Hiệu quả nuôi dưỡng của súpcalor có bổ sung đạm theo mức độ dị hóa ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng

Tài liệu Hiệu quả nuôi dưỡng của súpcalor có bổ sung đạm theo mức độ dị hóa ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 164 HIỆU QUẢ NUÔI DƯỠNG CỦA SÚPCALOR CÓ BỔ SUNG ĐẠM THEO MỨC ĐỘ DỊ HÓA Ở BỆNH NHÂNCHẤN THƯƠNG SỌ NÃO NẶNG Huỳnh Văn Bình*, Đinh Hữu Hào*, Tạ Thị Tuyết Mai*, Trần Ngọc Trung* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Suy dinh dưỡng ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng làm tăng nguy cơ cai máy thất bại, nhiễm trùng, biến chứng, và kết quả điều trị kém. Mục tiêu nghiên cứu là đánh giá hiệu quả của nuôi dưỡng bằng súp calor có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng. Giả thuyết nghiên cứu là điểm CONUT trung bình vào ngày 7sau nhập việncủa nhóm can thiệp thấp hơn nhóm chứng 2 điểm. Phương pháp nghiên cứu: đây là một thử nghiệm lâm sàng, có nhóm chứng, không mù. Chúng tôi đã chọn 42 trường hợp vào nhóm can thiệp, so sánh với 27 trường hợp của nhóm chứng. Nhóm can thiệpđược nuôi dưỡng tiêu hoá hoàn toàn bằng chế độ súp calor, nhu cầu năng lượng...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 117 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả nuôi dưỡng của súpcalor có bổ sung đạm theo mức độ dị hóa ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 164 HIỆU QUẢ NUÔI DƯỠNG CỦA SÚPCALOR CÓ BỔ SUNG ĐẠM THEO MỨC ĐỘ DỊ HÓA Ở BỆNH NHÂNCHẤN THƯƠNG SỌ NÃO NẶNG Huỳnh Văn Bình*, Đinh Hữu Hào*, Tạ Thị Tuyết Mai*, Trần Ngọc Trung* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Suy dinh dưỡng ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng làm tăng nguy cơ cai máy thất bại, nhiễm trùng, biến chứng, và kết quả điều trị kém. Mục tiêu nghiên cứu là đánh giá hiệu quả của nuôi dưỡng bằng súp calor có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng. Giả thuyết nghiên cứu là điểm CONUT trung bình vào ngày 7sau nhập việncủa nhóm can thiệp thấp hơn nhóm chứng 2 điểm. Phương pháp nghiên cứu: đây là một thử nghiệm lâm sàng, có nhóm chứng, không mù. Chúng tôi đã chọn 42 trường hợp vào nhóm can thiệp, so sánh với 27 trường hợp của nhóm chứng. Nhóm can thiệpđược nuôi dưỡng tiêu hoá hoàn toàn bằng chế độ súp calor, nhu cầu năng lượng và đạm được tính theo cân năng lý tưởng, tuổi, giới và hệ số tiêu hao; lượng đạm được bổ sung theo cân bằng nitơ. Biến số nghiên cứu chính là điểm CONUT trung bình ngày 7. Biến số nghiên cứu phụ gồm tỷ lệ cải thiện mức độ suy dinh dưỡng, cân bằng nitơ ngày 3, 5, và 7. Số liệu được sử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 25,0. Cỡ mẫu được tính với độ mạnh 90%, sai số alpha 0,05. Kết quả: sự khác biệt về tuổi, giới, phẫu thuật, bệnh lý, và thời gian bắt đầu nuôi dưỡng giữa hai nhóm không có ý nghĩa thống kê. Tại ngày 7, điểm CONUT trung bình của nhóm can thiệp thấp hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (3 1 so với 5 2, p = 0,01). Nhóm can thiệp có tỷ lệ cải thiện mức độ suy dinh dưỡng cao