Tài liệu Hiểu và ngăn chặn di hại của nho giáo trong công cuộc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa: Xã hội học, số 3 - 1986
XÃ HỘI HỌC VÀ LỊCH SỬ
HIỂU VÀ NGĂN CHẶN DI HẠI CỦA NHO GIÁO
TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA*
TRẦN ĐÌNH HƯỢU
Nho giáo từ vị tổ sư là Khổng Tử đã nuôi một ảo tưởng là xây đựng một thiên hạ trật tự, ổn định,
hòa mục, lễ nhượng, không có kiện tụng, chiến tranh, mọi người sống với nhau êm ấm như trong gia
đình, “bốn bể đều là anh em”. Để thực hiện xã hội như vậy, Khổng - Mạnh muốn dựa vào sự nỗ lực tu
dưỡng đạo đức của mỗi một người “từ thiên tử cho đến dân thường”, vào một nền chính trị tốt do một
vị vua thánh đức, cai trị bằng đức, bằng lễ, treo gương tốt và biết giáo hóa, chứ không cần đến hình
lực, thưởng phạt và pháp luật. Tín đồ của Khổng - Mạnh, vì lẽ đó vốn đinh ninh nhớ lời dạy “kẻ quân
tử lo Đạo chứ không lo nghèo đói”. Khổng Tử cũng coi “làm cho dân đủ ăn” là một công việc hàng
đầu để trị nước.
Phải lo cho dân no ấm, nhưng no ấm chưa phải mối lo hàng đầu. Khổng Tử nói “Kẻ có nước, có
nhà không lo ít mà lo không ...
5 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 811 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiểu và ngăn chặn di hại của nho giáo trong công cuộc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học, số 3 - 1986
XÃ HỘI HỌC VÀ LỊCH SỬ
HIỂU VÀ NGĂN CHẶN DI HẠI CỦA NHO GIÁO
TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA*
TRẦN ĐÌNH HƯỢU
Nho giáo từ vị tổ sư là Khổng Tử đã nuôi một ảo tưởng là xây đựng một thiên hạ trật tự, ổn định,
hòa mục, lễ nhượng, không có kiện tụng, chiến tranh, mọi người sống với nhau êm ấm như trong gia
đình, “bốn bể đều là anh em”. Để thực hiện xã hội như vậy, Khổng - Mạnh muốn dựa vào sự nỗ lực tu
dưỡng đạo đức của mỗi một người “từ thiên tử cho đến dân thường”, vào một nền chính trị tốt do một
vị vua thánh đức, cai trị bằng đức, bằng lễ, treo gương tốt và biết giáo hóa, chứ không cần đến hình
lực, thưởng phạt và pháp luật. Tín đồ của Khổng - Mạnh, vì lẽ đó vốn đinh ninh nhớ lời dạy “kẻ quân
tử lo Đạo chứ không lo nghèo đói”. Khổng Tử cũng coi “làm cho dân đủ ăn” là một công việc hàng
đầu để trị nước.
