Hình tượng trẻ thơ qua hồi ức về thời thơ ấu trong văn học Việt Nam sau 1975

Tài liệu Hình tượng trẻ thơ qua hồi ức về thời thơ ấu trong văn học Việt Nam sau 1975: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 3 Hình tượng trẻ thơ qua hồi ức về thời thơ ấu trong văn học Việt Nam sau 1975 The image of a young child through childhood memories in Vietnamese literature after 1975 TS. Ngô Thị Ngọc Diệp, Trường Đại học Sài Gòn Ngo Thi Ngoc Diep, Ph.D., Saigon University Tóm tắt Bị chi phối bởi cơ chế hồi ức và sự trải nghiệm, ý thức tự bạch của nhà văn, hình tượng trẻ thơ trong các hồi ức về thời thơ ấu của văn xuôi Việt Nam sau 1975 vừa hiện thân cho một thế giới trong sáng, đẹp đẽ, vừa là những nhân cách trong sự va đập nhiều chiều của cuộc sống, vừa là những cá nhân, cá tính độc đáo. Cái nhìn toàn diện và sâu sắc này giúp nâng cao sự cảm nhận, lí giải về một quãng đời quan trọng của con người, góp phần xây dựng hình tượng trung tâm của văn học thiếu nhi ngày càng sinh động, đầy đặn, có chất sống hơn. Từ khóa: hồi ức, thời thơ ấu, trẻ thơ. Abstract To be dominated by memory mechanism and exp...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 555 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình tượng trẻ thơ qua hồi ức về thời thơ ấu trong văn học Việt Nam sau 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 3 Hình tượng trẻ thơ qua hồi ức về thời thơ ấu trong văn học Việt Nam sau 1975 The image of a young child through childhood memories in Vietnamese literature after 1975 TS. Ngô Thị Ngọc Diệp, Trường Đại học Sài Gòn Ngo Thi Ngoc Diep, Ph.D., Saigon University Tóm tắt Bị chi phối bởi cơ chế hồi ức và sự trải nghiệm, ý thức tự bạch của nhà văn, hình tượng trẻ thơ trong các hồi ức về thời thơ ấu của văn xuôi Việt Nam sau 1975 vừa hiện thân cho một thế giới trong sáng, đẹp đẽ, vừa là những nhân cách trong sự va đập nhiều chiều của cuộc sống, vừa là những cá nhân, cá tính độc đáo. Cái nhìn toàn diện và sâu sắc này giúp nâng cao sự cảm nhận, lí giải về một quãng đời quan trọng của con người, góp phần xây dựng hình tượng trung tâm của văn học thiếu nhi ngày càng sinh động, đầy đặn, có chất sống hơn. Từ khóa: hồi ức, thời thơ ấu, trẻ thơ. Abstract To be dominated by memory mechanism and experience, self-expression consciousness of the writer, the image of a young child through childhood memories in Vietnam’s prose after 1975 is not only the embodiment of a beautiful pure world, the personality in the multi-dimensional collision of life, but also the individual and the unique personality. This comprehensive and insightful view enhances the perception and interpretation of a person’s important lifetime, and contributes to building the central image of children’s literature that is more vivid and powerful. Keywords: memory, childhood, a young child. 1. Mở đầu Trong nền văn xuôi Việt Nam sau 1975, các thể loại sử dụng hồi ức tuổi thơ làm chất liệu nghệ thuật như hồi kí, tự truyện, tiểu thuyết - tự truyện viết về thời thơ ấu (có thể gọi chung là các dạng thức hồi ức tuổi thơ) rất phát triển, khẳng định vị trí ưu trội của nó trong việc thỏa mãn nhu cầu trở về quá khứ, bộc lộ những suy nghĩ, chiêm nghiệm cá nhân. Kí ức tuổi thơ luôn chất chứa bao điều trong sáng, đẹp đẽ với những rung cảm, tình cảm và mơ ước đầu đời. Đó là miền thơ ấu, miền xanh thẳm đã qua nhưng luôn có xu hướng tìm về trong tâm thức mỗi người. Sự phát triển các hồi ức tuổi thơ như một qui luật tất yếu của văn chương trên con đường tìm kiếm sự bằng an cho tâm hồn con người khi xã hội ngày càng bề bộn, phức tạp với nhiều giá trị ảo, nhiều áp lực và sự nhiễu tâm HÌNH TƯỢNG TRẺ THƠ QUA HỒI ỨC VỀ THỜI THƠ ẤU TRONG VĂN HỌC VI T NAM SAU 1975 4 Trong hành trình quay về thời thơ ấu, các nhà văn đã làm sống dậy tuổi thơ của mình và bao người khác. Bị chi phối bởi cơ chế hồi ức và sự trải nghiệm, ý thức tự bạch của nhà văn, trẻ thơ vừa hiện thân cho một thế giới trong sáng, đẹp đẽ, vừa là những nhân cách trong sự va đập nhiều chiều của cuộc sống, vừa là những cá nhân, cá tính chân thật và gần gũi. Cái nhìn toàn diện và sâu sắc này giúp nâng cao sự cảm nhận, lí giải về một quãng đời quan trọng của con người, góp phần xây dựng hình tượng trung tâm của văn học thiếu nhi ngày càng sinh động, đầy đặn, có chất sống hơn. 2. Nội dung 2.1. Trẻ thơ hiện thân cho thế giới trong sáng, đẹp đẽ Trẻ thơ là hiện thân cho những gì tốt đẹp, thánh thiện nhất, đó không phải là cái nhìn mới mẻ trong văn