hơn nhóm chứng, khác biệt có ý nghĩa thống kê (67% so với 33%, p = 0,007). Cân bằng nitơ vào ngày 3 là 1,3 (KTC 95% -2 – 1,4), ngày 5 là 0,6 (-0,8 – 2,1), và ngày 7 là -0,4 (-2,2 – 0,5). Kết luận: chế độ súpcalor có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá có hiệu quả cải thiện dinh dưỡng ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng. Từ khoá: suy dinh dưỡng, chấn thương sọ não, cân bằng nitơ, nuôi dưỡng tiêu hoá, CONUT. ABSTRACT THE FEEDING EFFECTOFSOUP CALOR WITH SUPPLEMENT OF PROTEIN FOLLOWTHE LEVEL OF CATABOLISMIN SEVERE BRAIN TRAUMATIC PATIENTS Huynh Van Binh, Dinh Huu Hao, Ta Thi Tuyet Mai, Tran Ngoc Trung * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 6- 2018: 164- 169 Background: The malnutrition in severe brain traumatic patients increased ventilator weaning failure, infection, complications, and poor outcome. The study’s objective was evaluated the feeding effect of soup calor with supplement of protein follow the level of catabolism in severe brain traumatic patients. The investigators hypothezied that mean of CONUT score at 7th day of the intervention group was lower than the controlled group about 2 points. Methods: This was controlled, no-blind, clinical trial. The investigators selected 42 cases into the intervention group, which was compared 27 cases of the controlled group. The intervention group was fed with soup calor. Energy and protein requirement was caculated base ideal body weight, gender, and activity factors; protein was more supplement follow nitrogen balance at 3rd, 5th, and 7th day after admission. The primary *Khoa Phẫu thuật Gây mê Hồi sức - Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định Tác giả liên lạc: BS.CKII. Huỳnh Văn Bình ĐT: 0918051820 Email: bshuynhvanbinh@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 165 outcome was mean of CONUT score at 7th day. The second outcomes were the rate of the improving malnutrition, nitrogen balance at 3rd, 5th, and 7th day. Data was processed by SPSS 25.0. The sample sizes were caculated with 90% of power, 0.05 of alpha. Results: The difference of age, gender, surgery, diagnostic, feedtime of the both groups were not significant. At 7th day, the mean of CONUT score of the intervention group was lower than the controlled group (3 1 vs 5 2, p = 0.01). The rate of the improving malnutritionof the intervention group was higher than the controlled group (67% vs 33%, p = 0.007). The nitrogen balance at 3rd day was 1.3 (CI 95% -2/ -1.4), at 5th day [06 (CI 95% -0.8 – 2.1)], and 7th day [-0.4 (CI 95% -2.2 – 0.5)]. Conclusions: the soup calor with supplement protein follow the level of catabolism was effect the improving nutrition in severe brain traumatic patients. Keywords: nutrition, brain trauma, head injury, malnutrition, CONUT, enternal nutrition, nitrogen balance. