm việc nhóm, giao tiếp, thuyết trình trước đám đông, rèn luyện khả năng lãnh đạo... Những
sinh viên thuộc loại này thường không ngần ngại tiếp xúc với giảng viên cũng như bạn cùng lớp, họ xem
lớp học là môi trường thích hợp, được hỗ trợ và đầy thử thách để tạo điều kiện cho họ phát huy và phát triển
năng lực của bản thân.
- Kiểu học tập độc lập. Sinh viên tham gia vào hoạt động học trên lớp một cách độc lập cho thấy
tinh thần học thuật cao độ nhưng cách thức tiếp cận với hoạt động học theo hướng hoà nhập với tập thể lại
tương đối hạn chế. Họ có thể rất chăm đến lớp, chú ý, lắng nghe giảng viên thuyết trình, thực hiện đầy đủ
các yêu cầu về nhiệm vụ học tập... Tuy nhiên, trong mối quan hệ tương tác với giảng viên cũng như với bạn
học cùng lớp, họ tỏ ra e ngại hợp tác, kĩ năng giao tiếp hạn chế làm họ không phát huy được vài trò chủ
động của mình trong việc phát triển các kĩ năng xã hội cần thiết.
- Kiểu học tập tập thể. Với thế mạnh về khả năng hoà nhập tốt với tập thể thông qua năng lực giao
tiếp và tính tích cực, chủ động trong tham gia hoạt động, sinh viên thuộc kiểu học tập tập thể thường cho
thấy xu hướng linh hoạt và năng động trong việc chứng tỏ cái tôi của mình trong đám đông. Tuy vậy, càng
nghiêng về các kĩ năng mềm, họ lại càng ít lưu tâm đến bản chất của việc học là trang bị kiến thức và rèn
luyện năng lực chuyên môn. Tính chất học thuật không rõ nét trong sự tham gia này có thể làm kết quả học
tập của người học không cao như mong đợi.
128
Hoạt động học tập của sinh viên dưới góc độ tiếp cận sự gắn kết...
- Kiểu học tập thụ động. Đây là hình thức học tập trong đó sinh viên không bộc lộ hứng thú, tính
tích cực nhận thức đối với nội dung học tập cũng như cách thức tiến hành hoạt động học. Sự thờ ơ việc trang
bị tri thức, rèn luyện năng lực và phát triển các kĩ năng xã hội làm cho họ không cảm thấy mình thuộc về
cộng đồng học tập trong lớp học. Sự im lặng này không chỉ biểu hiện ở bề mặt qua hành vi mà ngay cả về
mặt hành vi và nhận thức đều không tích cực, chủ động. Kiểu gắn kết này có thể dễ dành nhận thấy và cần
thiết được nghiên cứu để xây dựng tác động phù hợp.
Sự phân chia các kiểu học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp chỉ mang tính tương đối và biểu
hiện của các kiểu học của sinh viên cũng hết sức đa dạng và phong phú tuỳ thuộc vào từng điều kiện khách
quan và chủ quan khác nhau; trong đó, các tác nhân bao gồm người dạy, nội dung bài học, phương pháp dạy
học, tâm trạng và sức khoả của sinh viên cũng có những ảnh hưởng nhất định đến kiểu học tập của từng
sinh viên trong lớp.
Việc xác định kiểu học tập của sinh viên trong giờ học có vai trò quan trọng đối với người giảng
viên. Bởi vì trên cơ sở nắm bắt được đối tượng của hoạt động dạy mà mình hướng đến, xác định chính xác
và kịp thời kiểu học của từng đối tượng, sẽ giúp cho giảng viên có thể thiết kế và điều chỉnh phương pháp
giảng dạy, nội dung bài học cũng như cách thức tiếp cận để phù hợp hơn với lớp học, mang lại hiệu quả cho
quá trình dạy học trong đó nâng cao chất lượng học tập của sinh viên là mục tiêu trên hết.
3. Kết luận
Hoạt động học tập của sinh viên trong giờ học trên lớp đóng vai trò hết sức quan trọng đối với chất
lượng giáo dục đại học. Quan niệm hiện đại về hoạt động học tập của sinh viên theo tiếp cận sự gắn kết của
học trong giờ học trên lớp cho thấy bản chất của quá trình học tập của sinh viên biểu hiện ở 3 khía cạnh bao
gồm nhận thức, hành vi và thái độ của họ đối với các nhiệm vụ học tập trên lớp. Nghiên cứu nội hàm của
các khía cạnh này, đồng thời xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chúng có thể xác định những tiêu chí đánh
giá hoạt động học của sinh viên trên lớp, qua đó có thể đánh giá được hiệu quả của quá trình dạy học cũng
như cải thiện được chất lượng hoạt động học của sinh viên khi ngồi trên ghế nhà trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Charles T. Towley, 2005. Tập huấn đào tạo tín chỉ. Trường Đại học Vinh.
[2] Nguyễn Thạc, Phạm Thành Nghị, 2009. Tâm lí học sư phạm đại học. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[3] Weaver and Qi, qtd. inRogers, Susan L., 2013. Calling the question: Do college instructors actually
grade participation? College Teaching, pp. 11-22.
[4] Đỗ Thị Coong, 2003. Nâng cao tính tự giác, tích cực trong hoạt động học tập của sinh viên. Tạp chí
Tâm lí học, số 3, tr. 60-63.
[5] Lê Thị Xuân Liên, 2007. Phát huy tính tích cực của học sinh - sinh viên trong dạy học Toán ở các
trường Cao đẳng Sư phạm. Kỉ yếu Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị, tr.14-15.
[6] Phạm Văn Tuân, 2011.Một số biện pháp nâng cao tính tích cực học tập của sinh viên trường Đại học
Trà Vinh. Tạp chí Tâm lí học, số 02, tr.74-78.
[7] Vicki Trowler, 2010. Student engagement literature review. The Higher Education Academy,
Innovation Way. York Science Park, Heslington. https://www.heacademy.ac.uk.
[8] Dancer, D., Kamvounias, P., 2005. Student involvement in assessment: A project designed to assess
class participation fairly and reliably. Assessment & Evaluation in Higher Education, 30, pp. 445-454.
[9] Fritschner, L. M., 2000. Inside the undergraduate college classroom: Faculty and students differ on
the meaning of student participation. The Journal of Higher Education, 71, pp. 342-362. (LR).
129
Nguyễn Hoàng Đoan Huy
[10] Kevin R. Meyer, 2009. Student classroom engagement: Rethinking participation grades and student
silence. Scripps College of Communication.
[11] Jennifer A. Fredricks, Wendy McColskey, 2012. The measurement of student engagement: A
comparative analysis of various methods and students self-report instruments. Handbook of research
on Student engagement. Spinger.
[12] Coates, H., 2007. A Model of online and general campus-based student engagement. Assessment and
evaluation in higher education. 32 (2), pp. 121-141.
ABSTRACT
College student learning in perspective approaching of student engagement in classroom
In modern perspective of teaching theories, college student learning in classroom is also supposed
to be the student engagement in learning tasks during classtime, seen by three aspects including cognitive,
behavioural and affective engagement. To credit based system training situation, along with self-learning,
student engagement plays the most important role in deciding student learning quality. Thus, learning of
student in classroom should be redefined to identify its structure and classtify its types as well, so that they
could be used to evaluate and improve teaching quality in college.
Keywords: Student learing in classroom, student engagement in classroom.
130
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3548_nhdhuy_6854_2193051.pdf