học, bởi với nhà văn các em luôn là “thế giới thần tiên, trong sạch chỉ có cái đẹp và vươn tới cái đẹp” (Định Hải, Trả lời phỏng vấn báo Thể thao và Văn hóa, ngày 24/8/2008), [1]. Tuy nhiên, với các dạng thức hồi ức, khi đắm mình trong màn sương hoài niệm với bao xúc cảm yêu thương, tiếc nhớ, vẻ đẹp của trẻ thơ càng được tô đậm, lung linh hơn: “Tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương” (Vũ Thư Hiên, Lời giới thiệu “Miền thơ ấu”), [2]. Nói đến trẻ thơ bao giờ ta cũng hình dung về một thế giới hồn nhiên, trong sáng và đầy sôi nổi, đam mê. Nét thơ ngây, đáng yêu của các em luôn được ống kính hồi tưởng của nhà văn bắt lấy trước tiên. Trong Khúc đồng dao lấm láp, Kao Sơn rất tinh tế, dí dỏm khi phát hiện cái ấm ức ngây thơ của một chú bé sơ sinh khi không hiểu sao những gì mình thích đều bị giật ra, bị treo lên: “Tôi đúng là bị biến thành con chó, chỉ được phép giương mắt nhìn những thứ mà mình thích, nhưng không thể gặm mõm vào được” [19, tr.14]. Tuổi thơ dữ dội - bản di chúc chiến sĩ của Phùng Quán, khắc họa hình ảnh một cậu bé Mừng thật thà khai “biết bồng em” khi xin vào Vệ quốc đoàn, lại còn tưởng mình được giao nhiệm vụ bồng tù binh về nộp cấp chỉ huy nên lo lắng: “Nhưng thằng Tây to rứa em sợ bồng không nổi”! [18, tr.22] Thế giới tuổi thơ luôn hấp dẫn với những sinh hoạt, vui chơi đầy hào hứng. Kí ức các nhà văn mở ra cả một thế giới trò chơi và những thú vui cuốn hút như chơi trốn tìm, ô ăn quan, giải gianh, câu công cống, đá dế, bẫy cò, câu cá, thả diều, đánh trận giả, tắm suối, xem hội làng, nghe kể chuyện tàu, chuyện ma, trong đó không thiếu những chuyến “phiêu lưu”, những trò nghịch dại (Tuổi thơ im lặng, Miền thơ ấu, Tiếng vọng tuổi thơ, Khúc đồng dao lấm láp). Trong Miền xanh thẳm, Thiện và Bảo có thể đội mưa, chịu rét cả đêm để bắt “cá cóng” hay lũ ếch béo mầm. Hai cô bé Bê và Loan có cả một kho tàng bí mật giấu trên đảo Hoa Vàng và thường xuyên trốn mẹ bơi thuyền vượt sông để thăm nó (Hành trình ngày thơ ấu) Có thể nói, các cậu bé, cô bé lên chín, lên mười luôn tạo cho mình một thế giới riêng để đắm mình trong đó với bao thích thú, say mê và mơ mộng. Tuổi thơ rất giàu tình cảm, giàu lòng trắc ẩn. Bản tính thiện, lòng tốt luôn sẵn có trong các em để sẻ chia với những người xung quanh. Cuốn hồi kí - tự truyện Tuổi thơ im lặng thật sự làm ta xúc động với hình ảnh một cậu bé nhạy cảm, nhân hậu khi biết quan tâm đến những cụ già không tên sống còm cõi ở chùa, thương những chú mõ buồn tủi vì luôn bị coi thường, xót xa cho những con người tha hương, tàn tật, NGÔ THỊ NGỌC DI P 5 cô đơn như bà Vinh, bà Sứt, ông Đống, là “khổ chủ” của những nấm mồ vô chủ: “Mấy ngôi mộ bên đường lạnh tanh! Mùa nước, mồ mả bị ngập lút. Các ông các bà này lại bị chết một lần nữa” [15, tr.175]. Còn bao nhiêu gương mặt trẻ thơ giàu tình cảm, thánh thiện hiện rõ trong kí ức nhà văn. Đó là một cậu bé Thư biết yêu thương những con người già nua, nghèo khó, cơ nhỡ như ông Nhiêu Tuất, cô Thiệp, cô Nhất, chú Khóa (Miền thơ ấu); cô bé Bê dành tình cảm chân thành cho những con người có cảnh ngộ đáng thương như Ly, Đào Ca, Dũng còm, chú bé Cau và người mẹ tàn tật (Hành trình ngày thơ ấu); hành động vét cả nồi cơm nguội cho bà lão ăn mày cũng cho thấy tấm lòng thơm thảo của cô bé Thảm (Côi cút giữa cảnh đời) Một nét đẹp của tâm hồn trẻ thơ là ước mơ, khát vọng. Hồi ức tuổi thơ đã đi sâu vào đời sống nội tâm, hé lộ những ước mơ riêng tư, thầm kín của các em. Được đến trường tưởng chừng là ước mơ bình dị nhất của mọi đứa trẻ nhưng với mỗi em lại hiện lên trong niềm khao khát và mong mỏi khác nhau. Cô bé Bê đau khổ, luyến tiếc với ước mơ đã trở nên xa vời khi bị đuổi học (Hành trình thời thơ ấu); Cậu bé Duy đến trường với mặc cảm, tủi hờn của một học trò nghèo (Hành trình ngày thơ ấu); những học sinh Cao Bằng phải trải qua bao khó khăn thử thách để chinh phục con chữ (Đường về với mẹ Chữ) Ước vọng tuổi thơ còn mở ra vô tận và niềm khát khao đủ lớn để trong mọi hoàn cảnh các em luôn nuôi dưỡng nó. Những ngày trọ học khổ cực, thiếu thốn nhưng các bạn nhỏ trong Miền xanh thẳm vẫn không ngừng đeo đuổi những ước mơ bay bổng như trở thành kĩ sư địa chất, được làm thủy thủ hay bác sĩ, nhà văn... Chiến tranh cũng không vùi lấp được những ước mơ của trẻ thơ. Trong hành trang mỗi chiến sĩ Vệ quốc đoàn nhí đều có những ước vọng riêng: Hiền muốn theo nghề làm xiếc, Quỳnh sơn ca mơ ước trở thành nhạc sĩ để viết bản nhạc Sông Hương xanh mà mọi người đều yêu thích, Mừng mong mỏi