Hiệu quả hoạt động giảng dạy phòng chống sốt xuất huyết dengue ở học sinh trường Tiểu học và Trung học Cơ sở tỉnh An Giang

Tài liệu Hiệu quả hoạt động giảng dạy phòng chống sốt xuất huyết dengue ở học sinh trường Tiểu học và Trung học Cơ sở tỉnh An Giang: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 546 HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE Ở HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC VÀ TRUNG HỌC CƠ SỞ TỈNH AN GIANG Tạ Quốc Đạt*, Lâm Ngọc Báu*, Lê Thị Thảo Vi* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là bệnh truyền nhiễm chưa có vắc xin dự phòng và thuốc đặc trị. Phòng chống SXHD dựa vào cộng đồng là giải pháp giúp huy động nguồn lực xã hội và mang tính chủ động cao. Học sinh có thể thực hiện tốt các hoạt động kiểm soát vector tại nhà và vận động các thành viên trong gia đình cùng tham gia. Do đó, một can thiệp đã được thực hiện thông qua việc giảng dạy cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở. Mục tiêu: Xác định sự thay đổi về kiến thức, thực hành phòng chống bệnh SXHD của học sinh tiểu học và trung học cơ sở sau can thiệp. Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp cộng đồng được thực hiện trên 184 học sinh tiểu học và trung học. Quá trình thực hiện g...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả hoạt động giảng dạy phòng chống sốt xuất huyết dengue ở học sinh trường Tiểu học và Trung học Cơ sở tỉnh An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 546 HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE Ở HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC VÀ TRUNG HỌC CƠ SỞ TỈNH AN GIANG Tạ Quốc Đạt*, Lâm Ngọc Báu*, Lê Thị Thảo Vi* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là bệnh truyền nhiễm chưa có vắc xin dự phòng và thuốc đặc trị. Phòng chống SXHD dựa vào cộng đồng là giải pháp giúp huy động nguồn lực xã hội và mang tính chủ động cao. Học sinh có thể thực hiện tốt các hoạt động kiểm soát vector tại nhà và vận động các thành viên trong gia đình cùng tham gia. Do đó, một can thiệp đã được thực hiện thông qua việc giảng dạy cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở. Mục tiêu: Xác định sự thay đổi về kiến thức, thực hành phòng chống bệnh SXHD của học sinh tiểu học và trung học cơ sở sau can thiệp. Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp cộng đồng được thực hiện trên 184 học sinh tiểu học và trung học. Quá trình thực hiện gồm 3 giai đoạn: 1) Khảo sát trước can thiệp; 2) Triển khai hoạt động can thiệp: tập huấn cho giáo viên, cung cấp tài liệu giảng dạy, thực hiện giảng dạy cho học sinh và tổ chức hội thi; 3) Đánh giá sau can thiệp. Chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu cụm với cụm là khối lớp. Trong từng khối lớp, chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống dựa theo thứ tự danh sách lớp. Học sinh được đánh giá kiến thức trước và sau can thiệp thông qua một bộ câu hỏi soạn sẵn. Dữ liệu được nhập bằng phần mềm Epidata và phân tích bằng phần mềm Stata. Kết quả: Có sự thay đổi về kiến thức và thực hành phòng chống bệnh SXHD ở học sinh tiểu học và trung học cơ sở sau can thiệp. Ở học sinh tiểu học: có sự gia tăng trong kiến thức nơi trú đậu muỗi vằn (79,9 – 95,7%), muỗi vằn đẻ trứng trong DCCN trong nhà (41,3 – 60%), ngủ mùng cả ngày đêm (64,7 – 92,4%); có sự gia tăng trong thực hành bỏ muối vào chén chống kiến (56 – 74,5%), thu gom vật phế thải (82,6 – 91,3%). Ở học sinh trung học cơ sở: có sự gia tăng trong kiến thức cơ chế truyền bệnh của muỗi vằn (83,6 – 96,7%), dấu hiệu bệnh (74,3 – 85,5%); có sự gia tăng trong thực hành bỏ muối vào chén chống kiến (22,9 – 46,1%), thu gom vật phế thải (43,3 – 71,1%), đổ nước đọng khay hứng nước tủ lạnh (30 – 44,1%), ngủ mùng cả ngày đêm (68,8 – 84,2%). Kết luận: Hoạt động can thiệp giảng dạy phòng chống SXHD trong trường tiểu học và trung học cơ sở đã làm tăng kiến