Tài liệu Hiệu quả mô hình phục hồi lồng ghép người khuyết tật do bệnh phong tại Cà Mau năm 2016: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
61
HIỆU QUẢ MÔ HÌNH PHỤC HỒI LỒNG GHÉP
NGƯỜI KHUYẾT TẬT DO BỆNH PHONG TẠI CÀ MAU NĂM 2016
Ngô Thanh Tân*, Văn Thế Trung** ,Nguyễn Tất Thắng**.
TÓM TẮT
Mở đầu: Người khuyết tật do phong có nhiều nguy cơ sức khỏe. Vì vậy, xây dựng mô hình can thiệp hỗ trợ
điều trị tàn tật và hỗ trợ hòa nhập cộng đồng là cần thiết.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả mô hình phục hồi lồng ghép dành cho người khuyết tật do bệnh phong tại Cà
Mau năm 2016.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu can thiệp có đối chứng. Điều tra tất cả những
người khuyết tật do phong, đang được Chương trình mục tiêu Quốc gia phòng chống phong quản lý và đang cư
trú tại Cà Mau trong thời gian nghiên cứu tại 3 xã can thiệp (18 người) và 3 xã đối chứng (15 người).Nhóm can
thiệp nhận được hỗ trợ về y tế, giáo dục, kinh tế, xã hội và trao quyền.
Kết quả: Cải thiện tình trạng suy giảm chức năng ở nhóm sau can thiệp, tại các vị trí mắt ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả mô hình phục hồi lồng ghép người khuyết tật do bệnh phong tại Cà Mau năm 2016, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
61
HIỆU QUẢ MÔ HÌNH PHỤC HỒI LỒNG GHÉP
NGƯỜI KHUYẾT TẬT DO BỆNH PHONG TẠI CÀ MAU NĂM 2016
Ngô Thanh Tân*, Văn Thế Trung** ,Nguyễn Tất Thắng**.
TÓM TẮT
Mở đầu: Người khuyết tật do phong có nhiều nguy cơ sức khỏe. Vì vậy, xây dựng mô hình can thiệp hỗ trợ
điều trị tàn tật và hỗ trợ hòa nhập cộng đồng là cần thiết.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả mô hình phục hồi lồng ghép dành cho người khuyết tật do bệnh phong tại Cà
Mau năm 2016.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu can thiệp có đối chứng. Điều tra tất cả những
người khuyết tật do phong, đang được Chương trình mục tiêu Quốc gia phòng chống phong quản lý và đang cư
trú tại Cà Mau trong thời gian nghiên cứu tại 3 xã can thiệp (18 người) và 3 xã đối chứng (15 người).Nhóm can
thiệp nhận được hỗ trợ về y tế, giáo dục, kinh tế, xã hội và trao quyền.
Kết quả: Cải thiện tình trạng suy giảm chức năng ở nhóm sau can thiệp, tại các vị trí mắt phải, mắt trái, bàn
tay phải, bàn tay trái là rõ rệt so với nhóm chứng. NKTDP nhóm can thiệp sử dụng BHYT cao gấp 1,5 NKTDP
nhóm chứng sử dụng BHYT. Tất cả 100% NKTDP ở nhóm can thiệp nhận được sự hỗ trợ dịch vụ y tế, trong khi
chỉ có 40% NKTDP ở nhóm chứng. Không có NKTDP nào ở nhóm can thiệp bị cộng đồng kỳ thị, tỷ lệ này ở
nhóm chứng là 6,7%. Nhu cầu của NKTDP nhóm chứng cao hơn rõ rệt với nhu cầu của nhóm can thiệp.
Kết luận: Cần tiếp tục triển khai mô hình can thiệp dựa vào cộng đồng cho NKTDP tại Cà Mau, trong các
năm tới và nhân rộng mô hình này ra toàn quốc.
Từ khóa: Can thiệp, lồng ghép, dựa vào cộng đồng, người khuyết tật do phong, Cà Mau.