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh nhân chấn thương sọ não nặngbị tăng chuyển hóa, và tăng dị hoá hoá đạm. Tỷ lệ chuyển hoá có thể tăng tới 160%, và tăng dị hoá đạm với cân bằng nitơ từ (-3) đến (-16) g/ngày(5). Nhiều nghiên cứu đã chứng minh suy dinh dưỡng là một trong những yếu tố làm tăng nguy cơ lệ thuộc máy thở, tăng nguy cơ cai máy thất bại, sự hồi phục tri giác kém, tăng tỷ lệ nhiễm trùng và biến chứng(7,8). Nguyên nhân suy dinh dưỡng là chậm trễ nuôi dưỡng tiêu hóa(1). Ngược lại, nuôi dưỡng tiêu hoá sớm trong vòng 24 giờ sẽ giảm tỷ lệ nhiễm trùng, và biến chứng liên quan(6). Năm 2016, Huỳnh Văn Bình và cộng sự(3) đánh giá hiệu quả nuôi dưỡng của 27 trường hợp chấn thương sọ não nặng với mức năng lượng và nhu cầu đạm theo khuyến cáo, không có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá. Sau 7 ngày, điểm CONUT trung bình là 5 2, thấp hơn so với thời điểm nhập viện (7 2), p = 0,015. Cân bằng nitrogen vào ngày thứ 3 và thứ 5 luôn âm tính. Tỷ lệ cải thiện mức độ suy dinh dưỡng là 33,3%. Trong nghiên cứu này, tác giả chưa tính nhu cầu năng lượng và đạm theo mức độ tiêu hao như nhiễm trùng, đa chấn thương, sốt; và mức độ dị hoá đạm. Câu hỏi đặt ra là “chế độ dinh dưỡng súpcalor có bổ sung đạm theo mức độ dị hóa có hiệu quả nuôi dưỡng ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng không”? Chúng tôi đặt giả thuyết là chế độ dinh dưỡng súp calor có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá có điểm CONUT trung bình tại ngày 7 sau nhập viện thấp hơn nhóm chứng 2 điểm. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu: Mục tiêu nghiên cứu So sánh điểm CONUT ngày 7 của nhóm can thiệp và nhóm chứng. So sánh tỷ lệ cải thiện mức độ suy dinh dưỡng tại ngày 7 của hai nhóm. PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Nghiên cứu đã được chấp thuận của Hội đồng Khoa học và Hội đồng Đạo đức Bệnh viện Nhân Dân Gia Định vào ngày 15/05/2017. Những người tham gia nghiên cứu đã được cung cấp thông tin và chấp thuận ký tên vào phiếu tham gia nghiên cứu thông qua người đại diện hợp pháp trước khi được đưa vào nghiên cứu. Thiết kế nghiên cứu Thử nghiệm lâm sàng, có nhóm chứng, không mù. Tiêu chuẩn chọn mẫu Các trường hợp chấn thương sọ não có điểm glassgow lúc nhập hồi sức từ 4 – 8 điểm hoặc chấn thương sọ não cần thở máy sẽ được đưa vào nhóm đối tượng chọn mẫu. Đối tượng chọn mẫu sẽ được khám lâm sàng, cận lâm sàng, tiền sử bệnh để chọn đối tượng phù hợp với nghiên cứu. Các trường hợp chấn thương sọ não nặng, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 166 có hoặc không có kèm đa chấn thương nhưng không nguy kịch tính mạng (APACHE II < 25), được nuôi dưỡng tiêu hóa hoàn toàn đã được đưa vào nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ Gồm các trường hợp chấn thương sọ não nặng có kèm yếu tố nguy kịch tính mạng (sử dụng vận mạch liều cao, APCHE II > 25). Có chấn thương ống tiêu hóa kèm theo. Bệnh nhân cần nuôi tĩnh mạch hỗ trợ. Bệnh nhân tử vong, chuyển viện trong vòng 7 ngày điều trị. Bệnh nhân nuôi ăn tiêu hoá không đủ 7 ngày liên tục. Cỡ mẫu: giả thuyết nghiên cứu là chế độ dinh dưỡng súp calor có bổ sung đạm theo mức độ dị có điểm CONUT trung