thức đúng và thực hành đúng trong phòng chống SXH của học sinh. Từ khóa: sốt xuất huyết Dengue, hoạt động giảng dạy, kiến thức, thực hành, học sinh ABSTRACT EFFECTIVE TEACHING DENGUE HAEMORRHAGIC FEVER PREVENTION IN PRIMARY AND SECONDARY SCHOOLS, AN GIANG PROVINCE Ta Quoc Dat, Lam Ngoc Bau, Le Thi Thao Vi * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 546 - 554 Background: Dengue haemorrhagic fever (DHF) is an infectious disease resulting unexpected outcomes; meanwhile, vaccine and specific treatment have been unavailable now. Community-based DHF prevention could *Viện Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS. Tạ Quốc Đạt ĐT: 0907959900 Email: taquocdat@iph.org.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 547 be considered as a highly effective solution to mobilize social resources. Pupils are able to perform vector control activities well and encourage family members participating. Therefore, a communication intervention for primary and secondary pupils was carried out. Objectives: To determine the change in knowledge and practice of dengue prevention among primary and secondary pupils after intervention. Method: A community intervention trial among 184 pupils was conducted through 3 phases: 1) Survey before intervention; 2) Implementing intervention activities: training teachers, providing materials, teaching for students and organizing contest to learn DHF; 3) Evaluaing after intervention. Cluster sampling method was employed for sampling, the cluster was the grade. Then, pupils were selected by systematic sampling in each cluster. Samples were evaluated their knowledge before and after the intervention by the structure questionaire. Data was entered with Epidata software and then analyzed using Stata software. Results: Knowledge and practice of DHF prevention was increased among both primary and secondary pupils after intervention. Regarding the former, their understanding about mosquito was significant improved on mosquito shelter (79.9 – 95.7%), place of laying eggs (41.3 – 60%), using bed nets for all time (64.7 – 92.4%); there is an increase in practice of putting salt into miscellaneous containers (56 – 74.5%), collecting waste materials (82.6 – 91.3%). In terms of the latter, there is an increase in knowledge of DHF transmission mechanism (83.6 – 96.7%), sign of DHF (74.3 – 85.5%), practice of putting salt into miscellaneous containers (22.9 – 46.1%), collecting waste materials (43.3 – 71.1%), pouring the stagnant water off the drip tray of the refrigerator (30 – 44.1%), using bed nets for all day and night (68.8 – 84.2%). Conclusion: Intervention activities increased knowledge and practice toward DHF prevention for pupils. Key words: dengue hemorrhagic fever, teaching activities, knowledge, practice, studen ĐẶT VẤN ĐỀ Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là bệnh truyền nhiễm vi rút cấp tính có khả năng gây tử vong cao nếu xảy ra biến chứng. SXHD chưa có vắc xin dự phòng và thuốc đặc trị. Theo WHO, ước tính có khoảng 128 quốc gia bị ảnh hưởng bởi SXHD. Khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương với số ca mắc gia tăng nhanh từ 1,2 triệu ca trong năm 2008 lên hơn 3,34 triệu ca trong năm 2016 và hiện đang tiếp tục gia tăng(4). Việt Nam là một trong những quốc gia đứng đầu khu vực Đông Nam Á về số mắc và tử vong do SXHD, trong đó phần lớn SXHD xảy ra ở các tỉnh phía Nam. Kiểm soát và ứng phó kịp thời với SXHD là vấn đề vô cùng quan trọng. Xã hội hóa hoạt động phòng chống SXHD dựa vào cộng đồng giúp huy động nguồn lực sẵn có và mang tính chủ động cao. Đây cũng là giải pháp được ngành y tế rất quan tâm nhằm khống chế tỉ lệ mắc bệnh. Học sinh là lực lượng đông đảo trong xã hội có thể thực hiện tốt các hoạt động kiểm soát vector và có ảnh hưởng đến phụ huynh trong việc thực hiện các biện pháp phòng chống SXHD tại nhà. Một hoạt động giảng dạy về phòng chống SXHD cho học sinh lồng ghép vào các chương trình sinh hoạt ngoại khóa tại các điểm trường tiểu học và trung học cơ sở xã Vĩnh Tường, huyện An Phú, tỉnh An Giang đã được thực hiện vào tháng 8 năm 2018. Mục tiêu Xác định sự thay đổi về kiến thức, thực hành phòng chống bệnh SXHD của học sinh tiểu học và THCS xã Vĩnh Trường, huyện An Phú, tỉnh An Giang sau can thiệp. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu can thiệp cộng đồng. Quá trình thực hiện gồm 3 giai đoạn: 1) Khảo sát ban đầu trước khi can thiệp vào tháng 8/2018; 2) Triển khai hoạt động can thiệp: tập huấn cho giáo viên vào tháng 8/2018 (cung cấp giáo án giảng dạy cho khối học sinh tiểu học và khối trung học cơ sở, cung cấp tranh ảnh giảng dạy); thực hiện giảng dạy cho học sinh vào tháng 9-11/2018; tổ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 548 chức hội thi tìm hiểu về SXH vào cuối tháng 11/2018; 3) Đánh giá sau triển khai các hoạt động can thiệp vào tháng 12/2018. Cỡ mẫu là 184 học sinh. Chọn mẫu cụm, các cụm là khối lớp 3, 4, 5 ở trường tiểu học và khối lớp 6, 7, 8 ở trường trung học cơ sở. Tổng số học sinh được chọn ở mỗi khối lớp căn cứ vào tỉ lệ học sinh của khối lớp đó. Ở mỗi khối lớp, chọn mẫu bằng phương pháp ngẫu nhiên hệ thống theo danh sách lớp. Thực hiện chọn ngẫu nhiên hệ thống 2 lần ở khảo sát đầu kỳ và cuối kỳ. Thông tin được thu thập bằng 02 bộ câu hỏi tự điền: 01 bộ câu hỏi dành cho học sinh tiểu học và 01 bộ dành cho học sinh trung học cơ sở. Dữ liệu sau khi thu thập được nhập liệu bằng phần mềm Epidata và phân tích bằng phần mềm Stata. Số liệu được thống kê mô tả so sánh giữa cuộc khảo sát đầu kỳ và cuối kỳ để mô tả những thay đổi về kiến thức và thực hành phòng chống bệnh SXHD của học sinh. KẾT QUẢ Học sinh khối tiểu học Bảng 1: Đặc tính mẫu khảo sát ở học sinh tiểu học Nội dung Cuối kỳ Đầu kỳ n (%) n (%) Khối lớp Lớp 3 42 (22,8) 52 (28,3) Lớp 4 76 (41,3) 72 (39,1) Lớp 5 66 (35,9) 60 (32,6) Giới tính Nam 78 (42,4) 84 (45,7) Nữ 106 (57,6) 100 (54,4) Tỷ lệ học sinh các khối 3-4-5 tham gia khảo sát phân phối khá đều ở 2 nhóm. Về giới, học sinh nữ chiếm đa số: khảo sát sau chiếm 57,6%, khảo sát đầu chiếm 54,4% (Bảng 1). Bảng 2: Kiến thức đúng về đặc điểm muỗi vằn ở học sinh tiểu học Nội dung Cuối kỳ Đầu kỳ p OR (KTC 95%) n (%) n (%) Muỗi vằn trú đậu chỗ mát và tối trong nhà 176 (95,7) 147 (79,9) <0,001 5,54 (2,43-14,14) Muỗi vằn đẻ trứng 165 (89,7) 150 (81,5) 0,03 1,97 (1,04-3,81) Nơi sinh sản muỗi vằn Vật phế thải chứa nước đọng 118 (64,1) 114 (62,0) 0,67 1,1 (0,70-1,71) DCCN trong nhà: chén chống kiến, bình hoa tươi, chén nước cúng 103 (60,0) 76 (41,3) 0,005 1,81 (1,17-2,79) DCCN ngoài nhà: lu, mái, hồ, khạp 141 (76,6) 118 (64,1) 0,009 1,83 (1,14-2,97) Ao tù chứa nước thải 77 (42,1) 89 (50,9) 0,23 0,78 (0,5-1,2) Cống rãnh chứa nước thải 25 (13,7) 45 (25,7) 0,008 0,49 (0,27-0,86) Học sinh có kiến thức đúng về nơi trú đậu của muỗi vằn tăng sau can thiệp (OR=5,54 với KTC 95% 2,43-14,14). Kiến thức đúng về nơi muỗi vằn đẻ trứng cũng tăng so với ban đầu (OR=1,97 với KTC 95% 1,04-3,81). Tỉ lệ học sinh biết muỗi vằn sinh sản ở các dụng cụ chứa nước trong nhà tăng 1,81 lần (p=0,005) và ở các dụng cụ chứa nước ngoài nhà tăng 1,83 lần (p=0,009) so với đầu kỳ. Không có sự khác biệt trong hiểu biết muỗi có thể sinh sản ở vật phế thải chứa nước đọng giữa đầu và cuối kỳ. Ngoài ra, kiến thức chưa đúng về nơi sinh sản của muỗi cũng giảm sau can thiệp. Theo đó, tỉ lệ học sinh biết muỗi sinh sản trong cống rãnh chứa nước thải giảm 0,49 lần và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 2). Hiểu biết của học sinh về đối tượng mắc SXH là người lớn và trẻ em sau can thiệp tăng từ 64,1% lên 84,2% (OR=2,87, KTC 95% 1,71-4,87). Tỉ lệ biết bệnh SXH không có thuốc đặc trị cũng tăng sau can thiệp (81,2% so với 46,2%) (OR=5,14, KTC 95% 3,13-8,5). Kết