những người mắc bệnh hiểm nghèo đều được chữa khỏi (Tuổi thơ dữ dội). Khát vọng lớn nhất của trẻ thơ là vượt lên chính mình. Mong muốn được đi học và có cuộc sống như bao đứa trẻ bình thường khác đã giúp Vững quyết tâm đứng lên trên đôi chân gần như bại liệt. Nỗ lực, kiên trì luyện tập, học tập trong đau đớn và chua xót, sau cùng cậu bé ốm yếu, tật nguyền ngày nào đã tốt nghiệp đại học y khoa, rồi trở thành nhà văn nổi tiếng (Tuổi thơ khát vọng). Sẽ không hoàn thiện vẻ đẹp của trẻ thơ nếu không nhắc đến cái mạnh mẽ, dũng cảm của lứa tuổi đang muốn khẳng định mình. Chính sự trong sáng, hồn nhiên khiến các em có sức mạnh và sự can đảm kì lạ mà đôi khi người lớn không có được. Người đọc thật sự xúc động và ấn tượng với một Vịnh-sưa tự buộc mình vào cột thu lôi chót vót trên lầu cao để báo tin về kho đạn bí mật của địch. Em đã hi sinh và tạc một tượng đài lịch sử “lồ lộ rực rỡ trên cái nền đỏ chói chang dữ dội ấy, tưởng như chính lửa đã tạc khắc nên” [18, tr.127]; hay nhân vật Thắng gan góc từ những lần đánh nhau với cá sấu đến những trận chiến trực diện với kẻ thù (Cơn giông tuổi thơ); bảy em học sinh Lư, Hồng, Hỏn, Tập, Hoảnh, Tâm, Lạng đã trèo đèo lội suối suốt chín ngày đêm, vượt qua chặng đường dài gần 300 cây số, thường xuyên chống lại trộm cướp, hổ, rắn rết để đến trường (Đường về với mẹ Chữ) Đó là những hình ảnh cứng cỏi, can đảm, thể hiện nghị lực phi thường của trẻ thơ, là những nét đẹp để lại ấn tượng sâu đậm trong kí ức nhà văn. HÌNH TƯỢNG TRẺ THƠ QUA HỒI ỨC VỀ THỜI THƠ ẤU TRONG VĂN HỌC VI T NAM SAU 1975 6 Có thể nói, với cái nhìn tinh tế, nhập thân vào trẻ thơ, hiểu và trân trọng các em, các nhà văn đã khắc họa khá đầy đặn, sinh động vẻ đẹp tuổi thơ. Hồi ức của các tác giả đã làm sống dậy một thế giới hồn nhiên, trong sáng, đầy ắp tình yêu thương, sự ngay thẳng, mạnh mẽ, những hoạt động sôi nổi, những niềm vui bất tận Cảm hứng hồi tưởng, tiếc nhớ, sự ùa về của bao kỉ niệm khó phai càng khiến thế giới đó thêm lung linh, rạng ngời. 2.2. Trẻ thơ - một nhân cách trong sự tác động đa chiều của cuộc sống Nhớ về quãng đời thơ ấu, các nhà văn luôn có ý thức lí giải những bước trưởng thành của mình cũng như quá trình lớn lên của những đứa trẻ khác. Họ quan tâm đến sự tác động của gia đình, xã hội đối với sự phát triển tâm lí, tính cách của trẻ thơ và thông qua mối quan hệ này mà mở ra những suy ngẫm về nhiều vấn đề của cuộc sống. Hồi ức về thời thơ ấu sau 1975 không đặt trẻ thơ trong đời sống tập thể, cộng đồng với các công việc sản xuất và chiến đấu như thường thấy ở các tác phẩm viết cho các em thời kì trước mà xây dựng hình tượng trẻ thơ như những nhân cách trong sự tác động đa chiều của cuộc sống để nhìn nhận đúng bản chất tuổi thơ hơn. Không thể tách rời đời sống trẻ thơ với những biến cố lịch sử, các nhà văn đã ngoái về quá khứ để nhìn rõ gương mặt các em trong chiến tranh. Tuy vẫn đi theo mạch nguồn sử thi, nhưng cảm nhận về chiến tranh của các tác giả đã có chiều sâu hơn. Chiến tranh có tác động lớn đến con người, cả những số phận trẻ thơ. Các em hoặc là chủ nhân của cuộc chiến đấu, hoặc là nạn nhân của chiến tranh, ở góc độ nào cũng ẩn sâu cái đau đớn của nhà văn khi nhân cách trẻ thơ bị những cú va đập dữ dội từ cuộc chiến. Bom đạn chiến tranh luôn đưa đến những mất mát, thiệt thòi, để lại nhiều vết chai, vết sẹo trên thể xác và tâm hồn các em. Tuổi thơ hồn nhiên bị đánh cắp cùng cái yên bình của làng quê khi bọn giặc “bắt mang đi tất cả những người trong làng để xóa dấu vết làng tôi. Chúng giết tất cả những con trâu Trích, trâu Mỡ, trâu Ve để xóa nhòa đồng ruộng tuổi thơ và dĩ vãng của những đứa trẻ con làng quê” [12, tr.38]. Cuộc sống thời chiến căng thẳng, hiểm nghèo in hằn lên dáng dấp, tâm trạng của những đứa trẻ đáng thương: “Em nào cũng đen nhẻm, gầy sắt, ánh mắt mệt mỏi vì đói ngủ, vì phải làm việc quá sức Tính nết các em cũng thay đổi nhiều, không một tiếng cười đùa, không một lời trêu chọc” [18, tr.174]. Những đoạn kí ức như chùng xuống, trĩu nặng tâm trạng đau xót của nhà văn. Với thế hệ thiếu niên dũng cảm cầm súng ra trận, bên cạnh sự ngợi ca, trân trọng, các tác giả không khỏi chua xót khi chiến tranh đã biến các em từ những đứa trẻ non nớt, hồn nhiên thành người lính gan góc, dạn dày. Nhà văn Phùng Quán nhìn lại tuổi thơ của mình cũng là của những đứa trẻ trong thiên sử thi hoành tráng Tuổi thơ dữ dội: “Tôi tưởng chừng mình như không có tuổi thơ Tuổi thơ tôi là một tuổi thơ nghiệt ngã 13 tuổi tôi đã phải cầm lấy khẩu súng ra