ABSTRACT
EFFECTIVENESS OF INTEGRATION MODEL FOR RECOVERY FOR PEOPLE WITH LEPROSY
IN CAMAU IN 2016
Ngo Thanh Tan, Van The Trung , Nguyen Tat Thang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 21 - No 1 - 2017: 61- 66
Background: People with disabilities due to leprosy have many health risks. Therefore, building intervention
models that can support treatment and integration into community is essential.
Objective: To evaluate the effectiveness of integration model for recovery for people with disabilities caused
by leprosy, in Ca Mau, 2016.
Methods: Intervention study design with control group. We recruited all people with disabilities due to
leprosy who are being managed by the Leprosy National Target Program and were living in Ca Mau during the
study period, at 3 intervention communes (18 people) and 3 control communes (15 people). Intervention group
received support for health, education, economic, society integration and authority hand over.
Results: Improved functioning in intervention group at right eye, left eye, right hand, and left hand was
statistically significant compared to control group. People with disabilities due to leprosy in intervention group
used health insurance 1.5 times higher than control group. All (100%) people with disabilities due to leprosy in
the intervention group received the support from health services, while 40% of those in the control group did. No
* Trung tâm Phòng, chống các Bệnh xã hội Cà Mau
**Bộ môn Da Liễu, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Ngô Thanh Tân ĐT: 0913.767.869 Email: bsthanhtancm@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017
62
one in the intervention group was stigmatized; this figure was 6.7% in the control group. The needs of people with
disabilities by leprosy in the control group were significantly higher than intervention group.
Conclusion: There is a need to continue the model of community-based interventions for people with
disabilities due to leprosy in Ca Mau in the next years and replicate the model nationwide.
Key words: interventions, integration, community-based, people with disabilities due to leprosy, Ca Mau.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh phong là bệnh nhiễm trùng mãn tính
do trực khuẩn Mycobacterium leprae gây ra dẫn
đến tổn thương chủ yếu ở da và thần kinh ngoại
biên. Năm 1996 chương trình phòng, chống
phong trở thành chương trình mục tiêu quốc
giavới mục tiêu 100% người được chăm sóc,
không để người bệnh bị tàn tật hoặc biến chứng
thêm và phục hồi dần di chứng tàn tật, để người
người khuyết tật do bệnh phong (NKTDP) sớm
hòa nhập với cộng đồng(6). Kể từ đó, chương
trình quốc gia hướng đến loại trừ bệnh phong tại
Việt Nam và đến cuối năm 2008 đã có 41/63 tỉnh
thành đạt được mục tiêu này.
Tại Cà Mau, năm 2010 có 11 bệnh nhân mới
mắc bệnh phong và số người tàn tật do phong
cần được phục hồi chức năng là 393 người(5). Mặc
dù tỉ lệ người khuyết tật do phong (NKTDP) tại
Cà Mau (0,025%) thấp hơn cả nước (0,03%)
nhưng hậu quả để lại do di chứng của bệnh vẫn
còn đáng kể về mặt chăm sóc y tế, hỗ trợ xã hội
và NKTDP vẫn có những gánh nặng, khó khăn
trong hòa nhập cộng đồng cũng như có chất
lượng cuộc sống thấp.
Từ năm 2011, tại Cà Mau triển khai mô hình
phục hồi lồng ghép cho NKTDP bao gồm hỗ trợ
về y tế, giáo dục, sinh kế và văn hóa từ đó từng
bước giúp NKTDP tham gia hòa nhập cộng
đồng một cách bền vững và tự lực. Tuy nhiên,
các chương trình hỗ trợ dành cho NKTDP vẫn
gặp nhiều khó khăn do sự kỳ thị đối với NKTDP
và sự tự kỳ thị ở chính NKTDP. Chúng tôi tiến
hành nghiên cứu này để có được bức tranh tổng
thể hiệu quả mô hình chăm sóc phục hồi chức
năng, hỗ trợ kinh tế xã hội cho NKTDP và gia
đình của họ.
PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu can thiệp có đối chứng được tiến
hành vào năm 2016 trên NKTDP đang được
quản lý, điều trị và cư ngụ tại Cà Mau. Trong 6
xã tham gia có 3 xã can thiệp là xã Tắc Vân (xã
thành phố), xã Trí Phải (xã kinh tế trung bình),
xã Nguyễn Phích (xã kinh tế khó khăn có rừng,
sông nước) và 3 xã đối chứng tương ứng với
cùng đặc điểm là xã Lý Văn Lâm, xã Tân Lộc, và
xã Khánh Thuận. Tất cả NKTDP tại các xã được
lựa chọn, bao gồm 18 người tại các xã can thiệp
và 15 người tại các xã đối chứng.
Cả hai nhóm nghiên cứu đều được phỏng
vấn theo bộ câu hỏi soạn sẵn. Nhóm can thiệp
được hỗ trợ thêm về y tế, giáo dục, sinh kế, xã
hội và trao quyền. Về y tế, chúng tôi cung cấp
các dịch vụ điều trị bệnh phong miễn phí như
phẫu thuật, điều trị vết loét, vật lý trị liệu,
hướng dẫn NKTDP chăm sóc tàn tật và phục
hồi sức khỏe sau điều trị, hỗ trợ các thiết bị
điều trị và phục hồi. Chúng tôi hướng dẫn các
bài tập co, duỗi, ngâm tay, chân trong nước
thường xuyên, được cấp giày chống lỗ đáo,
được hỗ trợ làm chân giả và kiểm tra định kỳ.
Trường hợp khuyết tật nhiều, lỗ đáo tiến triển
xấu, bệnh nhân được hỗ trợ toàn bộ chi phí
liên quan đến điều trị. Ngoài ra chương trình
can thiệp còn cấp giày chuyên dụng, lắp chân
giả và kiểm tra định kỳ, cấp xe lăn. Về giáo
dục, chúng tôi hỗ trợ học phí và sách vở cho
học sinh, là con của NKTDP. Về sinh kế,
chúng tôi dạy nghề cho NKTDP, hỗ trợ
NKTDP tìm việc, giới thiệu việc làm cho
NKTDP và hỗ trợ vay vốn xóa đói giảm
nghèo. Về xã hội, chúng tôi giúp NKTDP hòa
nhập cộng đồng, giảm sự kỳ thị của cộng đồng
với NKTDP. Về trao quyền, chúng tôi hỗ trợ
thành lập các nhóm tự lực và câu lạc bộ cho
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
63
NKT, động viên và giới thiệu NKTDP, tham
gia các hoạt động xã hội.
Số liệu sau khi thu thập thì được mã hóa và
nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 và sau đó
được phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0. Các
phép kiểm Chi bình phương, Fisher được dùng
khi thích hợp để so sánh các đặc điểm và hiệu
quả can thiệp trên hai nhóm nghiên cứu. Kết quả
kiểm định được xem là có ý nghĩa thống kê và
khác biệt giữa hai nhóm khi p < 0,05.
KẾT QUẢ
Về khác biệt trong hai nhóm can thiệp,
trong số 18 NKTDP nhóm can thiệp thì 94,4%
là bệnh nhân nhóm nhiều vi khuẩn trong khi
tỉ lệ này trong 15 NKTDP nhóm chứng là
80,0%. Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05).
Bảng 1. Nhận được dịch vụ y tế của nhóm can thiệp và nhóm chứng
Nhóm can thiệp (n=18) Nhóm chứng (n=15) P
SL % SL %
Sử dụng BHYT
Có 17 94,4 9 60,0
<0,05
Không 1 5,6 6 40,0
Nhận được các dịch vụ
phục hồi chức năng
Điều trị vết loét 1 5,6 1 6,7
<0,05
Dụng cụ hỗ trợ 4 22,2 0 0,0
Chăm sóc y tế 13 72,2 5 33,3
Không nhận được gì 0 0,0 9 60,0
Có 94,4% NKTDP nhóm can thiệp sử dụng
BHYT cao gấp 1,5 NKTDP nhóm chứng sử dụng
BHYT (60,0%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê với p<0,05. Không có NKTDP nào ở nhóm can
thiệp là không nhận được sự hỗ trợ dịch vụ y tế,
trong khi có 60,0% NKTDP ở nhóm chứng
không nhận được hỗ trợ gì. Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với P<0,05 (Bảng 1).