Phải lo cho dân no ấm, nhưng no ấm chưa phải mối lo hàng đầu. Khổng Tử nói “Kẻ có nước, có
nhà không lo ít mà lo không đều, không lo nghèo mà lo không yên. Bởi vì đã đều thì không có nghèo,
đã hòa mục thì không có ít, đã yên ổn thì không có nghiêng đổ”. Với quyền vương hữu, vua làm chủ
một quốc gia rộng lớn, nhưng lại với một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu và phân tán. Sản xuất nông
nghiệp và thủ công đều nhằm tự túc, tiến hành ở từng hộ. Chưa có nhu cầu trao đổi hàng hóa rộng rãi
ngoài làng xã. Vua, người có quyền sở hữu, không trực tiếp nắm vật sở hữu - ruộng đất và sức lao
động - để quản lý và khai thác kinh doanh như chủ nô và lãnh chúa. Vua để ruộng đất cho làng xã quân
cấp cho dân, theo hộ mà cày cấy. Vua chỉ thu vật cống nạp; tô dưới hình thức thuế. Với cách đó, vua
chỉ làm chủ việc phân phối vật cống nạp; tác dụng đến sản xuất chỉ là gián tiếp, ảnh hưởng không
nhiều. Việc tập trung quyền sở hữu mọi nguồn lợi ruộng đất, núi rừng, sông biển, quyền phân phối hoa
lợi, quyền ban cấp tước vị vào chỉ một người, đặt vua chuyên chế vào vị trí đầu mối của những mâu
thuẫn: mâu thuẫn với dân, mâu thuẫn với quý tộc (họ hàng, công thần và hào trưởng địa phương), mâu
thuẫn giữa Nhà nước và làng xã tức là giữa trung ương và địa phương, giữa tập trung và phân tán. Có
làm cho các lực lượng mâu thuẫn về quyền lợi đó, hoặc vui lòng hoặc sợ uy mà chịu yên, không tranh
giành thì đất nước mới thái bình, ngôi vua mới yên ổn. Để tránh tranh giành, cần ổn định một tỷ lệ hợp
lý giữa các phía. Cách giản tiện nhất là phân phối theo một phương án không
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
* Trích phần III của tham luận Bàn về một điểm đặc thù của thời kỳ quá độ: di hại của Nho giáo trong xây
dựng kinh tế. Có chỉnh lý cho hợp khuôn khổ của Tạp chí.
Xã hội học, số 3 - 1986
40 TRẦN ĐÌNH HƯỢU
thay đổi nguồn cống nạp ổn định và mức chia ổn định. Mạnh Tử chủ trương “dân theo hạng mà được
chia ruộng, quan theo tước mà được cấp lộc”, nói cách khác là Nhà nước sắp xếp danh vị và mọi người
theo danh vị mà có quyền, có lợi. Xác định danh vị - chính danh - vì lẽ đó được Khổng Tử coi là việc
đầu tiên phải làm khi chấp chính. Cái để chia có thể nhiều hay ít, nhưng phải đạt yêu cầu quân bình.
Quân bình là đều, nhưng không có nghĩa là bằng nhau, mà có nghĩa là có tương quan hợp lý. Theo
Mạnh Tử, vua có 10, quan khanh có 1; quan khanh có 4, đại phu có 1... là quân bình. Tất nhiên người
dân được xếp ở bậc cuối cùng, cách quan khanh không phải không nhiều. Một xã hội trật tự nhưng bất
bình đẳng! Sự cách biệt để biểu hiện trật tự không chỉ là ở sự khác nhau về tước và lộc, mà còn cả ở
quy chế về chất liệu, màu sắc độ dài ngắn của quẩn áo, ở quy mô nhà cửa, mồ mả, ở quy định về cách
xưng hô, đi đứng... Cũng khó mà làm cho mọi người vui lòng với cái ít, không chê nghèo, yên phận,
yên mệnh, lễ nhượng và hòa mục trong cảnh bất bình đẳng như vậy. Con người không cam chịu nghèo
hèn, tự lực làm giàu, không chấp nhận phận, mệnh để cố ngoi lên. Xu hướng chạy theo lợi, “trên dưới
tranh nhau cái lợi”, “mọi người giao tiếp với nhau bằng lợi” như vậy là nguy cơ của xã hội. Theo
Mạnh Tử, như thế thì “nước ít khi không mất”. Cho nên Nho giáo cực lực chống lợi, đưa nghĩa đối lập
với lời khuyên mọi người “thấy lợi thì phải nghĩ đến nghĩa”.
