Tài liệu Hiệu quả thử nghiệm đào tạo kĩ năng quản lí lớp học cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0194
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8B, pp. 78-86
This paper is available online at
HIỆU QUẢ THỬ NGHIỆM ĐÀO TẠO KĨ NĂNG QUẢN LÍ LỚP HỌC CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Khúc Năng Toàn1, Lê Hoài Thu2
1Khoa Tâm lí - Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2Khoa Quốc tế, Đại học Quốc Gia Hà Nội
Tóm tắt. Chương trình đào tạo thử nghiệm kĩ năng quản lí lớp học được thiết kế tập trung
phát triển 10 kĩ năng cơ bản (microskills) theo mô hình cân bằng (Balance model) trong
quản lí lớp học. 31 sinh viên (nhóm thực nghiệm) năm thứ 4 tự nguyện đăng kí tham dự
chương trình đào tạo, trước khi đi thực tập tốt nghiệp. Mức độ ảnh hưởng của chương trình
đào tạo đối với sự tiến bộ về KNQLLH của sinh viên được xác định trên cơ sở so sánh kĩ
năng của sinh viên nhóm thực nghiệm với 37 sinh viên (nhóm đối chứng) được lựa chọn
ngẫu nhiên từ các đoàn thực tập, dựa trên đánh giá của giáo viên hướng dẫn thực tập. Kết
quả...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả thử nghiệm đào tạo kĩ năng quản lí lớp học cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0194
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8B, pp. 78-86
This paper is available online at
HIỆU QUẢ THỬ NGHIỆM ĐÀO TẠO KĨ NĂNG QUẢN LÍ LỚP HỌC CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Khúc Năng Toàn1, Lê Hoài Thu2
1Khoa Tâm lí - Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2Khoa Quốc tế, Đại học Quốc Gia Hà Nội
Tóm tắt. Chương trình đào tạo thử nghiệm kĩ năng quản lí lớp học được thiết kế tập trung
phát triển 10 kĩ năng cơ bản (microskills) theo mô hình cân bằng (Balance model) trong
quản lí lớp học. 31 sinh viên (nhóm thực nghiệm) năm thứ 4 tự nguyện đăng kí tham dự
chương trình đào tạo, trước khi đi thực tập tốt nghiệp. Mức độ ảnh hưởng của chương trình
đào tạo đối với sự tiến bộ về KNQLLH của sinh viên được xác định trên cơ sở so sánh kĩ
năng của sinh viên nhóm thực nghiệm với 37 sinh viên (nhóm đối chứng) được lựa chọn
ngẫu nhiên từ các đoàn thực tập, dựa trên đánh giá của giáo viên hướng dẫn thực tập. Kết
quả cho thấy, chương trình đào tạo có ảnh hưởng đáng kể đến sự tiến bộ của sinh viên ở 5
kĩ năng cơ bản liên quan đến hướng dẫn và củng cố hành vi. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu
bước đầu, chương trình được kiến nghị triển khai thử nghiệm ở quy mô lớn hơn, với những
điều chỉnh hợp lí về thời lượng đối với 5 kĩ năng can thiệp hành vi.
Từ khóa: Kĩ năng quản lí lớp học; đào tạo kĩ năng quản lí lớp học; mô hình cân bằng trong
quản lí lớp học.
1. Mở đầu
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành (2009) đã
xác định rất rõ rằng, năng lực xây dựng môi trường học tập (tiêu chí 13, tiêu chuẩn 6) là một tiêu
chí quan trọng trong tiêu chuẩn về năng lực dạy học của giáo viên [1]. Như vậy, nếu lấy chuẩn
nghề nghiệp làm cơ sở để xây dựng chương trình đào tạo nghề thì các nội dung về quản lí lớp học
(QLLH) phải được xem là một phần không thể thiếu trong chương trình đào tạo giáo viên, bởi
QLLH chính là quá trình kiến tạo và duy trì môi trường học tập cho học sinh trong quá trình dạy
học [4]. Tuy nhiên, thực tế đào tạo và bồi dưỡng giáo viên ở nước ta hiện nay còn tụt hậu quá xa
so với những quan điểm chỉ đạo mang tính hệ thống này.
Mặc dù luôn coi trọng việc đào tạo nghiệp vụ sư phạm (NVSP) và các kĩ năng sư phạm
(KNSP) cho sinh viên, song do cách tiếp cận truyền thống trong đào tạo nghề sư phạm (tiếp cận
“dạy học – giáo dục”), chương trình đào tạo NVSP ở các trường sư phạm hiện nay còn bỏ sót khá
nhiều KNSP quan trọng, trong đó có các kĩ năng quản lí lớp học (KNQLLH). Cụ thể, chương trình
NVSP hiện nay trong các trường sư phạm, với trọng tâm là 4 nhóm KNSP cơ bản (thiết kế bài dạy;
tổ chức dạy học trên lớp; giáo dục học sinh; nghiên cứu khoa học), đã bao hàm một số kĩ năng liên
quan đến quản lí lớp học (Vd: kĩ năng dự kiến tình huống giờ dạy, phân phối thời gian và xử lí tình
Ngày nhận bài: 5/8/2015. Ngày nhận đăng: 10/10/2015.