Tất cả (100%) NKTDP ở nhóm can thiệp có
tình trạng mắt bình thường (độ 0), trong khi
nhóm chứng có 3 bệnh nhân chiếm 20,0% suy
giảm chức năng mắt độ 1. Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với p<0,05. Cải thiện tình trạng
khuyết tật ở tay phải và tay trái của NKTDP tại
nhóm can thiệp cũng tốt hơn nhiều nhóm chứng.
Tỷ lệ suy giảm chức năng tay phải độ 2 ở nhóm
chứng là 60,0% cao gấp 3,5 lần nhóm can thiệp
(16,7%). Suy giảm chức năng tay trái độ 2 ở
nhóm chứng là 53,3% cao gấp 4,8 lần tỷ lệ này ở
nhóm can thiệp (11,1%). Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với p<0,05. Cải thiện tình trạng
suy giảm chức năng ở bàn chân phải và bàn chân
trái của nhóm can thiệp tốt hơn nhóm chứng.
Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê với p>0,05 (Bảng 2).
Bảng 2. Tình trạng suy giảm chức năng của NKTDP
ở nhóm can thiệp và chứng
Suy giảm chức
năng
Nhóm can thiệp
(n=18)
Nhóm chứng
(n=15) P
SL % SL %
Mắt phải
Độ 0 18 100,0 12 80,0
<0,05
Độ 1 0 0,0 3 20,0
Mắt trái
Độ 0 18 100,0 12 80,0
<0,05
Độ 1 0 0,0 3 20,0
Bàn tay
phải
Độ 0 6 33,3 3 20,0
<0,05 Độ 1 9 50,0 3 20,0
Độ 2 3 16,7 9 60,0
Bàn tay
trái
Độ 0 7 38,9 4 26,7
<0,05 Độ 1 9 50,0 3 20,0
Độ 2 2 11,1 8 53,3
Bàn
chân
phải
Độ 0 10 55,6 4 26,7
>0,05 Độ 1 4 22,2 5 33,3
Độ 2 4 22,2 6 40,0
Bàn
chân trái
Độ 0 11 61,1 3 20,0
>0,05 Độ 1 4 22,2 3 20,0
Độ 2 3 16,7 9 60,0
Bảng 3. Hỗ trợgiáo dục, kinh tế, xã hội của nhóm can thiệp và nhóm chứng
Nhóm can thiệp (n=18) Nhóm chứng (n=15)
P
SL % SL %
Được dạy nghề
Có 11 61,1 1 6,7
<0,05
Không 7 38,9 14 93,3
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017
64
Nhóm can thiệp (n=18) Nhóm chứng (n=15)
P
SL % SL %
Nhận được các trợ cấp xã hội
Có 7 100,0 4 57,1
<0,05 Không 0 0,0 3 42,9
Tổng 7 100,0 7 100,0
Có trẻ em được hỗ trợ học bổng đi học
Có 6 33,3 1 6,7
<0,05
Không 12 66,7 14 93,3
Được vay vốn xóa đói giảm nghèo
Có 13 72,2 8 53,3
>0,05
Không 5 27,8 7 46,7
Tham gia các hoạt động xã hội
Có 12 66,7 6 40,0
>0,05
Không 6 33,3 9 60,0
Địa phương có nhóm, câu lạc bộ cho
NKTDP
Có 12 66,7 0 0,0
<0,05
Không 6 33,3 15 100,0
Có 61,1% NKTDP nhóm can thiệp được dạy
nghề, tỷ lệ này ở nhóm chứng chỉ là 6,7%. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tất cả
NKTDP đủ tiêu chuẩn đều được nhận trợ cấp xã
hội, cao gần 2 lần tỷ lệ này ở nhóm chứng là
57,1%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05. Có 33,3% NKTDP ở nhóm can thiệp có
trẻ em được nhận học phí, học bổng, sách vở,
quần áo khi đi học; cao hơn nhiều tỷ lệ này ở
nhóm chứng là 6,7%. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0,05. Có 66,7% NKTDP ở nhóm
can thiệp tham gia các hoạt động xã hội ở địa
phương, tỷ lệ này ở nhóm chứng chỉ là 40,0%.