“Quân bình thì không có nghèo, hòa mục thì không có ít” như Không Tử dạy, cũng chỉ là nói cái
nghèo, cái ít tâm lý, tức là không cảm thấy nghèo, thấy ít mà đâm ra suy bì, thắc mắc, tranh giành mà
thôi. Còn cái nghèo, cái ít thực tức là cái đói rét, thiếu thốn thì vẫn còn. Sách Đại học bàn đến “đạo lớn
làm ra của cải”, cách “làm cho của cải luôn luôn đủ”; “làm gấp gáp mà dùng thong thả” tức là nỗ lực
sản xuất và tiết kiệm. Nền sản xuất của xã hội là nông nghiệp, tô thuế cũng lấy từ nông nghiệp, cho
nên nông nghiệp được coi là nghề gốc. Khổng - Mạnh và các nhà nho đời sau đều kêu gọi chăm lo cái
gốc đó, đòi hỏi người cầm quyền quan tâm đến nông nghiệp, đến nông dân: vua coi trọng lễ cày tịch
điền, treo gương cho dân, ra chiếu khuyến nông, vỗ về, khuyến khích nông dân cày cấy. Khổng - Mạnh
chủ trương điều động lực dịch ngoài mùa cày cấy, thu thuế nhẹ, định ngạch và được báo trước... đều là
nhằm làm cho nông dân có thì giờ và có hứng thú sản xuất. Nông nghiệp là nghề vất vả, gặp nhiều bất
trắc mà lợi suất không cao. Những người muốn có nhiều lợi, muốn làm giàu đều bỏ nghề nông mà
buôn bán. Buôn bán không những làm lơ là nghề gốc mà còn là không theo mệnh, không yên phận,
cho nên Nho giáo coi thương nghiệp là nghề của “kẻ hèn hạ” (tiện trượng phu). Trong tứ dân, thương
nhân bị xếp vào hạng bét, và về sau, nhiều chính sách ức thương khác được ban hành. Mạnh Tử đã bàn
về vấn đề phân công, vấn đề trao đổi, vấn đề giá cả, chính sách thu thuế chợ, thuế đi lại..., tức là không
phải chủ trương một nền kinh tế chỉ tự túc, nhưng đường lối kinh tế là trọng nông, ức thương, giữ nông
dân không cho rời bỏ ruộng đất, làng xã để ổn định việc nộp thuế, đi phu, đi lính cho nhà vua. Làm gấp
gáp để làm cho của cải luôn luôn đủ, theo thuyết “thông công dịch sự” - trao đổi trên cơ sở phân công
lao động - của Mạnh Tử, cũng không phải là việc của những người lao tâm “lấy của chia cho thiên hạ”
(vua quan ), “lấy điều thiện dạy cho thiên hạ” (kẻ sĩ). Biện pháp quan trọng nhất để giải quyết cái
nghèo vẫn là tiết kiệm. Người làm ruộng sau khi nộp tô thuế không còn lại bao nhiêu, mà nhà vua thu
cống nạp trên toàn quốc, tuy không phải là ít, nhưng cũng không phải là luôn luôn đủ. Nhà nước, theo
Nho giáo, vốn quan hệ với dân theo kiểu cha con: cùng giàu, cùng nghèo, tài sản không rành mạch;
vua -cha dễ dàng lấy của con - dân để sống
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Xã hội học, số 3 - 1986
Hiểu và ngăn chặn 41
xa xỉ, nghĩa là bóc lột nặng. Khổng - Mạnh chủ trương thuế suất 1/10 và cách chi tiêu trừ các khoản
phụng dưỡng cha mẹ, tang ma, tế lễ và tiếp đãi tân khách, các khoản khác đều nên lựa chọn cách ít tốn
kém nhất. Tuy vậy, Nho giáo vốn trọng nghi lễ và chuộng sự đúng mức. Người cầm quyền tiết kiệm là
có đức, nhưng nếu đến như An Anh làm Tướng quốc nước Tề hùng cường mà suốt 30 năm chỉ đi một
cỗ xe tàng mặc một chiếc áo lông sờn rách thì lại là thiếu thể thống, không xứng với địa vị. Để làm cơ
sở lý thuyết cho chủ trương tiết kiệm, tiết kiệm theo đúng phận vị. Nho giáo thuyết minh quan điểm tri
túc, thiếu một chút cũng là đủ, tiếpt dục, hạn chế sự đòi hỏi, coi thường của cải và hạnh phúc vật chát,
lên án dục vọng, nhấn mạnh theo lễ, yên mệnh. Và để thực hiện sự quân bình theo lễ một cách vĩnh
viễn, Mạnh Tử còn muốn tiến thêm một bước quy định tài sản của dân bằng phép “tỉnh điền”. Tỉnh
điền là chia ruộng đất thành ô vuông đều nhau. Mỗi khoảnh 9 ô; nông dân chia cày và tự thu hoạch 8 ô
xung quanh, còn ô ở giữa thì cùng cày và nộp hoa lợi cho nhà vua. Khi đã chia xong, không ai được
lấn thêm bờ cõi, khai hoang thêm diện tích, làm giàu ngoài phận. Những gia đình quan lại, được nhận
nhiều hơn, đã được hưởng lộc, không được làm thêm nghề phụ, tranh lợi với dân. Không chỉ Mạnh Tử,
mà cả các thế hệ nhà nho đời sau, cho đến tận dưới thời Tự Đức ở ta, vẫn còn tiếc rẻ cái phương án tốt
đẹp và quân binh ấy. Lo cho dân no đủ cũng là lo giữ vững trật tự phận vị “kẻ quân tử lo nghĩ về Đạo
chứ không lo nghĩ về cái ăn”, “chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết (trái lễ) mới là chuyện lớn”. Những vấn
đề kinh tế không được đặt ra theo góc độ kinh tế mà theo góc độ chính trị - xã hội, được giải quyết
không theo cách kinh tế mà theo cách đạo đức hành chính.