quả này cao hơn nghiên cứu tại huyện Cái Bè, Tiền Giang năm 2008, tỉ lệ học sinh biết bệnh SXH không có thuốc điều trị đặc hiệu sau can thiệp là 64,4%(2). Tỉ lệ biết SXH hiện chưa có vắc xin phòng bệnh tăng 1,97 lần so với đầu kỳ và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p=0,001. Nhận thức đúng về mức độ nguy hiểm của bệnh sẽ giúp học sinh chú ý và có trách nhiệm hơn trong việc phòng chống bệnh SXH. Ngoài ra, kiến thức đúng về cách phòng bệnh SXH cũng tăng sau can thiệp, cụ thể Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 549 tăng 1,81 lần so với đầu kỳ với ý nghĩa thống kê p=0,005. Kết quả này tương đương với nghiên cứu trên nhóm học sinh trung học cơ sở tại xã Đồng Phú, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long năm 2015(1). Sau can thiệp, tỉ lệ học sinh biết cần ngủ mùng cả ngày lẫn đêm để tránh muỗi vằn chích tăng 6,63 lần so với ban đầu (p <0,001) (Bảng 3). Bảng 3: Kiến thức đúng về đặc điểm bệnh SXH ở học sinh tiểu học Nội dung Cuối kỳ Đầu kỳ p OR (KTC 95%) n (%) n (%) Đối tượng mắc 154 (84,2) 118 (64,1) <0,001 2,87 (1,71-4,87) SXH không có thuốc đặc trị 150 (81,5) 85 (46,2) <0,001 5,14 (3,13-8,5) SXH chưa có vắc xin phòng bệnh 90 (48,9) 60 (32,6) 0,001 1,97 (1,27-3,09) Cách phòng bệnh SXH 100 (54,4) 73 (39,7) 0,005 1,81 (1,17-2,8) Ngủ mùng cả ngày đêm tránh muỗi vằn chích 170 (92,4) 119 (64,7) <0,001 6,63 (3,47-13,35) Bảng 4: Thực hành phòng bệnh SXH ở học sinh tiểu học và gia đình Nội dung Cuối kỳ Đầu kỳ p OR (KTC 95%) n (%) n (%) Học sinh thực hiện hoạt động DLQ vừa sức Thay nước bình bông 162 (88,0) 158 (85,9) 0,54 1,21 (0,63-2,34) Bỏ muối chén chống kiến 137 (74,5) 103 (56,0) <0,001 2,29 (1,44-3,66) Đổ bỏ chén nước cúng 146 (79,4) 131 (71,2) 0,07 1,55 (0,94-2,59) Thu gom, loại bỏ vật phế thải 168 (91,3) 152 (82,6) 0,01 2,21 (1,12-4,49) Quan sát lăng quăng ở DCCN 161 (87,5) 125 (78,1) <0,001 3,22 (1,6-6,75) Gia đình thực hiện hoạt động DLQ Súc rửa DCCN 179 (97,3) 165 (89,7) 0,003 4,12 (1,44-14,4) Đậy nắp DCCN 166 (90,2) 156 (84,8) 0,12 1,66 (0,84-3,31) Thả cá DCCN 155 (84,2) 148 (80,4) 0,34 1,3 (0,73-2,32) Sau khi được học về các biện pháp diệt lăng quăng tại trường, có sự thay đổi về thực hành diệt lăng quăng tại nhà của học sinh như: bỏ muối vào chén chống kiến tăng 2,29 lần (KTC 95%: 1,44-3,66), thu gom loại bỏ vật phế thải tăng 2,21 lần (KTC 95% 1,12-4,49), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Có sự gia tăng trong thực hành đổ bỏ chén nước cúng và thay nước bình bông nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Các em cũng ý thức hơn trong việc thường xuyên quan sát lăng quăng ở dụng cụ chứa nước, tỉ lệ này tăng 3,22 lần so với đầu kỳ (KTC 95% 1,6-6,75, p <0,001). Đối với các hoạt động diệt lăng quăng của gia đình học sinh, sau khi được học ở trường học sinh đã có tác động đến phụ huynh trong việc phòng chống SXH. Cụ thể, tỉ lệ hộ gia đình học sinh thực hiện súc rửa dụng cụ chứa nước tăng 4,12 lần (KTC 95%: 1,44-14,4, p=0,003). Có sự gia tăng trong thực hành đậy nắp kín và thả cá vào dụng cụ chứa nước nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (Bảng 4). Học sinh khối trung học sơ sở Bảng 5: Đặc tính mẫu khảo sát ở học sinh THCS Nội dung Cuối kỳ Đầu kỳ n (%) n (%) Khối lớp Lớp 6 58 (38,2) 60 (42,9) Lớp 7 42 (27,6) 41 (29,3) Lớp 8 52 (34,2) 39 (27,9) Giới tính Nam 78 (51,3) 72 (51,4) Nữ 74 (48,7) 68 (48,6) Tỉ lệ học sinh các lớp 6-7-8 tham gia khảo sát phân bố khá đều ở hai nhóm. Tỉ lệ học sinh nữ và nam phân bố khá đồng đều ở cả hai lần khảo sát (Bảng 5). Đối với kiến thức về cơ chế muỗi truyền bệnh SXH, tỷ lệ học sinh có kiến thức đúng ở cuối kỳ tăng 5,78 lần so với đầu kỳ, với p <0,001. Tỉ lệ này cao hơn nghiên cứu trên nhóm người dân tại Bảo Vinh, Long Khánh, Đồng Nai và cao hơn nghiên cứu ở nhóm học sinh trung học cơ sở tại Đồng Phú, Long Hồ, Vĩnh Long(1,3). Có sự