Liên hệ: Khúc Năng Toàn, e-mail: nkhuc1@gmail.com
78
Hiệu quả thử nghiệm đào tạo kĩ năng quản lí lớp học cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
huống) [11]. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách hệ thống thì những kĩ năng liên quan đến QLLH trong
chương trình NVSP hiện hành chưa đảm bảo đáp ứng các yêu cầu QLLH hiệu quả. Báo cáo tổng
kết thực tập sư phạm năm học 2012-2013 của Trường ĐH Sư Phạm Hà Nội [2] đã chỉ ra những
yếu kém về KNSP của sinh viên trong quá trình thực tập sư phạm, bao gồm: kĩ năng diễn đạt, bao
quát lớp, xử lí tình huống trong dạy học, và phân phối thời gian. Thực chất, đây là những yếu kém
về KNQLLH.
Những bất cập nêu trên đang đặt ra một yêu cầu bức thiết về xây dựng chương trình đào tạo
KNQLLH cho sinh viên các trường sư phạm ở nước ta hiện nay. Bài viết này tập trung phân tích
những kết quả thử nghiệm bước đầu chương trình đào tạo KNQLLH cho sinh viên Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội. Kết quả phân tích sẽ là những cơ sở quan trọng để hiệu chỉnh và triển khai thử
nghiệm quy mô hơn chương trình đào tạo KNQLLH cho sinh viên sư phạm, đáp ứng với những
yêu cầu thực tiễn trong đào tạo nghề sư phạm hiện nay.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Kĩ năng quản lí lớp học và Đào tạo kĩ năng quản lí lớp học cho sinh viên sư
phạm
Một cách chung nhất, QLLH thường được hiểu là những nỗ lực của giáo viên nhằm kiến
tạo và duy trì môi trường học tập hiệu quả trong lớp học. Theo Wong & Wong (2001), khái niệm
QLLH bao hàm tất cả các hoạt động tổ chức, sắp xếp thời gian và không gian lớp học, cũng như tài
liệu học tập và người học sao cho việc học được diễn ra một cách hiệu quả [13]. Krause, Bouchner
& Duchesne (2003) cũng cho rằng, QLLH liên quan đến toàn bộ quá trình lập kế hoạch (planning),
tổ chức (organization) và kiểm soát (control) học sinh, quá trình học tập cũng như môi trường lớp
học để kiến tạo và duy trì môi trường học tập hiệu quả trong lớp học [12].
Mặc dù khái niệm QLLH được định nghĩa khá rộng, song các lí thuyết và mô hình QLLH,
cũng như các chương trình đào tạo về KNQLLH hiện nay thường chủ yếu tập trung vào các nội
dung liên quan đến quản lí học sinh, hành vi của học sinh và xây dựng bầu không khí lớp học.
Theo đó, khái niệm QLLH thường được giới hạn trong phạm vi những nỗ lực của giáo viên nhằm
“khuyến khích và hình thành khả năng tự chủ của học sinh thông qua quá trình thúc đẩy những
hành vi tích cực của các em” [3].
Nội dung của QLLH, theo Marzano (2003), bao gồm: thiết lập nội quy và nề nếp, can thiệp
kỉ luật, quan hệ thầy – trò và định hướng tâm lí [5]. Simonsen và các cộng sự thuộc Đại học
Connecticut (2008) cũng xác định 5 nội dung cơ bản của QLLH, bao gồm: tối ưu hóa kết cấu lớp
học (quy tắc, nội quy); phổ biến, giám sát, nhắc nhở và củng cố các kì vọng hành vi đối với học
sinh; chủ động cuốn hút học sinh tham gia các hoạt động trên lớp; phản ứng với các hành vi tích
cực/phù hợp của học sinh; và ứng phó với những hành vi có vấn đề của học sinh [10]. Báo cáo năm
2014 về đào tạo QLLH cho sinh viên trong các chương trình đào tạo giáo viên tại Hoa Kì của Hội
đồng Quốc gia về Chất lượng giáo viên nhấn mạnh 5 khía cạnh nội dung (Big-five) của QLLH,
bao gồm: (1) thiết lập quy tắc lớp học; (2) thiết lập các quy trình học tập trên lớp; (3) khích lệ và
khen ngợi học sinh; (4) xử lí hành vi sai phạm; và (5) khuyến khích và duy trì sự tham gia của học
sinh. Đây cũng được xem là 5 biện pháp QLLH cơ bản được nghiên cứu trong hơn 60 năm ở Hoa
Kì [6].