trận cứu nước cùng với thế hệ cha anh. Vào cái tuổi chơi bi chơi đáo, trèo tường hái trộm quả của nhà chùa thì tôi đã phải nhìn thấy cảnh đầu rơi máu chảy, phải trộm súng vượt ngục. Tất cả những điều này tôi đã kể lại trong tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội” [10, tr.10]. Chiến tranh còn có cả những thử thách khắc nghiệt buộc các em phải đối diện. Các em cũng bị giặc bắt, tra tấn, dở mọi thủ đoạn xấu xa, dù vững vàng vượt qua hay hoang mang dao động, đánh mất mình cũng là điều dễ hiểu. Các em NGÔ THỊ NGỌC DI P 7 cũng có những trăn trở, lựa chọn nghiệt ngã như nỗi khổ tâm vì phải nghi ngờ mẹ của Tuân (Hồi đó ở Sa Kỳ), sự lựa chọn giữa đi nước ngoài học nhạc hay ở lại chiến khu đói rét với những bản nhạc viết trên lá của Quỳnh-sơn ca (Tuổi thơ dữ dội) Đằng sau chiến công, những tấm huy chương còn có cái xô bồ, phức tạp, những trớ trêu, oan trái tác động không nhỏ đến đời sống trẻ thơ. Trong Dòng sông thơ ấu, cậu bé Minh khổ sở vì sự lôi kéo của ông Tư Khởi đang ngả nghiêng theo giáo phái Hòa Hảo. Tác phẩm Tuổi thơ dữ dội cho thấy nỗi oan ức đến tuyệt vọng của cậu bé Mừng khi bị lãnh đạo nghi ngờ. Người mẹ khốn khổ của em đã chết trong đau đớn vì ngỡ con theo Việt gian. Trẻ thơ như cây non mọc thẳng, các em không chịu được bất cứ sự bẻ cong nào! Trong lúc hấp hối, Mừng đã cầu xin khẩn thiết: “Anh ơi, anh đừng nghi em là Việt gian nữa, anh hí”, lời nói “yếu ớt và nhỏ gần như một hơi thở nhưng trong khoảnh khắc ấy đã trùm lấp cả tiếng bom đạn giặc” [18, tr.714-715]. Chỉ bằng chiến công và cái chết, Mừng mới lấy lại được sự trong sáng, ngay thẳng của mình Không chỉ chịu sự tác động của chiến tranh, hồi ức tuổi thơ sau 1975 còn khắc họa hình ảnh trẻ thơ trong mối quan hệ với đời sống xã hội, nhà trường và gia đình. Với cái nhìn chân thực và trải nghiệm sâu sắc, các nhà văn cho thấy mỗi bước chân vào đời của các em không phải lúc nào cũng được chào đón bởi những con người tốt đẹp mà còn có sự hiện diện của bao kẻ xấu xa. Vẫn còn đó những người tốt luôn yêu thương, giúp đỡ, dìu dắt các em như ông lão chăn vịt, ông già Mộc, anh Cao, anh Khiết trong Hành trình ngày thơ ấu, hay cô Đại Bàng, cô Quyên, ông Vinh pháo, cụ Hồn Nhiên, cụ Xương, cụ Tuệ trong Côi cút giữa cảnh đời Song, cũng không ít những con người hiện thân cho cái cái xấu, cái ác tồn tại trong xã hội được các nhà văn mạnh dạn phanh phui. Làng quê của chú bé Khán vẫn còn hiện tượng những chú mõ bị khinh khi, đánh chửi, đến nỗi chú Ất tóc đã bạc vẫn có những đứa trẻ gọi là “thằng Ất”! (Tuổi thơ im lặng). Xung quanh các em còn nhiều kẻ tham tham, ích kỉ, hống hách đáng căm ghét. Cô bé Loan rất ghét lão cai Cân vì lão coi trọng tiền bạc hơn cả con ruột, hơn cả tình nghĩa (Hành trình ngày thơ ấu). Chứng kiến hành động của những kẻ đồi bại, dựa vào quyền thế nhiễu nhương, hãm hại người khác như lão Luông, lão Hứng, cậu bé Duy rùng mình nhận ra: “Thì ra con người ta là vậy, nó, chính nó, nhiều khi lại là thủ phạm gây ra bao nỗi oan khổ, đớn đau cho đồng loại” [16, tr.134] Có thể nói, đối diện với cuộc sống còn nhiều phức tạp, cái xấu cái ác vẫn có cơ hội tồn tại, đòi hỏi các em có một độ trưởng thành nhất định về mặt nhân cách, phải can đảm, mạnh mẽ, có cái nhìn sâu sắc hơn, biết phân biệt cái đúng cái sai, nhận ra người tốt kẻ xấu để học hỏi những điều hay và nguyện đứng bên này của bờ vực xấu xa, tội lỗi. Nhân cách trẻ thơ có sự tác động rất lớn từ nhà trường, đặc biệt là mối quan hệ giữa các em với thầy cô giáo. Trong văn học giai đoạn trước 1975, mối quan hệ giữa người lớn và trẻ em thường đặt ra theo hướng người lớn bao giờ cũng tốt, cũng đúng và trẻ em là đối tượng để dạy bảo, phải tuân theo sự sắp đặt của họ. Quan hệ thầy trò càng thể hiện rõ điều đó. Văn học dành cho thiếu nhi sau 1975 không nhìn nhận mối quan hệ này một cách đơn giản, xuôi chiều bởi không phải giáo viên nào cũng là người thầy đáng kính để xứng đáng nhận sự trân trọng, biết ơn của học sinh. Bên cạnh những người thầy giỏi, nhân hậu, HÌNH TƯỢNG TRẺ THƠ QUA HỒI ỨC VỀ THỜI THƠ ẤU TRONG VĂN HỌC VI T NAM SAU 1975 8 công bằng và tâm huyết trong dìu dắt các em (thầy Khang trong Tuổi thơ khát vọng, “bố Thế” trong Hành trình ngày thơ ấu, cô Lựu, thầy Lương trong Tiếng vọng tuổi thơ), còn có những thầy cô kém cỏi cả chuyên môn lẫn phẩm chất, làm tổn thương trẻ thơ, để lại những ấn tượng nặng nề về quãng đời học sinh. Trẻ em rất nhạy cảm trước những đối xử không công bằng của thầy cô giáo. Cậu bé Duy năm tuổi đã tủi