gia Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 550 tăng nhẹ trong kiến thức về nơi trú đậu của muỗi vằn giữa 2 lần khảo sát nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Hiểu biết của học sinh về nơi sinh sản của muỗi vằn tăng sau can thiệp: tỉ lệ biết muỗi sinh sản trong các dụng cụ chứa nước tăng 1,73 lần và trong các vật phế thải chứa nước đọng tăng 2,16 lần so với ban đầu, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, tỷ lệ có kiến thức chưa đúng về nơi sinh sản của muỗi cũng tăng: ao tù chứa nước thải tăng 2,18 lần so với khảo sát đầu (với p=0,001); cống rãnh chứa nước thải tăng 2,35 lần so với khảo sát đầu (với p<0,001) (Bảng 6). Bảng 6: Kiến thức đúng về đặc điểm muỗi vằn ở học sinh THCS Nội dung Cuối kỳ Đầu kỳ p OR (KTC 95%) n (%) n (%) Muỗi vằn truyền SXH từ người bệnh sang người lành 147 (96,7) 117 (83,6) <0,001 5,78 (2,05-19,95) Muỗi vằn trú đậu trong nhà 130 (85,5) 108 (77,1) 0,07 1,75 (0,92-3,36) Nơi sinh sản muỗi vằn Dụng cụ chứa nước 121 (79,6) 97 (69,3) 0,04 1,73 (1,0-3,06) Vật phế thải chứa nước đọng 133 (87,5) 107 (76,4) 0,01 2,16 (1,12-4,25) Ao tù chứa nước thải 106 (69,7) 72 (51,4) 0,001 2,18 (1,31-3,62) Cống rãnh chứa nước thải 75 (49,3) 41 (29,3) <0,001 2,35 (1,41-3,93) Bảng 7: Kiến thức đúng về đặc điểm bệnh SXH ở học sinh THCS Nội dung Cuối kỳ Đầu kỳ p OR (KTC 95%) n (%) n (%) Đối tượng mắc 143 (94,1) 123 (87,9) 0,06 2,19 (0,89-5,79) Số lần mắc trong đời 119 (78,3) 96 (68,6) 0,06 1,65 (0,95-2,9) Dấu hiệu bệnh 130 (85,5) 104 (74,3) 0,02 2,05 (1,09-3,88) SXH nguy hiểm vì SXH không có thuốc đặc trị 98 (64,5) 63 (46,0) 0,001 2,22 (1,35-3,65) SXH chưa có vắc xin phòng bệnh 80 (52,6) 45 (32,9) <0,001 2,35 (1,42-3,89) SXH có thể gây chết người 141 (92,8) 111 (81,0) 0,001 3,35 (1,54-7,74) SXH có thể lây cho nhiều người 88 (57,9) 73 (53,3) 0,32 1,26 (0,77-2,06) SXH xảy ra nhiều nhất vào mùa mưa 115 (75,7) 108 (77,1) 0,77 0,92 (0,52-1,64) Cách phòng bệnh SXH 91 (59,9) 71 (50,4) 0,1 1,47 (0,9-2,4) Có sự gia tăng ở kiến thức của học sinh về đối tượng mắc bệnh và số lần mắc bệnh sau can thiệp, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Sau khi được thầy cô giáo giảng dạy, tỉ lệ học sinh có kiến thức đúng về dấu hiệu bệnh SXH tăng 2,05 lần so với khảo sát đầu (p=0,02). Kết quả này tương đồng với nghiên cứu trên nhóm học sinh trung học cơ sở tại Vĩnh Long nhưng thấp hơn so với nghiên cứu của Vesga- Gómez với tỉ lệ học sinh trả lời đúng dấu hiệu bệnh tăng 7,6 lần(1,4). Tỉ lệ học sinh biết triệu chứng cơ bản của SXH sau can thiệp là 85,5% thấp hơn nghiên cứu tại Cái Bè, Tiền Giang năm 2009 là 92,7%(2). Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức về sự nguy hiểm của SXH tăng sau can thiệp như SXH không có thuốc đặc trị tăng 2,22 lần (KTC 95% 1,35-3,65); SXH chưa có vắc xin phòng bệnh tăng 2,35 lần (KTC 95% 1,42-3,89); SXH có thể gây chết người tăng 3,35 lần (KTC 95% 1,54-7,74,). Trong đó kiến thức SXH nguy hiểm vì có thể lây cho nhiều người ở khảo sát sau và trước không có sự thay đổi nhiều. Không có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê ở kiến thức mùa xảy ra SXH nhiều nhất và ở kiến thức cách phòng bệnh SXH (Bảng 7). Kết quả khảo sát cho thấy kiến thức chung đúng về biện pháp diệt lăng quăng của học sinh tăng 2,83 lần (với KTC 95% 1,69-4,74, p <0,001). Đối với từng biện pháp diệt lăng quăng, có sự gia tăng đáng kể trong hiểu biết của học sinh sau can thiệp: biện pháp đậy nắp kín tăng 2,57 lần, biện pháp thả cá tăng 2,52 lần, biện pháp súc rửa tăng 2,14 lần, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Với biện pháp thu gom, loại bỏ vật Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 551 phế thải, có sự gia tăng trong kiến thức ở học sinh tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Có sự gia tăng trong hiểu biết của học sinh về cách súc rửa dụng cụ chứa nước đúng và cách đậy nắp kín đúng so với khảo