Tổng quan của Newell & Yeigh (2012) về 6 khuynh hướng tiếp cận cơ bản trong QLLH và
đào tạo về QLLH ở Australia hiện nay đặc biệt nhấn mạnh đến mô hình cân bằng (balance model)
do Christine Richmond (2007) đề xuất [7,9]. Theo Newell & Yeigh, mô hình cân bằng đáp ứng
những yêu chí cơ bản của 1 hệ thống QLLH hiệu quả, như (1) được xây dựng trên nền tảng lí luận
mang tính khoa học và hệ thống chặt chẽ; (2) được hậu thuẫn bởi các nghiên cứu thực chứng; (3)
đặt người học vào vị trí trung tâm; (4) thể hiện khuynh hướng tích cực và chủ động trong tiếp
cận quản lí. Trên cơ sở mô hình cân bằng, một chương trình hỗ trợ QLLH – Đào tạo và giám sát
79
Khúc Năng Toàn, Lê Hoài Thu
các kĩ năng cơ bản (Mcroskills Training & Observation - MTO) – đã được xây dựng nhằm giúp
giáo viên cân bằng thời gian giảng dạy kiến thức với thời gian giải quyết các vấn đề liên quan đến
QLLH trong dạy học [7]. Chương trình này đã và đang được triển khai hết sức hiệu quả ở Bang
Queensland và một số bang khác ở Australia. Chương trình đào tạo thử nghiệm KNQLLH cho sinh
viên ĐHSP Hà Nội được chúng tôi xây dựng dựa theo MTO. Các kĩ năng mục tiêu của chương
trình đào tạo được tóm tắt ở bảng 1.
Bảng 1. Các kĩ năng cơ bản trong quản lí lớp học, theo mô hình cân bằng
Chức
năng Kĩ năng Mô tả
Yêu cầu
hành vi
Xác lập lập kì vọng
Thiết lập nội quy và các quy tắc hành vi trong lớp
học
Hướng dẫn hành vi
Hướng dẫn học sinh những việc cần làm trong các
tình huống cụ thể
Ngừng và bao quát Đánh giá những gì đang diễn ra trong lớp học
Khen ngợi để nhắc nhở
Khen ngợi hành vi tốt của 1 học sinh nào đó để nhắc
nhở những sai phạm của học sinh khác
Củng cố
hành vi
Biểu đạt phi ngôn ngữ
khích lệ
Cười, gật đầu, lại gần, hoặc cử chỉ/điệu bộ khác
Khích lệ mô tả Mô tả hành vi tích cực vừa để khen ngợi, vừa để xác
nhận.
Can
thiệp
hành vi
Lựa chọn chú ý
Điều tiết chú ý hợp lí đối với các hành vi có vấn đề,
tùy theo mức độ sai phạm
Nhắc nhở sai phạm
Nhắc học sinh tập trung vào nhiệm vụ học tập khi có
những sai phạm
Lựa chọn bắt buộc
Mô tả những lựa chọn có thể và những hệ quả hành
vi của từng lựa chọn
Thực thi nhất quán Thực hiện đúng những gì đã nói với học sinh
Theo MTO, mấu chốt để đảm bảo sự cân bằng chính là khả năng giáo viên có thể sử dụng
hiệu quả các kĩ năng cơ bản (microskills) để củng cố mối quan hệ với học sinh và tăng cương tính
tự chủ, tự giác của học sinh trong học tập [7]. Cụ thể, giáo viên cần đảm bảo (1) học sinh luôn
hiểu rõ mình cần hành xử thế nào cho phù hợp (kĩ năng yêu cầu hành vi); (2) những hành vi phù
hợp của học sinh phải được ghi nhận, khích lệ (kĩ năng củng cố hành vi); và (3) những sai phạm
phải được nhắc nhở, uốn nắn kịp thời (kĩ năng can thiệp hành vi). Sự toàn diện của giáo viên về
KNQLLH sẽ đảm bảo sự cân bằng trong việc thực thi 3 nguyên tắc mục tiêu nói trên trong QLLH.
Trái lại, sự bất cập về về một khía cạnh kĩ năng nào đó của giáo viên sẽ dẫn đến sự mất cân bằng
trong việc thực hiện các mục tiêu nguyên lí, từ đó sẽ dẫn đến những bất cập trong QLLH và những
vấn đề hành vi của học sinh trong lớp [9].
Về căn bản, các kĩ năng mục tiêu của chương trình đào tạo KNQLLH theo mô hình cân
bằng tương đối thống nhất với hệ thống các KNQLLH được xác định trong các chương trình đào
tạo giáo viên hiện nay ở Hoa Kì, Australia và một số quốc gia khác. Theo báo cáo năm 2014 của
Hội đồng Quốc gia về Chất lượng giáo viên của Hoa Kì, phần lớn (> 50%) các chương trình đào
tạo KNQLLH cho giáo viên hiện nay ở quốc gia này tập trung vào 3 nội dung kĩ năng cơ bản, bao
gồm thiết lập quy tắc lớp học và các quy trình học tập trên lớp; xử lí hành vi sai phạm; và khích
lệ, củng cố hành vi [6]. Nghiên cứu của O’Neil & Stephensen (2011) về các chương trình đào tạo
80
Hiệu quả thử nghiệm đào tạo kĩ năng quản lí lớp học cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
giáo viên ở Australia cũng chỉ ra rằng, tuyệt đại đa số (85,7%) các chương trình đều bao hàm nội
dung đào tạo bắt buộc về QLLH với các nội dung đào tạo chủ yếu liên quan đến việc xây dựng quy
tắc, nội quy, nề nếp học tập trong lớp học; tích cực hóa hành vi của học sinh và ứng phó với những
sai phạm hành vi của học sinh trong lớp học [9].