Với sự thống trị lâu dài, Nho giáo đã ổn định một thể chế chính trị, kinh tế, xã hội, và con người
cũng dần dần tìm ra cách sống phù hợp với nó. Thể chế xã hội theo Nho giáo chỉ mở một con đường
độc đạo để sống sung sướng: kiếm danh vị bằng cách đi học, thi đỗ và làm quan. Danh vị là phương
tiện kiếm sống: có vị thì có lộc, có bổng. Ông quan hưởng bổng khác người công chức ăn lương. Ông
quan - kẻ có vị - theo Nho giáo là kẻ có đức, có công giáo hóa, là cha mẹ dân, cần có vinh dự, được
dân yêu kính, biết ơn. Ngoài vị là danh, ngoài lộc là bổng. Bổng là quà tặng, vật biếu, của vi thiềng để
tỏ lòng kính trọng, biết ơn người làm thầy, làm cha mẹ dân. Với cách sống lễ nghĩa, vật vi thiềng đó là
hợp pháp. Bổng lộc - của được vua ban cấp và dân biếu xén - bao giờ cũng quý hơn miếng ăn tự kiếm
lấy. Người có vị không những có lợi mà còn có quyền, có uy tín, có tiếng thơm, ngoại phần mình
hưởng còn có thể chia phúc cho cả gia đình, họ hàng thậm chí cho cả làng xóm nữa. Thực tế đó tạo ra
trong xã hội tâm lý chạy theo danh vị, không chuộng thực nghiệp. Có nghề cầm tay, trong thực tế cũng
có thể đảm bản cho bản thân và gia đình sống no ấm, nhưng như vậy vẫn còn là hèn, đáng tủi nhục,
chưa có danh dự. Cho nên người làm cha mẹ nào cũng cố gắng cho con đi học; người đi học nào cũng
lo thi đỗ; có khi đi học, đi thi cho đến 80 tuổi. Học không phải để có tri thức mà để kiếm danh vị. Việc
làm giàu không được coi là chính đáng. Có làm được giàu cũng không được bảo vệ. Hưởng thụ của cải
do mình làm ra, nếu không hợp danh vị, thì cũng phải vụng trộm, giấu giếm, không đàng hoàng. Đã
phú thì phải chuyển thành quý mới chắc chắn. Có thể kiếm danh bằng con đường thi đỗ. Nhưng cũng
có thể kiếm danh còn nhanh chóng hơn và chắc chắn hơn hằng mua bán và tìm nơi dựa dẫm. Nho giáo
tạo ra một xã hội coi thường lao động, sản xuất, coi thường kinh doanh, coi thường nghề nhiệp. Quả là
một xã hội ham học, nhưng học để làm quan. Di hại của nó
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Xã hội học, số 3 - 1986
42 TRẦN ĐÌNH HƯỢU
là ở cách suy nghĩ, tính toán, là từ con đường mòn nó vạch sẵn, từ tâm lý xã hội mà nó để lại.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà ta xây dựng hoàn toàn khác nền kinh tế theo Nho giáo. Ta tiến
hành công cuộc xây dựng nói sau những biến đổi cực lớn trong xã hội: cách mạng Tháng Tám và hai
cuộc kháng chiến và đến nay đã 30 năm. Một điều rất đáng chú ý là khi thực hiện nhiều chủ trương có
nội dung cách mạng, xã hội chủ nghĩa thật sự mà kết quả thì lại giống như trở lại thời xưa. Tình hình
như vậy ở nông thôn nhiều khi khá rõ.