sát đầu, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 8). Bảng 8: Kiến thức đúng về biện pháp phòng bệnh SXH ở học sinh THCS Nội dung Cuối kỳ Đầu kỳ p OR (KTC 95%) n (%) n (%) Kiến thức chung về biện pháp DLQ 111 (73,0) 69 (48,9) <0,001 2,83 (1,69-4,74) Đậy nắp kín DCCN 129 (84,9) 96 (68,6) 0,001 2,57 (1,41-4,77) Súc rửa DCCN 138 (90,8) 115 (82,1) 0,03 2,14 (1,01-4,67) Thu gom, loại bỏ vật phế thải 132 (86,8) 110 (78,6) 0,06 1,8 (0,93-3,54) Thả cá DCCN 141 (92,8) 117 (83,6) 0,01 2,52 (1,12-5,96) Cách súc rửa DCCN đúng 119 (78,3) 94 (66,7) 0,03 1,8 (1,04-3,15) Cách đậy nắp kín đúng 137 (90,1) 112 (80,0) 0,02 2,28 (1,11-4,83) Bảng 9: Thực hành phòng bệnh SXH ở học sinh THCS và gia đình Nội dung Cuối kỳ Đầu kỳ p OR (KTC 95%) n (%) n (%) Học sinh thực hiện hoạt động DLQ vừa sức Bỏ muối chén nước chống kiến 70 (46,1) 32 (22,9) <0,001 2,88 (1,69-4,96) Đổ nước đọng khay hứng nước tủ lạnh 67 (44,1) 42 (30,0) 0,01 1,84 (1,1-3,07) Thay nước bình bông 107 (70,4) 84 (60,0) 0,06 1,58 (0,95-2,65) Thu gom, loại bỏ vật phế thải 108 (71,1) 61 (43,3) 0,04 1,9 (1-3,63) Học sinh chống muỗi đốt Thoa kem chống muỗi 105 (69,1) 77 (55,0) 0,01 1,83 (1,1-3,04) Dùng thuốc xịt muỗi 117 (77,0) 88 (62,9) 0,008 1,98 (1,15-3,4) Ngủ mùng cả ngày lẫn đêm 128 (84,2) 97 (68,8) 0,003 2,45 (1,31-4,67) Gia đình thực hiện hoạt động DLQ Thả cá DCCN 110 (74,3) 73 (57,9) 0,004 2,1 (1,22-3,62) Súc rửa DCCN 123 (83,1) 106 (84,1) 0,82 0,93 (0,46-1,85) Đậy nắp kín DCCN 132 (89,2) 105 (83,3) 0,16 1,65 (0,78-3,56) Nắp xi măng 27 (18,2) 9 (7,1) 0,007 2,9 (1,25-7,29) Nắp nhôm 84 (56,8) 56 (44,4) 0,04 1,64 (1-2,72) Đậy kín bằng miếng nilong và ràng dây 67 (45,3) 42 (33,3) 0,04 1,65 (1-2,79) Nhìn chung, tỷ lệ học sinh thực hành các hoạt động diệt lăng quăng phòng bệnh SXH ở cuối kỳ có tăng so với đầu kỳ. Trong đó, tỷ lệ học sinh thực hành bỏ muối chén nước chống kiến tăng 2,88 lần so với ban đầu (KTC 95% 1,69-4,96, p <0,001); tỉ lệ học sinh đổ nước đọng khay hứng nước tủ lạnh tăng 1,84 lần so với ban đầu (KTC 95% 1,1-3,07, p=0,01); tỉ lệ học sinh thực hiện thu gom, loại bỏ vật phế thải tăng 1,9 lần so với ban đầu (KTC 95% 1-3,63, p=0,04). Có sự thay đổi ở hoạt động thay nước bình bông hai hay ba ngày một tuần (70,4% so với 60%) nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (Bảng 9). Tỷ lệ học sinh thực hành chống muỗi đốt phòng bệnh SXH tăng ở các biện pháp: ngủ mùng cả ngày lẫn đêm, dùng thuốc xịt muỗi và thoa kem chống muỗi. Thực hành ngủ mùng cả ngày lẫn đêm tăng 2,45 lần (KTC 95% 1,31-4,67, p=0,003) so với đầu kỳ, kết quả này tương đương với nghiên cứu tại Long Hồ, Vĩnh Long năm 2015(1). Tỉ lệ học sinh dùng kem chống muỗi tăng 1,83 lần, thuốc xịt muỗi để chống muỗi đốt tăng 1,98 lần so với khảo sát ban đầu. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai lần khảo sát. Đối với hoạt động diệt lăng quăng ở gia đình học sinh, kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ gia đình học sinh có thả cá vào các dụng cụ chứa nước tăng 2,1 lần (KTC 95% 1,22-3,62). Tuy nhiên, chưa thấy có sự thay đổi rõ ràng trong hoạt động súc rửa và đậy nắp dụng cụ chứa nước. Riêng ở Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 552 hoạt động đậy nắp kín dụng cụ chứa nước, gia đình học sinh đã có sự thay đổi trong việc lựa chọn các loại nắp đậy đủ tiêu chuẩn kín như: nắp xi măng (sau can thiệp tăng 2,9 lần), nắp nhôm (sau can thiệp tăng 1,64 lần) và đậy bằng miếng nilong có ràng dây (tăng 1,65 lần sau can thiệp), những sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê. BÀN LUẬN Hiểu biết của học sinh về sự nguy hiểm của bệnh SXH ở cả hai khối tiểu học và trung học cơ sở đều có sự gia tăng ở cuối kỳ. Tỉ lệ học sinh tiểu học biết bệnh SXH không có thuốc đặc trị tăng sau can thiệp (81,2% so với 46,2%) (Bảng 3), kết quả cao hơn nghiên cứu tại huyện Cái Bè, Tiền Giang năm 2008: tỉ lệ học sinh có hiểu biết về