thân, tức giận và giữ mãi ấn tượng không tốt đẹp về cô giáo vỡ lòng của mình: “Tôi không có quần áo đẹp, không có đồ chơi, không được cô giáo Thìn yêu chiều, chăm sóc như nhiều đứa” [16, tr.98]. Thầy cô cũng có những kẻ hám tiền, hám quyền mà đánh rơi lòng tự trọng; quấy nhiễu, tán tỉnh rồi đe nẹt, trù úm học sinh; lộng quyền, đổi trắng thay đen, lạnh lùng, tàn nhẫn (cô Tuyết trong Côi cút giữa cảnh đời, Thầy Gia, bà hiệu trưởng trong Hành trình ngày thơ ấu) Những người thầy, người cô như thế chẳng những không dạy dỗ được điều gì tốt đẹp mà còn cản trở con đường học hành của các em. Chính bà hiệu trưởng trong Hành trình ngày thơ ấu đã dành cho Bê mức kỉ luật cao nhất là đuổi học và thông báo toàn trường cấp ba trong tỉnh, dập tắt khát khao đến trường và hất em ra ngoài xã hội một cách thô bạo: “Bà vĩnh viễn buộc tôi thôi học vì không một trường nào dám nhận tôi nữa. Bà đã chặn tất cả các ngả đường phía trước đời tôi” [14, tr.98] Có thể nói, nhà trường với những thầy cô giáo đáng kính và cả những kẻ không đáng làm thầy đều tác động lớn đến nhân cách học sinh. Các em học được bao điều hay lẽ phải từ những thầy cô có phẩm chất cao quí và chịu nhiều ấm ức, đau khổ trước cái bất công, phải vươn lên đấu tranh với chúng. Tuy nhiên, các nhà văn không khỏi chua xót khi khắc họa hình tượng trẻ thơ với những thương tổn, đổ vỡ về thầy cô giáo vốn là “tượng đài” đẹp đẽ trong lòng học sinh. Mạnh dạn thể hiện mặt trái trong môi trường giáo dục, các tác giả đã tỏ rõ thái độ đứng về phía trẻ thơ, cảm thông và trân trọng các em, đồng thời phê phán mạnh mẽ những mặt tiêu cực, xấu xa không đáng tồn tại ở nơi dành cho các em học tập và rèn luyện. Gia đình là cái nôi của sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ thơ. Các nhà văn đã rất sâu sắc khi quan tâm đến mối quan hệ giữa trẻ em và gia đình, chú ý tới sự tác động ở chiều sâu của văn hóa gia đình và nhân cách của những người thân yêu đến tâm hồn và tính cách các em. Truyền thống gia đình có vai trò quan trọng trong việc tạo nên diện mạo, cốt cách một con người. Không phải ngẫu nhiên mỗi người trưởng thành đều nhớ da diết và biết ơn nơi nuôi dưỡng tâm hồn mình từ thuở ấu thơ. Cuốn tiểu thuyết tự truyện Miền thơ ấu cứ làm người đọc nhớ đến một đại gia đình yêu thương, một cộng đồng gắn kết tối lửa tắt đèn có nhau. Cậu bé Thư biết gắn bó với quê hương và hướng về tổ tiên nguồn cội là nhờ những năm tháng sống ở quê nội cùng người cô như được sinh ra với sứ mệnh gìn giữ “nếp nhà”. Gia đình cậu bé Khán trong Tuổi thơ im lặng rất yêu văn hóa dân tộc, từ người bà hay hát ru cháu bằng những câu ca dao ngọt ngào, người cha hay mang về cho con những cuốn sách cổ điển đến các mợ, các dì thường kể chuyện cổ tích và dạy bọn trẻ những điệu dân ca Tất cả như dòng mạch ngọt ngào ngấm vào Khán để rồi phát triển thành khí chất văn chương của một nhà văn tài năng Trẻ thơ luôn được thừa hưởng những phẩm chất tốt đẹp của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là những người lớn. Hồi NGÔ THỊ NGỌC DI P 9 ức tuổi thơ không thể thiếu hình ảnh người ông, người bà. Với trẻ con ngây thơ, bồng bột thì ông bà mới là người có đủ trải nghiệm, thời gian và lòng nhân hậu để lắng nghe, chăm bẵm chúng Những người bà của Thư, của Duy, của Cao đều như bước ra từ chuyện cổ tích với tấm lòng khoan dung, độ lượng, giàu đức hi sinh, dạy bọn trẻ biết yêu thương những người kém may mắn quanh ta. Lòng nhân hậu của những đứa trẻ có lẽ ảnh hưởng từ những người bà nhân từ (Miền thơ ấu, Côi cút giữa cảnh đời, Khúc đồng dao lấm láp). Đến với tự truyện của Vũ Đức Nguyên, người đọc không khỏi xúc động với hình ảnh một người ông thâm trầm, thương con, thương cháu. Ông ngoại của Vững đã thức trắng đêm để tìm cách cứu đứa cháu bất hạnh trong cơn thập tử nhất sinh. Biết ơn ông sâu sắc, tác giả đã viết cuốn sách về cuộc đời mình để tưởng nhớ ông: “Tôi viết cuốn sách này là để tưởng nhớ hương hồn ông ngoại” (Lời đề từ tác phẩm Tuổi thơ khát vọng). Đối tượng mà trẻ em chịu tác động trực tiếp và lớn nhất là cha mẹ. Là trụ cột gia đình và nuôi dạy con cái nên cha mẹ có ảnh hưởng nhiều mặt đến những đứa trẻ. Tuy nhiên, khác với hình ảnh ông bà thường đẹp đẽ và trọn vẹn, bố mẹ vừa yêu thương, vừa nghiêm khắc, vừa chịu áp lực gia đình và tác động phức tạp của hoàn cảnh, do vậy, không phải lúc nào họ cũng là hình ảnh đẹp nhất trong mắt con trẻ và tạo được sự “đồng thuận” với chúng. Trong Hành trình ngày thơ ấu, mẹ của Bê rất thương em nhưng cũng hay dùng đòn