Không có NKTDP ở nhóm chứng cho rằng địa
phương không có tổ chức, nhóm, câu lạc bộ nào
cho NKTDP, tỷ lệ này ở nhóm can thiệp là 66,7%.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05
(Bảng 3).
Bảng 4. Lao động, việc làm ở nhóm can thiệp và
nhóm chứng
Khả năng lao động kiếm
thu nhập của NKTDP
Nhóm can
thiệp (n=18)
Nhóm
chứng
(n=15) P
SL % SL %
Có, thu nhập đủ cho bản
thân và gia đình
7 38,9 1 6,7
<0,05
Có, thu nhập chỉ đủ cho
bản thân
10 55,6 7 46,7
Có, nhưng thu nhập
không đủ cho bản thân
1 5,6 3 20,0
Không có khả năng lao
động
0 0,0 4 26,7
Có 38,9% NKTDP ở nhóm can thiệp có lao
động và kiếm tiền đủ cho bản thân và gia đình
trong khi tỷ lệ này ở nhóm chứng là 6,7%. Không
có NKTDP nào ở nhóm can thiệp không có khả
năng lao động, tỷ lệ này ở nhóm chứng là 26,7%.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05
(Bảng 4).
Bảng 5. Sự kỳ thị, dịch vụ miễn phí cho NKTDP ở
nhóm can thiệp và nhóm chứng
Điều kiện sống
Nhóm can
thiệp (n=18)
Nhóm chứng
(n=15) P
SL % SL %
Bị cộng đồng
kỳ thị
Có 0 0,0 1 6,7
>0,05
Không 18 100,0 14 93,3
Có dịch vụ
miễnphí cho
NKTDP
Có 10 55,6 0 0,0
<0,05
Không 8 44,4 15 100,0
Không có NKTDP nào ở nhóm can thiệp bị
cộng đồng kỳ thị. Tỷ lệ này ở nhóm chứng là
6,7%. Có 55,6% NKTDP ở nhóm can thiệp nhận
được dịch vụ miễn phí, tỷ lệ này ở nhóm chứng
là 0,0%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với
p<0,05 (Bảng 5).
Bảng 6. Nhu cầu của NKTDP nhóm can thiệp và
nhóm chứng
Nhóm can
thiệp
(n=18)
Nhóm
chứng
(n=15)
P
SL % SL %
Chăm sóc y tế, sức khỏe 14 77,8 13 86,7 >0,05
Vay vốn 5 27,8 10 66,7 <0,05
Hỗ trợ phương tiện sản xuất 4 22,2 8 53,3 >0,05
Tham gia hoạt động xã hội 1 5,6 7 46,7 <0,05
Nhu cầu của NKTDP nhóm chứng cao hơn
rõ rệt với nhu cầu của nhóm NKTDP. Trong đó,
66,7% NKTDP nhóm chứng có nhu cầu vay vốn,
tỷ lệ này ở nhóm can thiệp là 27,8%. Ngoài
ra,46,7% NKTDP ở nhóm chứng có nhu cầu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
65
tham gia các hoạt động xã hội, tỷ lệ này ở nhóm
can thiệp là 5,6%. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với P<0,05. Tuy nhiên, không có khác
biệt về nhu cầu chăm sóc y tế, sức khỏe và hỗ trợ
phương tiện sản xuất giữa hai nhóm (p>0,05)
(Bảng 6).