Trong nông nghiệp, chúng ta thực hiện sở hữu Nhà nước và tập thể xây dựng hợp tác xã nông
nghiệp, từ quy mô thôn nâng lên quy mô xã. Gặp khó khăn trong sản xuất và để thực hiện quyền làm
chủ tập thể của quần chúng, nâng cao tính chủ động, sáng tạo, kích thích hứng thủ sản xuất, tạo điều
kiện sử dụng hợp lý sức lao động trong gia đình, chúng ta để hợp tác xã khoán sản phẩm cho các hộ
nông nghiệp. Ở làng xã mà nhìn việc đó giống như chia cày công điền ngày xưa.
Chúng ta đào tạo đội ngũ khoa học - kỹ thuật đông đảo. Nhưng trong điều kiện kinh tế phát triển
còn thấp, không có đủ cơ sở để sử dụng thì kỹ sư không phải là người hành nghề, mà thành cán bộ,
sống bằng bằng cấp và danh vị.
Ta không chủ trương tổ chức Đảng và Nhà nước gồm những người có đức làm “cha - mẹ dân, giáo
hóa dân”, nhưng cán bộ không tự coi mình trước hết có trách nhiệm hoàn thành một khâu công việc
nào đó, mà chỉ coi mình là người giác ngộ, có đạo đức, gương mẫu, có trách nhiệm giáo dục quần
chúng.
Ta theo chế độ xã hội chủ nghĩa, trả lương theo lao động, nhưng với chính sách bao cấp thì cũng
giống phân phối theo phận vị. Và người có vị, có chức vụ có những quyền lợi được Nhà nước đảm bảo
chắc chắn làm nảy nở tâm lý kiếm bằng cấp, vào biên chế giành chức vụ
Điều quan trọng không phải là một chỗ nào đó giống xưa, mà là cái nọ gọi cái kia, con đường cũ tái
hiện, tâm lý cũ tái sinh, những kinh nghiệm sống trước đây lại được vận dụng, có khi là vận dụng để
đối phó với Nhà nước xã hội chủ nghĩa (dựa vào tình họ hàng, quê hương mà nâng đỡ, bao che , phe
cánh, coi tài sản nhà nước như của cha chung...). Thanh niên và các bậc phụ huynh lại toan tính con
đường chắc chắn: học cho có bằng cấp vào biên chế, sống dựa vào Nhà nước, kiếm lộc và... kiếm
bổng. Chuẩn bị vào đời bằng trau dồi “tư cách” (nhận xét tốt và đạo đức, vốn hoạt động chính trị...) và
bằng bằng cấp chứ không phải bằng nghề nghiệp tự lập. Ngoài cách đó, cũng lại có chuyện làm giàu
trái pháp luật, cũng hưởng thụ lén lút, cũng tìm chỗ dựa dẫm để che giấu: những cái tiêu cực theo
đường mòn mà đến xã hội mới hoặc nguyên hình hoặc biến dạng.
Phát sinh vấn đề là từ chỗ khi ta bắt đầu xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải tiếp nhận
một tổ chức kinh tế - xã hội của những hộ tiểu nông, những làng xã với một ít đô thị chưa có công
nghiệp phát triển với tâm lý xã hội tương ứng với tình hình phổ biến là nông thôn - và là nông thôn
chịu ảnh hưởng Nho giáo - như vậy. Khi tiến hành tổ chức lại, ta chưa chú ý cái nguồn gốc Nho giáo
và không có ý thức tránh hội tụ những điều kiện làm cái cũ tái sinh.