bình tại ngày 7 sau nhập viện thấp hơn nhóm chứng 2 điểm, độ mạnh nghiên cứu là 90%, tỷ lệ mất mẫu 10%, sai số alpha là 0,05. Vậy cỡ mẫu tối thiểu là 23 trường hợp. Nhóm nghiên cứu đã chọn được 42 trường hợp vào nhóm can thiệp. Nhóm chứng có 27 trường hợp được chọn từ nghiên cứu của Huỳnh văn Bình và cộng sự(3). Biến số nghiên cứu chính là điểm CONUT trung bình ngày 7 ngày. Ngày nhập viện được tính là ngày 0. Biến số nghiên cứu phụ gồm tỷ lệ cải thiện mức độ suy dinh dưỡng tại ngày 7. Cân bằng nitơ tại ngày thứ 3 và thứ 5, và thứ 7 sau nhập viện. Điểm CONUT được tính dựa vào lượng albumin, tế bào lympho, và cholesterol toàn phần trong máu. Bệnh nhân được chẩn đoán suy dinh dưỡng dựa vào thang điểm CONUT. Điểm CONUT được đánh giá vào ngày 1 và ngày 7. Điểm CONUT 0 - 1 (không suy dinh dưỡng), từ 2 - 4 (suy dinh dưỡng nhẹ), từ 5 - 8 (suy dinh dưỡng trung bình), từ 9 - 12 (suy dinh dưỡng nặng). Thời điểm nhập viện được tính là ngày 1, những bệnh nhân có suy dinh dưỡng lúc nhập viện, nếu sau 7 ngày mức độ suy dinh dưỡng giảm sẽ được tính có cải thiện. Cân bằng nitơ bình thường là 0 – 2. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn cân bằng nitơ chuẩn là 2. Quy trình nghiên cứu: bệnh nhân chấn thương sọ não có điểm glassgow từ 4 – 8 điểm trong vòng 24 giờ nhập hồi sức hoặc thở máy sẽ được đưa vào nghiên cứu. Ngày nhập viện là ngày 0. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng vào lúc 4 giờ ngày 1 và ngày 7. Tất cả bệnh nhân được tiến hành đo chiều cao ở tư thế nằm ngửa và các tình trạng khác liên quan đến đánh giá dinh dưỡng sẽ được thực hiện vào lúc nhập viện.Tất cả các xét nghiệm máu gồm: albumin, cholesterol, và tế bào lympho máu sẽ được thực hiện vào 4 giờ sáng ngày 1 và 7. Lưu nước tiểu 24 giờ vào các ngày thứ 3, 5, và 7 sau nhập viện. Xét nghiệm urê nước tiểu 24 giờ để tính cân bằng nitơ. Quy trình nuôi dưỡng Bắt đầu nuôi dưỡng tiêu hoá trong vòng 24 giờ sau nhập viện. Mức năng lượng được tính theo tình trạng bệnh nhân mỗi ngày: E (kcal/ngày)= REE x CNLT x (hệ số tiêu hao + stress + 0,1). Nhu cầu đạm (g/ngày) = Nhu cầu x CNLT (+ đạm thiếu do dị hóa theo cân bằng nitơ). Thu thập và xử lý số liệu Số liệu được thu thập vào phiếu thu thập soạn sẵn. Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 25,0 (số đăng ký bản quyền: 1975—1566- C). Biến số cải thiện mức độ suy dinh dưỡng được trình bày bằng tần số và tỷ lệ %. Biến số điểm CONUT ngày 1 và ngày 7 được trình bày bằng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn do phân phối bình thường. Biến số cân bằng nitơ ngày 3, ngày 5, và ngày 7 được mô tả bằng giá trị trung vị (khoảng tin cậy 95%) do phân phối lệch. So sánh tỷ lệ cải thiện mức độ suy dinh dưỡng ngày 7 giữa nhóm can thiệp thiệp với nhóm chứng bằng phép kiểm 2. So sánh điểm CONUT trung bình ngày 7 giữa nhóm can thiệp với nhóm chứng thiệp phép kiểm T độc lập. So sánh điểm CONUT trung bình ngày 1 và ngày 7 của nhóm can thiệp bằng phép kiểm T bắt cặp. Sai lầm α là 0,05. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 167 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Nhóm nghiên cứu đã chọn được 42 trường hợp chấn thương sọ não nặng đưa vào nhóm can thiệp. Bảng 1: Phân bố các đặc điểm về tuổi, cân nặng lý tưởng, giới tính, bệnh lý, phẫu thuật, và thời gian nuôi ăn của hai nhóm: Đặc điểm Nhóm can thiệp N = 42 Nhóm chứng N = 27 p Tuổi (năm)* 46 (18-63) 33 (18-83) 0,30 CNLT (kg) 58 7 58 5 0,94 Thời gian nuôi ăn (giờ) 15 3 14 3 0,35 Giới tính n (%) Nam Nữ 33 (79) 9 (21) 26 (96) 1 (4) 0,08 Bệnh lý n (%) CTSN Đa CT 33 (79) 9 (21) 21 (78) 6 (22) 0,9 Phẫu thuật n (%) Không Có 25 (60) 17 (40) 15 (56) 12 (44) 0,7 (*) trung vị (KTC 95%). CNLT-cân nặng lý tưởng. CTSN-chấn thương sọ não. Đa CT-Đa chấn thương Nhận xét: Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Lượng albumin, cholesterol toàn phần, và tế bào lympho máu. Bảng 2: So sánh lượng albumin, tế bào lympho, và cholesterol toàn phần trong máu của ngày 1 và ngày 7 của nhóm can thiệp Đặc điểm Ngày 1 Ngày 7 p Albumin máu (g/l) 30,3 4,2 32,5 3,4 < 0,01 Tế bào lympho (mm 3 ) 1,7 0,9 1,8 0,6 0,74 Cholesterol toàn phần (mmol/l) 2,9 0,9 4,2 0,9 < 0,01 Nhận xét: Lượng albumin và cholesterol toàn phần ngày 7 cao hơn ngày 1, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. So sánh điểm CONUT trung bình giữa ngày 1 và ngày 7 của nhóm can thiệp, số trường hợp có điểm CONUT giảm là 31 trường hợp (74%), tăng là 8 trường hợp (19%), và không thay đổi là 3 trường hợp (7%). So sánh điểm CONUT trung bình ngày 7 của hai nhóm Biểu đồ 1: So sánh điểm CONUT trung bình ngày 7 của hai nhóm Nhận xét: tại ngày 7, nhóm can thiệp có điểm CONUT trung bình thấp hơn nhóm chứng (3 1 so với 5 2), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0.01). So sánh mức độ suy dinh dưỡng tại ngày 7 so với ngày 1 ở nhóm can thiệp, mức độ suy dinh dưỡng giảm là 28 trường hợp (67%), tăng là 2 trường hợp (5%), và không thay đổi là 12 trường hợp (29%). So sánh tỷ lệ cải thiện mức độ suy dinh dưỡng của hai nhóm: Biểu đồ 2: So sánh tỷ lệ cải thiện mức độ suy dinh dưỡng của hai nhóm Nhận xét: Tỷ lệ cải thiện mức độ suy dinh dưỡng ớ nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng (67% so với 33%, p = 0.007). Cân bằng nitơ Cân bằng nitơ ngày 3 là 1.3 (KTC 95% -2 – 1,4), ngày 5 là 0.6 (-0,8 – 2,1), và ngày 7 là -0,4 (- 2,2 – 0,5). Nhóm I, Có, 67 Nhóm I, Không, 33 Nhóm C, Có, 33 Nhóm C, Không, 67 T ỷ lệ % Nhóm I Nhóm C Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 168 Biểu đồ 3: Cân bằng nitơ vào các ngày 3, 5 và 7. Nhận xét: Mức độ dị hoá tăng dần trong 7 ngày sau nhập viện. BÀN LUẬN Chúng tôi đã đạt được các mục tiêu của nghiên cứu. So với nhóm chứng, nhóm bệnh nhân CTSN nặng được nuôi dưỡng tiêu hoá chế độ súp calor có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá có điểm CONUT trung bình ngày 7 thấp hơn, và tỷ lệ cải thiện mức độ suy dinh dưỡng cao hơn. Các đặc điểm về tuổi, giới tính, loại bệnh lý, phẫu thuật, cân nặng, thời gian bắt đầu nuôi dưỡng, và mức độ suy dinh dưỡng lúc nhập viện giữa hai nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Do đó, phân bố đặc điểm đối tượng nghiên cứu là ngẫu nhiên. Thời gian bắt đầu nuôi dưỡng tiêu hoá trung bình là 15 3 giờ. Theo các khuyến cáo và nghiên cứu đã chứng minh nuôi dưỡng sớm < 24 giờ sẽ giảm tỷ lệ nhiễm trùng và biến chứng chung trong thời gian nằm viện(6,7). Chúng tôi đã đảm bảo được yếu tố thời gian nuôi dưỡng sớm. So sánh điểm CONUT Ở nhóm can thiệp, điểm CONUT trung bình ngày 7 thấp hơn ngày 1 (3 1 so với 6 2, p = 0,01). Sau 7 ngày nuôi dưỡng với chế độ súp calor có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá, mức độ suy dinh dưỡng có cải thiện, giảm 50% điểm CONUT so với ngày nhập viện. So với nhóm chứng được nuôi dưỡng với chế độ súp calor nhưng không có bổ sung đạm theo mức độ hoá, nhóm can thiệp có điểm CONUT trung bình ngày 7 thấp hơn có ý nghĩa thống kê (3 1 so với 5 2, p = 0,01). Tỷ lệ giảm điểm CONUT trung bình ngày 7 ở nhóm can thiệp cũng cao hơn nhóm chứng (50% so với 29%). Bổ sung đạm theo mức độ dị hoá giúp cải thiện cân bằng nitrogen, giảm mức độ tiêu cơ vân do tăng dị hoá sau chấn thương nặng. Việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng sau 7 ngày điều trị còn được thể hiện qua lượng albumin máu sau 7 ngày tăng cao hơn so với ngày nhập viện (32,5 3,4 so với 30,3 4,2, p < 0,01). Tóm lại, bệnh nhân CTSN nặng được nuôi dưỡng với chế độ súp calor có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá có hiệu quả giảm điểm CONUT cao hơn so với nuôi dưỡng thông thường. Cải thiện mức độ suy dinh dưỡng Sau 7 ngày điều trị, nhóm can thiệp có mức độ suy dinh dưỡng giảm là 67%, không thay đổi là 29%, và tăng là 5%. So với nhóm chứng, mức độ suy dinh dưỡng ở ngày 7 ở mức trung bình và nặng của nhóm can thiệp thấp hơn có ý nghĩa thống kê. Trong khi, sự phân bố mức độ suy dinh dưỡng tại thời điểm nhập viện của hai nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Đồng thời, tỷ lệ cải thiện mức độ suy dinh dưỡng của nhóm can thiệp cũng cao hơn nhóm chứng (67% so với 33%, p = 0,007). Kết quả này đã chứng minh được rằng nuôi dưỡng bằng chế độ súp calor có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá có cải thiện mức độ suy dinh dưỡng tốt hơn so với nuôi đưỡng bằng phương pháp thông thường. Tuy nhiên, mức độ suy dinh dưỡng trung bình tại ngày 7 ở nhóm can thiệp vẫn còn cao (79%), và 2% trường hợp tăng mức độ suy dinh dưỡng từ nhẹ lên trung bình. Nguyên nhân do tình trạng tăng chuyển hoá và tăng dị hoá đạm cao nhất trong vòng 2 tuần đầu, và kéo dài 4 – 6 tuần sau chấn thương(5). Ngoài chấn thương, nhiễm trùng, thở máy cũng là những yếu tố làm tăng mức độ chuyển hoá và tăng dị hoá protein. Vậy sau 7 ngày nuôi dưỡng bằng chế độ dinh dưỡng có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 169 mức độ suy dinh dưỡng có cải thiện tốt hơn. Cân bằng nitơ Cân bằng nitơ được đánh giá vào các ngày 3, 5, và 7 trong 7 ngày đầu điều trị. Cân bằng nitơ vào ngày thứ 3 là 1,3 (KTC 95% -2 – 1,4), ngày thứ 5 là 0,6 (KTC 95% -0,8 – 2,1) và ngày thứ 7 là -0,4 (KTC 