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này được thiết kế theo mô hình thực nghiệm giáo dục. Các sinh viên tham gia
nghiên cứu được chia thành 2 nhóm (nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng). Sinh viên nhóm thực
nghiệm được cung cấp tài liệu và được đào tạo 10 KNQLLH cơ bản 1 tháng trước khi tham gia
đợt thực tập tốt nghiệp. Sinh viên nhóm đối chứng được lựa chọn ngẫu nhiên từ các nhóm thực tập
cùng đoàn với các sinh viên trong nhóm thực nghiệm theo tỉ lệ 1:1. Theo cách này, sinh viên được
lựa chọn đối chứng thường có cùng chuyên ngành đào tạo, cùng lớp dạy thực tập và cùng giáo viên
hướng dẫn thực tập với sinh viên thuộc nhóm thực nghiệm. Do được lựa chọn sau khi đã đi thực
tập, các sinh viên trong nhóm đối chứng không tham gia chương trình đào tạo về KNQLLH. Ngay
khi bắt đầu đợt thực tập, giáo viên hướng dẫn thực tập tại các cơ sở thực tập được phổ biến yêu
cầu bổ sung về giám sát các kĩ năng tổ chức và QLLH của giáo sinh trong quá trình thực tập giảng
dạy. Giáo viên hướng dẫn thực tập không được biết danh sách sinh viên các nhóm thực nghiệm và
đối chứng. Trong tuần cuối cùng của đợt thực tập, các giáo viên hướng dẫn thực tập được yêu cầu
đánh giá KNQLLH của sinh viên cả 2 nhóm theo mẫu đánh giá bổ sung.
Nghiệm thể:
Tổng số nghiệm thể của nghiên cứu bao gồm 68 sinh viên năm thứ tư, được lựa chọn ngẫu
nhiên từ 04 đoàn thực tập; trong đó 38 sinh viên thuộc các khoa tự nhiên (Toán, Vật lí, Hóa học,
Sinh học) và 30 sinh viên thuộc các khoa xã hội (Ngữ Văn, Lịch Sử; Giáo dục chính trị). Nhóm
thực nghiệm gồm 31 sinh viên; nhóm đối chứng gồm 37 sinh viên. Việc tham gia chương trình
nghiên cứu của các sinh viên hoàn toàn mang tính tự nguyện. Thông qua các trưởng đoàn thực tập
và website của chương trình, các sinh viên nhận được thông tin về chương trình đào tạo KNQLLH
và tự nguyện đăng kí tham dự. Sinh viên cũng được thông báo trước về nội dung đánh giá bổ sung
trong quá trình thực tập tốt nghiệp.
Nội dung thực nghiệm
Chương trình đào tạo thử nghiệm được thiết kế theo 10 modules đào tạo kĩ năng. Quá trình
đào tạo được tổ chức theo phương thức luyện tập kĩ năng theo nhóm. Các hoạt động cơ bản bao
gồm thảo luận nhóm (phân tích kĩ năng) và đóng vai tình huống (thực hành kĩ năng). Nội dung,
mục tiêu và thời lượng đào tạo được tóm tắt ở bảng 2.
Bảng 2. Nội dung chương trình thử nghiệm đào tạo KNQLLH cho sinh viên sư phạm
Modules Mục tiêu
(Hoàn thành module đào tạo, sinh viên có thể)
Thời lượng
(tiết)
Module 1:
Xác lập kì vọng hành vi
Biểu đạt một cách rõ ràng các yêu cầu hành vi đối
với học sinh trong lớp
4
Module 2:
Hướng dẫn hành vi
Đưa ra các hướng dẫn hành vi đối với học sinh một
cách phù hợp trong các tình huống cụ thể
4
Module 3:
Ngừng và bao quát lớp
Ngừng lời, quan sát và đánh giá nhanh những gì đang
diễn ra.
3
Module 4:
Khen ngợi để nhắc nhở
Nhắc nhở sai phạm hành vi bằng cách khen ngợi
những hành vi tích cực của học sinh khác
3
81
Khúc Năng Toàn, Lê Hoài Thu
Module 5:
Khích lệ phi ngôn ngữ
Sử dụng các hình thức biểu đạt phi ngôn ngữ để khen
ngợi những hành vi phù hợp. 3
Module 6:
Khích lệ mô tả
Dùng lời mô tả hành vi tích cực để khen ngợi học
sinh
4
Module 7:
Chú ý có lựa chọn
Điều tiết chú ý hợp lí đối với những hành vi sai phạm
của học sinh trong lớp
2
Module 8:
Nhắc nhở sai phạm
Hướng học sinh vào các nhiệm vụ học tập khi các
em mất tập trung
2
Module 9:
Lựa chọn bắt buộc
Mô tả những lựa chọn hành vi có thể và hệ quả của
từng lựa chọn trong tình huống cụ thể
3
Module 10:
Thực thi nhất quán
Thực hiện đúng những gì đã nói với học sinh. 2
Tổng thời lượng: 30 tiết
Đo lường kết quả
Kĩ năng quản lí lớp học của sinh viên được giáo viên hướng dẫn thực tập đánh giá theo mẫu
trên cơ sở giám sát quá trình thực tập giảng dạy của sinh viên. Mẫu đánh giá được giới thiệu và
cung cấp cho giáo viên hướng dẫn ngay khi bắt đầu đợt thực tập. Mẫu đánh giá bao gồm 20 mục
tương ứng với các khía cạnh cụ thể của 10 KNQLLH cơ bản. Từng khía cạnh kĩ năng được đánh
giá theo thang likert 5 bậc (1 = quá kém so với kì vọng về kĩ năng tương ứng cần có; 5 = đáp ứng
tốt kì vọng về kĩ năng). Giáo viên cũng có thể lựa chọn “không có” nếu không quan sát thấy sinh
viên có những hành động thể hiện kĩ năng cần đánh giá trong suốt quá trình thực tập giảng dạy.