roi với đứa con gái cứng đầu. Mẹ không hiểu Bê bởi cô bé có tư tưởng “nổi loạn” còn bà vẫn theo quan niệm cũ. Khi Bê chống lại thầy Gia, bà cho rằng: “Bất luận là gì, thầy vẫn là thầy, trò vẫn là trò. Trò dám chống lại thầy là tội không dung thứ” [14, tr.87]. Theo quan niệm của bà, Bê là “đứa trẻ hư” và phải nhận sự trừng phạt thật đáng sợ: “Chao ôi, tôi sợ những tia nhìn nghiệt ngã đó và sự im lặng hơn những roi đòn đau rát từ xưa đến nay Sự im lặng của mẹ khiến tôi cảm thấy tôi đã chết rồi” [14, tr.106]. Tác giả thật sâu sắc khi đưa đến cho các bậc cha mẹ một kinh nghiệm trong ứng xử với con trẻ. Với các em, sự lạnh lùng, xa cách, không lắng nghe và thấu thiểu của người lớn còn đáng sợ hơn những trận đòn đau trên thể xác. Trong cuộc sống đời thường, không phải bố mẹ nào cũng thấu hiểu con trẻ dù họ cũng từng là trẻ con. Cậu bé Cao với bao tủi thân, ấm ức giấu kín trong tâm hồn thơ dại khi bị bố mẹ thường xuyên mắng mỏ, đánh đập. Cậu cảm thấy đau không phải vì những cái “phát mông, tát má, cốc đầu” mà vì bị mẹ bắt đi lấy mũ về khi cậu thương thằng bù nhìn rơm nên đội cho nó, vì bị quát là điên khi xem con chó Đốm là bạn và cho nó miếng thịt, vì bị bắt đi đòi lại chiếc đèn ông sao khi đã thơm thảo cho bé Tâm, vì bị nghi ngờ là copy bài toán đã cố gắng tự làm Bố mẹ đã vô tình hắt hủi, tạo áp lực cho Cao mà bỏ quên những xúc cảm, tình cảm tốt đẹp của một đứa trẻ (Khúc đồng dao lấm láp). Trong những hoàn cảnh khắc nghiệt, đôi khi bố mẹ cũng không làm tròn trách nhiệm với con cái. Có những người mẹ bỏ rơi con mà tâm hồn trẻ dại của đứa bé không thể nào hiểu được: “Cho đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu nổi lí do gì mà mẹ tôi bỏ tôi lại cho bà, ra đi theo cái ông lái xe tải nọ. Bà nội đã già và tôi thì còn quá bé bỏng” [16, tr.3]. Trong Tuổi thơ khát vọng, gánh nặng gia đình đã che lấp tình cảm của người mẹ. Bà trở nên cáu kỉnh, gắt gỏng đến cay nghiệt với đứa con tật nguyền, vô tình để lại trong em những mặc cảm, tủi hờn sâu kín HÌNH TƯỢNG TRẺ THƠ QUA HỒI ỨC VỀ THỜI THƠ ẤU TRONG VĂN HỌC VI T NAM SAU 1975 10 Có thể nói, hồi ức về thời thơ ấu sau 1975 đã đặt tuổi thơ vào nhiều môi trường, trong sự tác động nhiều chiều để khám phá và thể hiện nhân cách trẻ thơ toàn diện và sâu sắc. Với ưu thế của các dạng thức sử dụng chất liệu sống và trải nghiệm cá nhân, nhà văn có điều kiện đi vào những ngóc ngách đời tư, những ẩn khuất của mỗi số phận trẻ thơ để thấy cuộc sống và hành trình vào đời của các em không chỉ toàn màu hồng mà có cả những gam màu xám lạnh. Chiến tranh hay hòa bình, gia đình hay xã hội không phải lúc nào cũng là môi trường lí tưởng mà luôn có những mặt trái có thể gây tổn thương, đổ vỡ trong tâm hồn trẻ thơ. Tuy nhiên, đó như những thử thách có tính qui luật của cuộc đời để các em vượt qua và trưởng thành hơn. 2.3. Trẻ thơ - một cá nhân, cá tính độc đáo Cái tôi cá nhân là diện mạo riêng, tính cách riêng của mỗi người, không hòa lẫn với ai khác. Nếu văn học thiếu nhi trước 1975 nhìn nhận trẻ thơ chủ yếu ở tư cách công dân, phẩm chất cộng đồng, gương mặt riêng có phần mờ nhòe, thì sau 1975, với sự bùng nổ của ý thức cá nhân, văn học khám phá và thể hiện hình tượng trẻ thơ như những cá nhân, cá tính độc đáo, khẳng định cái tôi trẻ thơ khác với cái tôi người lớn và đến lượt mình mỗi cái tôi trẻ thơ hiện ra như một cá thể sinh động và khác biệt. Hơn nữa, với các dạng thức hồi ức, người viết có khả năng đi sâu vào các quan hệ riêng tư, soi rọi những góc khuất của đời sống nội tâm để bộc bạch về khí chất, sở thích, ước muốn của bản thân cái tôi cá nhân, vì thế, càng hiện lên chân thật và sống động. Với Miền thơ ấu, Vũ Thư Hiên đã khẳng định trẻ thơ là một thế giới riêng mà người lớn không thể uốn nắn một cách thô bạo. Bằng chứng là cậu bé Thư đã phá vỡ “âm mưu” của cô Gái khi “gắng sức nhào nặn tôi từ một tên nhóc vô thần thành một con chiên ngoan đạo” [13, tr.245]. Thư phải sống đúng với bản chất tuổi thơ hiếu động, bướng bỉnh chứ không thể trở nên điềm đạm và chịu đựng như người lớn. Với bản tính nghịch ngợm, không ít lần cậu làm cho cô Gái phiền lòng và được nếm mùi cây phất trần của bà. Táo tợn nhất là lần cậu bày trò đóng giả cha đạo, đọc những câu kinh báng bổ đạo Chúa: “Miăn tôm kho cà kho cá kho.o.o! Miăn miho mihen mi chết bỏ kề nhà miii A-me.e.e.n.n!” [13, tr.106]. Cậu còn liều lĩnh mở khóa hòm gian của cô Gái cho cô Thiệp lấy trộm đồ. Cậu cũng không ít lần ăn trộm quít trong cái hòm gian được khóa cẩn mật đó. Thủ phạm làm