BÀN LUẬN
Cải thiện tình trạng khuyết tật ở tay và mắt
của NKTDP ở nhóm can thiệp tốt hơn nhiều
nhóm chứng. Điều này cho thấy hiệu quả của
can thiệp, với những bệnh nhân được phát hiện
suy giảm chức năng ở nhóm can thiệp, chúng tôi
đã hỗ trợ bệnh nhân điều trị và phục hồi chức
năng và nâng cao chất lượng cuộc sống. Cải
thiện chức năng mắt ở nghiên cứu của chúng tôi
là rõ rệt so với nghiên cứu của Lê Văn Thuận(3) và
nghiên cứu của Nguyễn Kiều Quỵnh(4) và cho ra
kết quả: với tỷ lệ tổn thương ở mắt trái là 20,72%,
tỷ lệ tổn thương ở mắt phải là 20,27%.
Tuy nhiên, không có khác biệt về suy chức
năng chân trong hai nhóm nghiên cứu. Điều này
là do tại Cà Mau, Trung tâm Phòng chống các
bệnh xã hội đã triển khai chiến dịch làm sạch và
chăm sóc lỗ đáo bàn chân từ năm 2002 và luôn
duy trì đến nay. Cho nên các bàn chân của người
khuyết tật do phong có vấn đề loét bàn chân,
đều được cắt lọc, làm sạch và chăm sóc loét lỗ
đáo, đồng thời hỗ trợ phục hồi chức năng một
cách toàn diện nhất.
Hầu hết (94,4%) NKTDP nhóm can thiệp sử
dụng BHYT cao gấp 1,5 NKTDP nhóm chứng sử
dụng BHYT (9 người chiếm 60,0%). Không có
NKTDP nào ở nhóm can thiệp là không nhận
được sự hỗ trợ dịch vụ y tế, trong khi có 9
NKTDP chiếm 60,0% ở nhóm chứng không nhận
được hỗ trợ gì. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê với P<0,05. Ghi nhận kết quả trên, càng cho
thấy rõ hiệu quả của nhóm được can thiệp, với
những bệnh nhân được hỗ trợ bảo hiểm y tế và
dịch vụ y tế khác ở nhóm chứng không được hỗ
trợ. Với NKTDP trong đó việc suy giảm chức
năng không thể hồi phục thì hỗ trợ y tế và BHYT
là thật sự cần thiết vì NKTDP cần được chăm sóc
điều trị y tế lâu dài.
Đa số (61,1%) NKTDP nhóm can thiệp
được dạy nghề, tỉ lệ này ở nhóm chứng chỉ là
6,7%. Điều này đánh giá kết quả tốt nhóm
được can thiệp bằng cách hỗ trợ kinh phí, đi
học nghề phù hợp với tàn tật so với nhóm
chứng, không được hỗ trợ kinh phí đi học
nghề. Ngoài ra, đa số (66,7%) NKTDP ở nhóm
can thiệp tham gia các hoạt động xã hội ở địa
phương, tỷ lệ này ở nhóm chứng chỉ là 40,0%.
Không có NKTDP nào ở nhóm chứng cho rằng
địa phương không có tổ chức, nhóm, câu lạc
bộ nào cho NKTDP, tỷ lệ này ở nhóm can
thiệp là 66,7%. Ở nhóm can thiệp, chúng tôi đã
hỗ trợ nhóm này làm các thủ tục xin phép
chính quyền địa phương, ra quyết định thành
lập nhóm tự lực, gồm các người khuyết tật
trong ấp họ thích gia nhập, không phân biệt
khuyết tật do nguyên nhân gì. Hàng tháng,
nhóm tự lực họp lại, sinh hoạt với nhau, cùng
trao đổi công việc sản xuất, nuôi trồng, chăn
nuôi, nộp lãi suất, góp tiền tiết kiệt để cho
người trong nhóm mượn số tiền ấy, những
thành viên trong nhóm tự lực, ai có kinh
nghiệm nào cùng chia sẻ. Họ cũng không
quên trao đổi việc tự tập vật lý trị liệu, tự
chăm sóc các tàn tật của mình. Nhóm tự lực
này không có ở nhóm chứng.