Danh sách sinh viên được đánh giá về KNQLLH chỉ được cung cấp cho giáo viên hướng dẫn tại
thời điểm đánh giá ở tuần cuối của đợt thực tập.
Phân tích kết quả
Các số liệu thu thập được từ những đánh giá của giáo viên hướng dẫn thực tập được nhập
và xử lí bằng SPSS. Các phân tích thống kê mô tả (Vd, điểm trung bình, độ lệch chuẩn) được thực
hiện để đánh giá mức độ KNQLLH của sinh viên và nhóm sinh viên. Mức độ ảnh hưởng (effect
size) của chương trình đào tạo đối với KNQLLH của sinh viên được xác định đối với từng kĩ năng
cụ thể trên cơ sở so sánh điểm kĩ năng của sinh viên nhóm thực nghiệm với sinh viên nhóm đối
chứng, theo công thức tính Cohen’s d. Theo đó, với d ≥ 0,8, chương trình đào tạo được xác định
có ảnh hưởng lớn đối với KNQLLH của sinh viên; với 0,8 > d ≥ 0,4, ảnh hưởng được xác định ở
mức trung bình; với 0,4 > d ≥ 0,2, ảnh hưởng được xác định ở mức thấp; với d < 0,2, chương trình
đào tạo được xem là không có ành hưởng đáng kể đến KNQLLH của sinh viên. Do hạn chế về kích
thước mẫu nghiên cứu, quá trình phân tích kết quả chỉ dừng ở mức so sánh nhóm thực nghiệm với
nhóm đối chứng. Các so sánh lát cắt (vd, giới tính, nhóm ngành, địa bàn thực tập) không thể thực
hiện vì kích thước mẫu không đảm bảo hiệu lực thống kê. Cụ thể, với các chỉ số thống kê α = 0,05;
1-β = 0,8; mức độ ảnh hưởng Cohen’s d (dự kiến) = 0,8; t-test, significant-2 tails đối với các nhóm
độc lập (independent groups), kích thước mẫu tối thiểu được xác định là 52 (26 cho mỗi nhóm).
Với tiêu chuẩn này, mẫu nghiên cứu hiện có (68; 31 thực nghiệm, 37 đối chứng) chỉ cho phép so
sánh định lượng ở cấp độ nhóm thực nghiệm và đối chứng.
2.3. Kết quả nghiên cứu
Theo mẫu đánh giá, điểm tối thiểu ở từng kĩ năng là 1 điểm, đồng nghĩa với việc sinh viên
không có những hành động tương ứng với kĩ năng cần đánh giá, theo quan sát của giáo viên hướng
dẫn; điểm tối đa ở từng kĩ năng là 6 điểm, tương ứng với khả năng sinh viên đáp ứng tốt kì vọng
82
Hiệu quả thử nghiệm đào tạo kĩ năng quản lí lớp học cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
của giáo viên hướng dẫn về kĩ năng được đánh giá. Hệ số Cronbach’s Alpha = 0,968 cho thấy sự
nhất quán cao trong đánh giá của giáo viên hướng dẫn đối với các KNQLLH của sinh viên thực
tập. Điều này phần nào nói lên độ tin cậy của những kết quả thu được liên quan đến KNQLLH của
sinh viên ĐHSP.