cho thuốc tễ, cam thảo, quế chi, táo tàu trong kho thuốc của cô Gái hao hụt cũng chính là cậu Không chỉ nghịch ngợm, phá phách, Thư còn là đứa trẻ có đời sống nội tâm phong phú và một tấm lòng nhân hậu đáng quí. Nhiều lần cậu giận cô Gái, giận cả Chúa nhưng luôn sẵn lòng yêu thương, giúp đỡ người khác. Việc cậu lấy trộm gạo cho chú Khóa hay “tòng phạm” với cô Thiệp cũng xuất phát từ lòng trắc ẩn, cảm thông với những con người nghèo khổ, cơ nhỡ Gửi theo chuyến tàu trở về tuổi thơ trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ của Nguyễn Nhật Ánh là ước vọng được sống đúng với thế giới tuổi thơ, sống đúng với bản thân mình của thằng cu Mùi và “những người bạn” Hải cò, Tủn, Tí sún. Cu Mùi là một đứa trẻ lên tám rất nghịch ngợm, hiếu động, ham chơi, muốn thoát sự khỏi ràng buộc của người lớn, làm “nhà cách mạng bé con” “cho đời bớt nhạt”. Nếu một ngày không có cái gì mới lạ, không có một trò phá phách, nghịch dại nào đó hẳn cu cậu sẽ NGÔ THỊ NGỌC DI P 11 rất buồn chán, dĩ nhiên là cái buồn của trẻ con “buồn ơi là sầu!”. Tác giả thật dí dỏm mà tinh tế, sâu sắc khi khi khắc họa hình ảnh cu Mùi như một sự khẳng định cái khác biệt giữa trẻ thơ và người lớn. Tất cả suy nghĩ, hành động, sở thích của cậu bé đều khác (hoặc cố ý làm khác) người lớn. Cu Mùi khoái “xực” mì gói trong khi người lớn chỉ quan tâm những món bổ béo; cu Mùi “tủi thân và sầu muộn” khi phải ngủ trưa thì người lớn luôn bắt buộc cậu phải ngủ trưa; cu Mùi xem chó là bạn, người lớn lại bắt chúng để giết thịt; trong khi mọi người uống nước trong ly và ăn cơm bằng chén thì cu Mùi nghĩ ra cách uống nước trong chai và ăn cơm bằng thau! Cu Mùi còn “đầu têu” trong trò chơi đóng vai bố mẹ để được “dạy con” bằng những phát ngôn “giễu nhại” hả hê: “Giờ này mà học bài hả? Đồ lêu lổng!”, “Con ngoan là phải chạy nhảy, trèo cây, tắm sông, đánh lộn!”, “Đánh nhau mà quần áo sạch sẽ thế kia thì có nhục cho tổ tiên không kia chứ!” [11, tr.33-36]. Những đứa trẻ cũng muốn đảo lộn trật tự thế giới bằng cách gọi tên khác lạ: gọi con chó là cái bàn ủi, cái cặp là cái giếng, cuốn tập là cái nón, cái miệng là cánh tay, đi ngủ là đi chợ Chúng còn cả gan mở cả một phiên tòa để luận tội bố mẹ Tất cả như một sự giải tỏa những ấm ức của trẻ con, một cách “nổi loạn” để đòi tự do, công bằng, để bộc bạch những tâm tư, ước vọng thầm kín của tâm hồn thơ dại mà không ai thấu hiểu! Cậu bé Vững bước ra từ hồi ức Tuổi thơ khát vọng là sự khẳng định một tính cách trẻ thơ đầy nghị lực như chính cái tên của em, luôn vững vàng. Thành công của Vững gắn liền với nỗi đau tật nguyền, những ngày tập tễnh đến trường, những bươn chải nhọc nhằn của mẹ, những tháng ngày biền biệt của cha, những chuyến tản cư, loạn lạc Thật cảm động khi Vững đã nhiều lần chiến thắng số phận. Bị ốm liệt giường nhưng bản năng sống mạnh mẽ đã giúp em vượt qua lưỡi hái của tử thần. Nghe ngoài kia người ta đã đóng áo quan cho mình, Vững vẫn không cam tâm: “Sao lại đóng quan tài chôn tôi xuống đất? Tôi mắc tội gì mà đem chôn sống tôi?” [17, tr.10]. Em lấy hết sức mình hít chút không khí quí giá vào lồng ngực, cố ngóc đầu lên uống từng thìa thuốc đắng chát, vẫn chìa những ngón tay xương xẩu ra xin ăn Vượt qua cái chết, em kiên quyết phải bước đi trên đôi chân què quặt rồi quyết tâm chinh phục con đường đến trường... Điều đáng quí là bên trong cậu bé Vững cứng cỏi còn có một tâm hồn trẻ thơ nhạy cảm, hiền lành, nhân hậu. Cũng có những lúc ghen tị với chúng bạn, tủi hờn vì sự gắt gỏng cay nghiệt của mẹ, mặc cảm với thân phận con nuôi nhưng rồi nhận ra cái cơ cực, gian truân cùng công lao, tình nghĩa mà mẹ dành cho mình, Vững đã gạt đi buồn tủi, nguyện không đào xới quá khứ để cảm thông và yêu thương mẹ nhiều hơn Trong Hành trình ngày thơ ấu, Bê là một cô bé rất cá tính. Em thông minh, nhanh nhẹn, hết lòng vì bạn bè, vừa có nét ngây thơ, vừa cứng cỏi, thẳng thắn, ngang tàng, dám đối đầu với thầy Gia hay quyết định lên biên giới tìm bố. Phản ứng của Bê với thầy Gia không phải là hành động rồ dại, xốc nổi của trẻ con mà đó là việc làm có ý thức chống lại “một ông giáo không đủ tư cách làm thầy, thậm chí không đủ tư cách làm một con người đứng đắn và lương thiện” [14, tr.87]. Nhân vật Bê đưa đến sự nhận thức lại về quan hệ người lớn - trẻ em, quan niệm trẻ em ngoan - hư, bởi không phải lúc nào người lớn cũng đúng, cần hiểu trẻ em và đánh giá chúng công bằng, sâu sắc hơn. HÌNH TƯỢNG TRẺ THƠ QUA HỒI ỨC VỀ THỜI THƠ ẤU TRONG VĂN HỌC VI T NAM SAU 1975 12 Có thể nhận