kiến thức này là 64,4%(2). Tỉ lệ học sinh trung học cơ sở biết bệnh SXH không có thuốc điều trị đặc hiệu cũng tăng sau can thiệp, từ 46% lên 64,5% (Bảng 7), tương đương với nghiên cứu trên nhóm học sinh trung học cơ sở ở Cái Bè, Tiền Giang(2). Ngoài ra, đối với nhóm học sinh trung học cơ sở, tỉ lệ biết SXH có thể gây chết người và chưa có vắc xin phòng có sự gia tăng so với đầu kỳ, trong khi đó kiến thức SXH có thể lây cho nhiều người không có sự thay đổi ở hai lần khảo sát (Bảng 7). Nhận thức đúng về mức độ nguy hiểm của bệnh sẽ giúp học sinh chú ý và có trách nhiệm hơn trong việc phòng chống bệnh. Do đó, khi giảng dạy giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh về mức độ nguy hiểm của bệnh SXH (đặc biệt là kiến thức SXH có thể lây lan nhanh cho nhiều người). Đây có thể là khởi đầu để học sinh có sự quan tâm cần thiết về bệnh, từ đó ý thức hơn trong việc chủ động thực hành các biện pháp phòng chống SXH cho bản thân và gia đình. Kết quả khảo sát cho thấy kiến thức đúng về cách phòng bệnh SXH của học sinh tiểu học tăng 1,81 lần so với đầu kỳ (p=0,005) (Bảng 2), kết quả này tương đương với nghiên cứu trên nhóm học sinh trung học cơ sở tại xã Đồng Phú, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long năm 2015(1). Các biện pháp diệt lăng quăng là nội dung cơ bản của chương trình giảng dạy phòng chống SXH trong trường học, vì vấn đề cốt lõi của phòng chống SXH là kiểm soát được lăng quăng. Để học sinh thực hiện được điều này, các em cần phải nắm vững được các biện pháp diệt lăng quăng tương ứng với từng loại vật chứa nước. Vì vậy, kiến thức này đã được chú trọng trong chương trình giảng dạy SXH tại trường học. Sau khi được học tại trường, hiểu biết của học sinh trung học cơ sở có sự gia tăng đáng kể, cụ thể: biện pháp đậy nắp kín tăng 2,57 lần, biện pháp thả cá tăng 2,52 lần, biện pháp súc rửa tăng 2,14 lần, bỏ muối chén nước chống kiến tăng 2,88 lần, đổ nước đọng khay hứng nước tủ lạnh tăng 1,84 lần, thu gom loại bỏ vật phế thải tăng 1,9 lần và những sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê (Bảng 8 và Bảng 9). Nắm vững kiến thức về các biện pháp diệt lăng quăng cụ thể cho từng vật chứa nước sẽ giúp học sinh có cơ sở để thực hành đúng các biện pháp phòng bệnh SXH. Về kiến thức nơi sinh sản của muỗi vằn ở nhóm học sinh trung học cơ sở, các em còn nhầm lẫn muỗi vằn sinh sản ở ao tù, cống rãnh chứa nước thải (Bảng 6). Trong khi đó, cũng ở kiến thức này, đối với học sinh tiểu học, sự nhầm lẫn chỉ xảy ra ở ao tù chứa nước thải và kiến thức muỗi vằn sinh sản ở cống rãnh chứa nước thải giảm sau can thiệp (Bảng 2). Do đó, trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần nhấn mạnh kiến thức này để tránh sự nhầm lẫn ở học sinh. Đối với kiến thức về cơ chế truyền bệnh SXH, tỉ lệ học sinh trung học cơ sở biết cơ chế truyền bệnh SXH của muỗi vằn là muỗi hút máu người bệnh truyền sang người lành tăng 5,78 lần so với đầu kỳ, với p <0,001 (Bảng 6). Tỉ lệ này cao hơn nghiên cứu trên nhóm người dân tại Bảo Vinh, Long Khánh, Đồng Nai và cao hơn nghiên cứu ở nhóm học sinh trung học cơ sở tại Đồng Phú, Long Hồ, Vĩnh Long(1,3). Sau khi được thầy cô giáo giảng dạy, tỉ lệ học sinh trung học cơ sở có kiến thức đúng về dấu hiệu bệnh SXH tăng 2,05 lần so với khảo sát đầu (p=0,02) (Bảng 7). Kết quả này tương đồng với nghiên cứu trên nhóm học sinh trung học cơ sở Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 553 tại Vĩnh Long nhưng thấp hơn so với nghiên cứu của Vesga-Gómez với tỉ lệ học sinh trả lời đúng dấu hiệu bệnh tăng 7,6 lần(1,4). Tỉ lệ học sinh trung học cơ sở biết triệu chứng cơ bản của SXH sau can thiệp là 85,5% (Bảng 7), thấp hơn so với nghiên cứu tại Cái Bè, Tiền Giang năm 2009 là 92,7% và nghiên cứu tại Long Hồ, Vĩnh Long năm 2015 là 91,7%(1,2). Về thực hành ngủ mùng cả ngày lẫn đêm, sau can thiệp tỉ lệ học sinh trung học cơ sở có thực hành