Bảng 3. Kĩ năng quản lí lớp học của sinh viên
theo đánh giá của giáo viên hướng dẫn thực tập
Nội dung kĩ năng quản lí lớp học Các kĩ năng cụ thể Các nhóm kĩ năng
ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC
Yêu cầu
hành vi
Xác lập kì vọng hành vi 4,98 0,75
5,00 0,71
Hướng dẫn hành vi 5,01 0,74
Ngừng và bao quát lớp 5,05 0,83
Khen ngợi để nhắc nhở 4,98 0,76
Củng cố
hành vi
Khích lệ phi ngôn ngữ 5,07 0,77
5,05 0,76
Khích lệ mô tả 5,03 0,79
Can thiệp
hành vi
Chú ý có lựa chọn 4,88 1,00
4,87 0,95
Nhắc nhở sai phạm 4,83 1,03
Lựa chọn bắt buộc 4,92 1,05
Thực thi nhất quán 4,92 0,89
Ghi chú: ĐTB: Điểm trung bình; ĐLC: Độ lệch chuẩn
Bảng 3 cho thấy, điểm trung bình các KNQLLH của sinh viên đều đạt mức gần bằng 5,0
(4,83 5,07), theo đánh giá của giáo viên hướng dẫn thực tập. Những kĩ năng khích lệ và hướng dẫn
hành vi được đánh giá nhỉnh hơn (ĐTB > 5,0) so với những kĩ năng xử lí các vấn đề hành vi (ĐTB
< 5,0). Theo nhóm, có thể nhận thấy rằng, sinh viên được đánh giá cao hơn ở các kĩ năng củng cố
hành vi (ĐTB = 5,05), tiếp đến là những kĩ năng đề xuất yêu cầu hành vi (ĐTB = 5,00), cuối cùng
là các kĩ năng can thiệp hành vi (ĐTB = 4,87). Như vậy, ở mặt bằng chung, sinh viên đã phần nào
đáp ứng những kì vọng của giáo viên hướng dẫn về KNQLLH đối với sinh viên thực tập. Đánh giá
của giáo viên hướng dẫn cũng đồng thời cho thấy xu hướng tiếp cận kỉ luật tích cực trong quản lí
hành vi lớp học của sinh viên. Cụ thể, sinh viên thể hiện sự nổi trội ít nhiều trong việc khích lệ
các hành vi tích cực (các kĩ năng kỉ luật tích cực như hướng dẫn hành vi, khích lệ bằng ngôn ngữ
và phi ngôn ngữ đều có ĐTB >5,0). Nghĩa là, hướng nhiều hơn đến sự chủ động kiến tạo các hành
vi phù hợp, thay vì tập trung vào ngăn chặn, ứng phó với các hành vi có vấn đề của học sinh trong
lớp. Tuy nhiên, vấn đề được quan tâm chính ở đây là hiệu quả của việc đào tạo KNQLLH đối với
sinh viên.
Bảng 4 cho thấy, ĐTB các kĩ năng của sinh viên ở cả 2 nhóm luôn cao hơn 4,0 – mức điểm
được đánh giá là đáp ứng tương đối tốt những yêu cầu về QLLH, theo giáo viên hướng dẫn. ĐTB
của sinh viên nhóm thực nghiệm luôn nhỉnh hơn so với ĐTB của sinh viên nhóm đối chứng ở tất
cả các kĩ năng. Tuy nhiên, hệ số ảnh hưởng tính theo Cohen’s d chỉ xác nhận mức độ ảnh hưởng
thấp của chương trình đào tạo đối với 5 kĩ năng, bao gồm: kĩ năng xác lập kì vọng hành vi (d =
0,2); hướng dẫn hành vi (d = 0,2); khen để nhắc nhở (d = 0,3); khích lệ mô tả (d = 0,3) và nhắc
nhở sai phạm (d = 0,2). Trong nhóm thực nghiệm, phần lớn ĐTB các kĩ năng của sinh viên đều
lơn hơn 5,0; ĐTB của các kĩ năng khích lệ và yêu cầu hành vi nhỉnh hơn so với các kĩ năng can
thiệp hành vi. Trong khi đó, phần lớn ĐTB các kĩ năng của sinh viên nhóm đối chứng đều dưới
5,0; ĐTB của các kĩ năng khích lệ và hướng dẫn hành vi của sinh viên nhóm này cũng nhỉnh hơn
so với ĐTB của các kĩ năng can thiệp hành vi.
83
Khúc Năng Toàn, Lê Hoài Thu
Bảng 4. Tác động của quá trình đào tạo đối với
kĩ năng quản lí lớp học của sinh viên trường ĐHSPHN
Kĩ năng Thực nghiệm (n=31) Đối chứng (n=37) Mức độ ảnh hưởng
(Cohen’s d)ĐTB ĐLC ĐTB ĐLC
Xác lập kì vọng hành vi 5,06 0,69 4,92 0,79 0,2
Hướng dẫn hành vi 5,09 0,67 4,95 0,80 0,2
Ngừng và bao quát lớp 5,09 0,88 5,02 0,81 0,1
Khen ngợi để nhắc nhở 5,11 0,69 4,87 0,80 0,3
Khích lệ phi ngôn ngữ 5,13 0,73 5,03 0,82 0,1
Khích lệ mô tả 5,15 0,73 4,93 0,84 0,3
Chú ý có lựa chọn 4,96 1,01 4,81 1,01 0,1
Nhắc nhở sai phạm 4,94 0,94 4,74 1,11 0,2
Lựa chọn bắt buộc 4,99 0,96 4,86 1,14 0,1
Thực thi nhất quán 4,97 0,93 4,88 0,87 0,1
Ghi chú: ĐTB: Điểm trung bình; ĐLC: Độ lệch chuẩn
Như vậy, chương trình đào tạo NVSP hiện nay, dù không bao hàm mục tiêu chuyên sâu về
đào tạo KNQLLH, vẫn đảm bảo khả năng đáp ứng các yêu cầu về KNQLLH của sinh viên sau khi
tốt nghiệp. Tuy nhiên, việc được đào tạo bổ sung đã tăng cường đáng kể mức độ đáp ứng cao hơn
các yêu cầu về KNQLLH cho sinh viên. Mặc dù mức độ hiệu quả còn tương đối hạn chế và chưa
thật đồng đều ở tất cả các nội dung, song chương trình đào tạo đã có những ảnh hưởng nhất định
đến sự phát triển một số KNQLLH cụ thể của sinh viên. Trong thiết kế chương trình thực nghiệm,
các kĩ năng đề xuất yêu cầu hành vi, khích lệ, khen ngợi được chú trọng hơn (chiếm thời lượng
nhiều hơn) để giúp sinh viên chủ động kiến tạo, củng cố và duy trì các hành vi tích cực của học
sinh trong lớp; chủ động ngăn chặn những sai phạm hành vi, thay vì tập trung đối phó với các vấn
đề hành vi khi đã xảy ra. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, mức độ ảnh hưởng lớn hơn được nhận
diện ở những kĩ năng mục tiêu được chú trọng đầu tư nhiều hơn về thời lượng trong chương trình
đào tạo.