diện bao gương mặt trẻ thơ cá tính khác trong nhiều tác phẩm. Một Bảo lão mổ “da bánh mật, bước đi huỳnh huỵch, ăn nói bặm trợn”, nhanh nhẹn, nhiều chiêu trò, thích bay nhảy tự do nhưng lại sống tình cảm và yêu mến, tự hào về quê hương (Miền xanh thẳm); một cô bé Tiệp Kiến Vàng “mặt mũi sáng sủa, nói năng hoạt bát”, có tư chất văn chương, vừa giống người cô “thủ lĩnh” của mình, vừa nể sợ, vừa biết khéo léo nịnh cô (Miệt vườn xa lắm); một chú bé Cao “nghịch rách trời rơi xuống”, tham ăn, ham chơi, hay trốn học, hay đánh nhau với bạn nhưng rất nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn, biết quan tâm, chia sẻ với những người già, cô đơn như ông Tác hay cô bé “con nhà quét chợ” như Tâm, thương cả con chó Đốm, thằng bù nhìn rơm (Khúc đồng dao lấm láp) Có thể nói, các tác giả đã nhìn nhận mình cùng bao đứa trẻ khác như một cá nhân, cá tính độc đáo. Trong thế giới tuổi thơ, mỗi em là một “thực thể” sinh động với những nét riêng về tính cách, đời sống nội tâm, nhu cầu thường nhật, sở thích cá nhân và cả những thói tật Khắc họa hình tượng trẻ thơ ở góc nhìn này vừa thể hiện quan niệm mới của văn xuôi sau 1975 về trẻ em, vừa cho thấy một đặc trưng của các dạng thức hồi ức là luôn bắt lấy những gì là riêng biệt, độc đáo để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng tác giả. 3. Kết luận Nhìn chung, được khắc họa với cái nhìn đa chiều và những trải nghiệm cá nhân, hình tượng trẻ thơ qua các hồi ức về thời thơ ấu trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 hiện lên khá chân thực và đầy đặn. Đó là một thế giới hiện thân cho những gì đẹp đẽ, thánh thiện nhưng không tránh khỏi những tác động nhiều chiều, lắm lúc nghiệt ngã của thời cuộc, của lòng người; là một thế giới riêng, độc đáo mà đôi khi người lớn không hiểu được và không thể nhào nặn theo ý họ. Bị chi phối bởi khuynh hướng nhận thức lại quá khứ, các nhà văn mạnh dạn đi vào những ngóc ngách khuất lấp trong đời sống chiến tranh, đời sống xã hội, nhà trường và gia đình để thấy những mặt trái của nó và sự tác động sâu sắc đến nhân cách trẻ thơ. Tuy nhiên, tâm thế hồi tưởng, chiêm nghiệm, cảm xúc yêu thương, trân trọng, cái nhìn thể tất đã níu giữ ngòi bút nhà văn, không đẩy cảm hứng phê phán đến quyết liệt, tận cùng. Cái đọng lại vẫn là sự khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp trẻ thơ, qua đó gửi gắm niềm tiếc nhớ về một thời tuyệt đẹp đã xa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Định Hải (2008), “Nhớ thời cháo cám làm thơ nuôi mình”, Báo Thể thao và văn hóa, ngày 24/8/2008. 2. Vũ Thư Hiên, Lời mở đầu “Miền thơ ấu”, nguồn: tid=2qtqv3m3237n1nnntn31n343tq83a3q3m32 37nvn&cochu= 3. Phong Lan (1989), “Miền thơ ấu, một cuốn sách đẹp”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 4, tr.96 - 100. 4. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 5. Lã Thị Bắc Lý (2000), Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Đỗ Hải Ninh (2011), “Mối quan hệ giữa tự truyện - tiểu thuyết và một số dạng thức tự thuật trong văn học Việt Nam đương đại”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8. 7. Nguyễn Khắc Phê (2006), “Sự thật từ ngòi bút Phùng Quán”, Báo Văn nghệ, số 29, ngày 22/7/2006. 8. Trần Đình Sử (1986), “Tuổi thơ im lặng, kỉ niệm về một tầng văn hóa làng quê lâu đời”, Báo Văn nghệ, số 36. NGÔ THỊ NGỌC DI P 13 9. Vân Thanh (1999), Phác thảo văn học thiếu nhi Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 10. Vũ Bội Trâm - Ngô Minh (Biên soạn), (2007), Phùng Quán còn đây, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh. TÁC PHẨM KHẢO SÁT (có trích dẫn) 11. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 12. Thu Bồn (1978), Cơn giông tuổi thơ, Nxb Hà Nội. 13. Vũ Thư Hiên (1988), Miền thơ ấu, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh. 14. Dương Thu Hương (1985), Hành trình ngày thơ ấu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 15. Duy Khán (2012), Tuổi thơ im lặng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 16. Ma Văn Kháng (2006), Côi cút giữa cảnh đời, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 17. Vũ Đức Nguyên (2004), Tuổi thơ khát vọng, Nxb Hà Nội. 18. Phùng Quán (2005), Tuổi thơ dữ dội, Nxb Văn học, Hà Nội. 19. Kao Sơn (2017), Khúc đồng dao lấm láp, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. Ngày nhận bài: 02/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20/10/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf9_8815_2215061.pdf
Tài liệu liên quan