Không có NKTDP nào ở nhóm can thiệp bị
cộng đồng kỳ thị. Tỷ lệ này ở nhóm chứng là
6,7%. 55,6% NKTDP ở nhóm can thiệp nhận
được dịch vụ miễn phí, tỷ lệ này ở nhóm
chứng là 0,0%. Ở một số nước người bệnh
phong bị tàn tật gặp phải sự kỳ thị và phân
biệt đối xử(1). Thành kiến của xã hội đối với
bệnh phong xuất phát từ tàn tật và biến dạng
của cơ thể trong bệnh phong và do các quan
niệm không đúng về bệnh như bệnh phong do
di truyền, bệnh dễ lây, do bị nguyền rủa, do
trời đày(2). Vì vậy, các chương trình giáo dục
sức khỏe để giảm sự kỳ thị của cộng đồng
cũng sẽ góp phần hỗ trợ NKTDP.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 1 * 2017
66
Mặc dù nhu cầu của NKTDP nhóm chứng về
vay vốn và tham gia hoạt động xã hội cao hơn rõ
rệt so với nhóm can thiệp, nhưng nhu cầu chăm
sóc y tế, sức khỏe và hỗ trợ phương tiện sản xuất
là như nhau ở hai nhóm. Điều này gợi ý rằng có
thể hỗ trợ vốn vay để NKTDP có thể tự chủ
động sản xuất kinh doanh hơn là cung cấp
phương tiện sản xuất nhất định nào đó. Tuy
nhiên, mặc dù tỉ lệ sử dụng bảo hiểm y tế ở
nhóm chứng rất thấp như trình bày bên trên,
nhưng cả hai nhóm đều không có nhu cầu về
chăm sóc y tế. Đây là điều đáng ngạc nhiên bởi
hơn ai hết, NKTDP vốn cần các dịch vụ y tế để
đảm bảo sức khỏe và từ đó có cuộc sống, chất
lượng sống tốt đẹp hơn. Có khả năng, sự hạn chế
hiểu biết về các dịch vụ y tế sẵn có cho NKTDP
trong chương trình y tế quốc gia, sự tự kỳ thị bản
thân đã góp phần vào sự hạn chế nhu cầu về
chăm sóc y tế.
KẾT LUẬN
Can thiệp về y tế, giáo dục, kinh tế, xã hội và
trao quyền trong nghiên cứu này cho thấy hiệu
quả rõ rệt trên nhóm can thiệp so với nhóm
chứng. Tuy nhiên, sự kỳ thị với NKTDP vẫn còn,
cao hơn trong nhóm chứng. Ngoài ra, nhu cầu
của NKTDP nhóm chứng cao hơn rõ rệt với nhu
cầu của nhóm can thiệp. Vì vậy, các can thiệp
tương tự là cần thiết cho NKTDP tại Cà Mau và
các địa phương tương tự tại Việt Nam nhằm hỗ
trợ NKTDP tốt hơn nữa sau khi đã đạt được mục
tiêu loại trừ bệnh phong.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Heijnders ML (2004), "The dynamics of stigma in leprosy", Int J
Lepr Other Mycobact Dis. 72, pp. 437–447.
2. Kaur H và Van Brake W (2002), "Dehabilitation of leprosy-
affected people–a study on leprosy-affected beggars", Lepr
Rev. 73, pp. 346–355.
3. Lê Văn Thuận (2007), Nghiên cứu các loại hình tàn tật và biện
pháp điều trị phục hồi cho bệnh nhân phong ở tỉnh Phú Yên.
4. Nguyễn Kiều Quỵnh (2011), Nghiên cứu đặc điểm bệnh nhân
phong đang được quản lý và các yếu tố liên quan đến phát
hiện muộn tại tỉnh Phú Yên.
5. Trung tâm phòng chống các bệnh xã hội tỉnh Cà Mau (2011),
Báo cáo quản lý chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống bệnh
phong tại Cà Mau năm 2010.
6. Văn phòng điều phối người tàn tật Việt Nam (2004), Báo cáo
công tác năm 2004 và chương trình công tác năm 2005, Hà Nội.
Ngày nhận bài báo: 14/11/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2016
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_mo_hinh_phuc_hoi_long_ghep_nguoi_khuyet_tat_do_benh.pdf