Nếu như trước đây, trong cuộc sống phổ biến có tính nông thôn Nho giáo ảnh hưởng không chỉ đến
các tầng lớp thống trị mà đến cả trí thức, nông dân, thì ngày nay trong cuộc sống căn bản vẫn còn là
nông thôn, cũng không chỉ là nông dân mà cả trí thức
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Xã hội học, số 3 - 1986
Hiểu và ngăn chặn 43
cán bộ, đảng viên chưa thấy sự đối lập giữa lối sống cũ theo Nho giáo và lối sống công nghiệp hiện đại
của xã hội xã hội chủ nghĩa: thành phố chứ không phải nông thôn (hay thành thị hóa nông thôn chứ
không phải nông thôn hóa thành thị), công nghiệp chứ không phải nông nghiệp, khoa học-kỹ thuật chứ
không phải đạo lý, cá nhân - công dân trong xã hội chứ không phải con em trong làng nước, luật pháp
chứ không phải tình nghĩa. Những con người - ông già và thanh niên - giống như những nhà nho xưa
tự hào về đạo đức, ưa sống nhàn nhã, trà lá, lề mề và hay nói suông những chuyện “khoa học”, “hiện
đại”, thiếu nghề nghiệp và thiếu cả quyết tâm hành động thực tế, đầy thiện chí thương dân, yêu nước
mà cũng đầy ảo tưởng; theo ảo tưởng nên tính toán sai, đầy thiện chí nên tự tin, cố chấp. Những quan
điểm coi nghĩa trọng hơn lợi, đức trọng hơn tài, giáo hóa hơn hình chính, tình nghĩa hơn lẽ phải, dẫn
đến chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa gia đình. Tất cả gây ra lùng nhùng, giây giưa trong sự lùng nhùng.
Đó là chỗ tai hại khó khắc phục nhất của ảnh hưởng Nho giáo đối với sự nghiệp phát triển kinh tế.
Nho giáo không phải là học thuyết kinh tế, không ra mặt đối lập với chủ nghĩa xã hội, không tác
động trực tiếp vào những đường lối, chủ trương về kinh tế. Nhưng bằng những quan điểm về cách
sống, bằng cách suy nghĩ, tính toán, bằng động cơ, tâm lý do nó để chống lại công việc xây dựng kinh
tế xã hội chủ nghĩa bị nó làm sa lầy, bị làm mục ruỗng, bị phá hoại. Quyết định vấn đề xây dựng kinh
tế là tài nguyên, là vốn, là kỹ thuật, tổ chức quản lý kinh doanh chứ không phải là ý thức và tâm
lýTuy vậy nếu không giải quyết những vấn đề liên quan đến xã hội, đến con người như vậy thì xây
dựng cũng dễ bị lạc hướng về nẻo xưa. Sự định hướng của những cái cũ, vô ý mà để trỗi dậy như vậy,
dầu chắc chắn không thể làm hỏng con đường theo quy luật tất yếu là xây dựng thành chủ nghĩa xã
hội, nhưng cũng gây ra nhiều bước quanh co, mất nhiều thời gian và sức lực. Nhận thức về vai trò Nho
giáo và nhận diện ảnh hưởng của nó trong thực tế là điều hết sức quan trọng trong thời gian ban đầu đi
lên chủ nghĩa xã hội. Có hiểu nó mới tìm ra cách cô lập, vô hiệu hóa ảnh hưởng, mới biết tránh hội tụ
những điều kiện để nó thông qua thói quen suy nghĩ, tâm lý xã hội cũ làm bánh xe rơi xuống rãnh cũ.
Nói cách khác, đó cũng là giữ vững tính đô thị, tính công nghiệp, tính khoa học trong các cơ sở kinh tế
xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng ta không nên bằng lòng với những nhận định sách vở. Nho giáo có
những điều kiện tồn tại nhất định; ảnh hưởng của nó cũng rất khác nhau ở những vùng đất, những địa
hạt những đối tượng khác nhau. Cho nên chúng ta rất cần có những kết luận xã hội học về thực tế ảnh
hưởng do ở nông thôn và thành thị. Ở xí nghiệp, cơ quan, trường học, ở người già và người trẻ, ở dân
thường và cán bộ, đảng viên, ở miền Nam và miền Bắc, ở một số tỉnh có ý nghĩa vùng văn hóa... thì
mới có biện pháp giải quyết có hiệu quả.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so3_1986_trandinhhuou_5805.pdf