95% -2,2 – 0,5). Mức độ dị hoá đạm tăng dần trong 7 ngày đầu, các trường hợp trong nghiên cứu đã được bổ sung đạm theo mức độ dị hoá nhưng vẫn không đạt mục tiêu duy trì cân bằng nitơ trong khoảng +2. Một phân tích gộp về mức độ dị hoá đạm ở bệnh nhân CTSN nặng cho thấy, cân bằng nitơ là -3 – (-16) g/ngày trong 2 tuần đầu sau chấn thương(5).Năm 2010, Jivnani và cộng sự đã khảo sát mức độ mất nitơ ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng. Kết quả cho thấy, cân bằng nitơ ở ngày 1 là -11 – (-13) g/ngày, vào ngày 3 là -10 – (- 14) g/ngày, và ngày 7 là -7 – (-10) g/ngày. Bệnh nhân đa chấn thương có mức độ mất nitơ cao hơn so với chấn thương sọ não đơn thuần(4). Tóm lại, nuôi dưỡng có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá sẽ giảm mức độ tiêu cơ vân của bệnh nhân, nhưng khả năng cải thiện cân bằng nitơ trong 7 ngày đầu rất hạn chế do mức độ dị hoá rất cao. Bệnh nhân chấn thương sọ não nặng nên được theo dõi cân bằng nitơ ngay từ ngày đầu sau nhập viện và theo dõi trong 2 tuần để hướng dẫn cho việc cung cấp đạm trong nuôi dưỡng tiêu hoá. KẾT LUẬN Bệnh nhân chấn thương sọ não nặng được nuôi dưỡng bằng chế độ súp calor có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá có hiệu quả cao hơn so với chế độ không có bổ sung đạm theo mức độ dị hoá, cải thiện điểm CONUT và mức độ suy dinh dưỡng tại ngày 7 sau nhập viện TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cederholm T, Bosaeus I, Barazzoni R et al (2015). Diagnostic criteria for malnutrition - An ESPEN Consensus Statement. Clin Nutr, 34(3), 335-340. 2. Huỳnh Văn Bình, Đinh Hữu Hào & Nguyễn Trọng Thắng (2017). Sự liên quan giữa giảm phospho máu với cai máy thất bại ở bệnh nhân thở máy. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Huỳnh Văn Bình & Tạ Thị Tuyết Mai (2016). Khảo sát đặc điểm dinh dưỡng ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 20(6), 198-203. 4. Jivnani S, Iyer S, Umakumar K et al (2010). Impact of enteral nutrition on nitrogen balance in patients of trauma. J Emerg Trauma Shock, 3(2), 109-114. 5. Krakau K, Omne-Ponten M, Karlsson T et al (2006). Metabolism and nutrition in patients with moderate and severe traumatic brain injury: A systematic review. Brain Inj, 20(4), 345-367. 6. Marcus HE, Spohr FA, Bottiger BW et al (2012). [Nutritional therapy in traumatic brain injury: Update 2012]. Anaesthesist, 61(8), 696-702. 7. Peetz A, Mogensen K, Rawn J et al (2015). Traumatic brain injury, nutritional status and outcomes: a registry based cohort study. Intensive Care Medicine Experimental, 3(1), A437. 8. Wang X, Dong Y, Han X et al (2013). Nutritional support for patients sustaining traumatic brain injury: a systematic review and meta-analysis of prospective studies. PLoS One, 8(3), e58838. Ngày nhận bài báo: 15/06/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 03/07/2018 Ngày bài báo được đăng: 10/11/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_nuoi_duong_cua_supcalor_co_bo_sung_dam_theo_muc_do.pdf
Tài liệu liên quan