Bên cạnh việc khẳng định hiệu quả đào tạo đối với sự tiến bộ về KNQLLH của sinh viên, kết
quả thử nghiệm cũng cho thấy một vài bất cập, cụ thể là sự mất cân đối trong nội dung chương trình
đào tạo. Mô hình cân bằng lấy nguyên nguyên tắc về sự cân bằng, hài hòa giữa các kĩ năng “yêu
cầu hành vi – củng cố hành vi – can thiệp hành vi” làm nguyên lí cơ bản cho các hoạt động/việc
làm liên quan đến QLLH. Tuy nhiên, chương trình đào tạo thử nghiệm với sự chú trọng nhiều hơn
đến các kĩ năng kỉ luật tích cực lại chưa làm tốt các nội dung liên quan đến các kĩ năng can thiệp
hành vi. Hệ quả của sự mất cân đối này rất có thể là xu hướng mất cân bằng “kiểu 2” (làm rõ các
yêu cầu và kì vọng hành vi đối với học sinh, song lại lạm dụng sự khích lệ, khen ngợi. Điều này sẽ
làm giảm hiệu lực củng cố của sự khen thưởng).
3. Kết luận
Thực tế nhà trường và những quy định mang tính pháp quy về chuẩn năng lực nghề đối với
giáo viên đã và đang đặt ra những yêu cầu về đào tạo KNQLLH cho sinh viên đại học sư phạm.
Việc lựa chọn mô hình, thiết kế và thử nghiệm đào tạo có thể xem là những bước đi không thể
thiếu để có thể xây dựng một chương trình đào tạo kĩ năng nghề đảm bảo khả năng đáp ứng tốt
nhất những yêu cầu về phát triển khía cạnh kĩ năng nghề này cho sinh viên. Nghiên cứu này được
thiết kế nhằm thử nghiệm đào tạo các KNQLLH cho sinh viên trường ĐHSP Hà Nội theo mô hình
84
Hiệu quả thử nghiệm đào tạo kĩ năng quản lí lớp học cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
cân bằng (Balance Model) – một mô hình đã và đang được vận dụng hết sức hiệu quả tại Australia.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra một số ưu điểm, cũng như những hạn chế của chương trình đã thiết
kế.
Kết quả đánh giá KNQLLH trong quá trình thực tập sư phạm của sinh viên cho thấy, toàn
bộ các kĩ năng QLLH cơ bản mà chương trình thử nghiệm tập trung phát triển đều đã ít nhiều
được đề cập trong chương trình đào tạo NVSP hiện hành. Nói cách khác, chương trình đào tạo
KNQLLH được thiết kế thử nghiệm hoàn toàn có khả năng kết nối tốt với các chương trình đào
tạo NVSP hiện nay, điều này đảm bảo sự kế thừa và bổ sung hiệu quả trong đào tạo NVSP.
Chương trình đào tạo thử nghiệm được thiết kế tập trung phát triển 10 kĩ năng QLLH cơ
bản (Microskills) theo mô hình cân bằng. Kết quả thử nghiệm đào tạo cho thấy, những nội dung
được ưu tiên về thời lượng trong chương trình đào tạo có ảnh hưởng đáng kể đến sự tiến bộ của các
kĩ năng tương ứng (khích lệ hành vi, xác lập kì vọng và hướng dẫn hành vi) ở sinh viên. Ngược
lại, những kĩ năng bị rút gọn về thời lượng lại không cho thấy những ảnh hưởng đáng kể. Như vậy,
để đảm bảo hiệu quả đào tạo kĩ năng, thời lượng đào tạo là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm. Cụ
thể, bên cạnh thời gian phân tích kĩ năng, sinh viên còn cần có đủ thời gian để thực hành những
kĩ năng đã được phân tích. Mô hình cần bằng trong QLLH nhấn mạnh sự hài hòa, đồng đều giữa
các kĩ năng cơ bản (Yêu cầu – củng cố - can thiệp) và xem đó như là nguyên lí để đảm bảo hiệu
quả trong QLLH. Vì vậy, sự thiếu hiệu quả của chương trình đào tạo thử nghiệm ở các kĩ năng can
thiệp hành vi cần phải được lưu tâm.
Từ những kế quả nghiên cứu thử nghiệm, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị như
sau:
- Xây dựng chương trình đào tạo các kĩ năng QLLH theo mô hình cân bằng – một mô hình
đã và đang được triển khai hiệu quả tại Australia, hoàn toàn phù hợp với chương trình đào tạo
NVSP hiện nay của trường ĐHSP Hà Nội. Vì vậy, cần xem xét việc thử nghiệm chương trình này
với quy mô lớn hơn để có thể xúc tiến quá trình triển khai thực hiện chương trình, nhằm tăng cường
khả năng đáp ứng nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm sau khi tốt nghiệp.
- Cần tăng cường thời lượng đào tạo các kĩ năng can thiệp hành vi để đảm bảo sự hài hòa,
cân đối trong sự phát triển KNQLLH của sinh viên; đảm bảo hiệu quả quản lí lớp học.
- Các kĩ năng mục tiêu của chương trình đào tạo theo mô hình cân bằng hoàn toàn tương
thích với những kĩ năng NVSP được xác định trong chương trình hiện nay. Vì vậy, cần có sự phân
tích hệ thống chương trình đào tạo NVSP hiện hành để xác định xem các KNQLLH đã được đề
cập ở mức độ nào, với nội dung cụ thể nào. Đồng thời, có thể xem xét khả năng tích hợp đào tạo
KNQLLH trong chương trình đào tạo NVSP hiện hành, nếu hướng này cho thấy những tín hiệu
khả quan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009. Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở và trung học
phổ thông (Ban hành kèm theo Thông tư số 30 /2009 /TT-BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm
2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
[2] Báo cáo tổng kết thực tập sư phạm năm học 2012-2013 của Phòng Đào tạo, Trường Đại học
Sư Phạm Hà Nội.
[3] Emmer, E.T., Evertson, C.M., Anderson, L.M., 1980. Effective classroom management at the
beginning of the school year. Elementary School Journal, 80(5), pp. 219-231.
[4] Froyen, L.A., Iverson, A.M., 1999. Schoolwide and Classroom Management: The Reflective
Educator-Leader. N.J.: Prentice-Hall.
[5] Lyons, G., Fords, M., Arthur-Kelly, M., 2011. Classroom Management: Creating possitive
environments. Sydney: Cengage Learning Australia Pty Limited.
85
Khúc Năng Toàn, Lê Hoài Thu
[6] Marzano, R.J., Marzano, J.S., Pickering, D.J., 2003. Classroom management that works:
Research-based strategies for every teacher. Virginia: Association for Supervision and
Curriculum Development.
[7] National Council on Teaching Quality, 2014. Training our future teachers: Classroom
management.
[8] Newell, S., Yeigh, T., 2012. Supporting students’ classroom behavior: An evaluation of
microskills training and observation process. Report prepared for the Catholic School Office.
[9] O’Neill, S.C., Stephenson, J., 2011. Classroom behavior management preparation in
undergraduate primary teacher education in Australia: A web-based investigation.
Australian Journal of Teacher Education, 36 (10), pp. 35 - 52.
[10] Richmond, C., 2007. Teach more manage less: A minimalist approach to behaviour
management. Sydney: Scholastic Press
[11] Simonsen, B., Fairbanks, S., Briesh, A., Myers, D., Sugai, G., 2008. Evidence-based
practices in classroom management: Considerations for Research to Practice. Educational
and Treatment of Children, 31(3), pp. 351-380.
[12] Trần Quốc Thành, 2010. Chương trình nghiệp vụ sư phạm chú trọng kĩ năng hành nghề. Tạp
Chí Quản Lí Giáo Dục. Học Viện Quản Lí Giáo Dục, số 9, 2/2010.
[13] Wong, H.K., Wong, R.T., 2001. How To Be an Effective Teacher: The First Days of School.
Mountain View, CA: Harry K. Wong Publications, Inc.
ABSTRACT
Pilot training to improve the classroom management skills
of students at the Hanoi National University of Education
A training program was designed which focuses on 10 micro skills for classroom
management, following the balance model. An experiment-control design was employed. The
experimental group consisted of 31 senior student teachers who were taught 10 micro skills
before being placed in an internship position. The control group consisted of 37 intern teachers
who were randomly selected from one school. The intern supervisors were asked to evaluate the
students’ classroom management skills on a form provided. Intern supervisors saw differences
between students of the experimental and control groups in terms of classroom management skills,
indicating that the training program had a small effect on five skills associated with establishing
behavioral expectations, behavior instructions and reinforcement. It is recommended that the
program be repeated using a larger sample with adjustments made for time needed for intervention
skill components.
Keywords: Classroom management micro skills, classroom management training, balanced
model of classroom management.
86
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3680_kntoan_9768_2178324.pdf