biện pháp này để phòng bệnh SXH tăng 2,45 lần so với trước can thiệp (p=0,003) (Bảng 9), kết quả này tương đương với nghiên cứu tại Long Hồ, Vĩnh Long năm 2015(1). Đối với hoạt động diệt lăng quăng ở gia đình học sinh khối trung học cơ sở, tỉ lệ học sinh có thả cá vào dụng cụ chứa nước tăng sau can thiệp (p=0,004) nhưng chưa có sự gia tăng rõ ràng trong thực hành súc rửa và đậy nắp dụng cụ chứa nước (Bảng 9). Tuy vậy, kết quả khảo sát còn cho thấy gia đình học sinh đã có sự thay đổi trong việc lựa chọn chất liệu các loại nắp đậy đủ tiêu chuẩn kín, việc sử dụng các loại nắp đậy như: nắp xi măng, nắp nhôm, đậy bằng miếng nilong có ràng dây tăng sau can thiệp và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 9). Xã Vĩnh Trường, huyện An Phú, tỉnh An Giang là xã vùng ven giáp ranh biên giới Campuchia. Đa số người lớn và thanh niên trong tuổi lao động đều đi làm ăn xa tại các khu công nghiệp Bình Dương, Đồng Nai, chỉ còn người già ở nhà và trẻ em ở lại địa phương để đi học. Ông bà tuổi già yếu nên việc thực hiện súc rửa dụng cụ chứa nước thường xuyên cũng là điều khó khăn, bên cạnh đó học sinh ở độ tuổi cấp hai chưa phát triển thể chất toàn diện nên việc súc rửa cũng khó thực hiện được. Đây có thể là lý do của sự thay đổi tập trung vào các hoạt động vừa sức như thả cá và đậy nắp kín dụng cụ chứa nước. KẾT LUẬN Sau khi triển khai hoạt động can thiệp truyền thông lồng ghép giảng dạy SXH vào trong trường học tại xã Vĩnh Trường, huyện An Phú, tỉnh An Giang, tỉ lệ học sinh có kiến thức đúng và thực hành đúng trong phòng chống SXH tăng có ý nghĩa thống kê so với trước can thiệp. Điểm mạnh của hoạt động Phòng Giáo dục và Đào tạo, Ban Giám Hiệu nhà trường quan tâm và tạo điều kiện để giáo viên thực hiện tốt công tác giảng dạy. Giáo viên nhiệt tình giảng dạy, truyền thụ kiến thức đầy đủ, kịp thời đúng kế hoạch. Giáo viên được tập huấn trước khi giảng dạy, được cung cấp giáo án đã biên soạn sẵn nội dung bài học cụ thể, được cung cấp tranh ảnh cho việc giảng dạy. Đây là vấn đề sức khỏe gần gũi nên thu hút được sự quan tâm của học sinh. Cuộc thi tìm hiểu về SXH thu hút được sự tham gia của học sinh, là sân chơi để các em sinh hoạt và thi đua với nhau. Điểm hạn chế của hoạt động Việc sắp xếp lịch giảng dạy cho học sinh khối trung học cơ sở còn gặp khó khăn vì hiện nay nhiều chương trình được triển khai lồng ghép vào trường học. Tranh ảnh minh họa, tài liệu truyền thông phục vụ công tác giảng dạy chưa đầy đủ cho từng bài học. Đa số người dân trong độ tuổi lao động đi làm ăn xa, chỉ còn trẻ em và người già sinh sống trên địa bàn nên việc vận động thực hiện diệt lăng quăng phòng chống SXH tại nhà còn hạn chế, đặc biệt những hộ có học sinh khối lớp tiểu học. Chưa tổ chức được các hoạt động theo dõi giám sát của nhà trường trong việc phòng chống SXH tại nhà của học sinh. ĐỀ XUẤT Ngành y tế, giáo dục và các ban ngành đoàn thể phối hợp với nhau để tổ chức các hoạt động theo dõi giám sát việc thực hiện phòng chống SXH tại nhà của học sinh. Trung tâm TT-GDSK, Trung tâm Y tế huyện hỗ trợ thêm các tài liệu truyền thông nhằm phục Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 554 vụ công tác giảng dạy SXH trong trường học. Ban Giám Hiệu nhà trường và giáo viên quan tâm hơn nữa và thường xuyên nhắc nhở học sinh thực hành các hoạt động phòng chống SXH tại nhà. Tiếp tục duy trì hoạt động giảng dạy và tổ chức hội thi tìm hiểu về SXH trong những năm sắp tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lâm Ngọc Báu (2016). Hiệu quả hoạt động can thiệp về truyền thông phòng chống SXHD cho học sinh tại trường THCS Đồng Phú huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long 2015. Y học TP. Hồ Chí Minh, 20):31-37. 2. Nguyễn Lâm (2010). Đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành phòng chống Sốt xuất huyết của học sinh trước và sau khi triển khai dự án can thiệp tại trường trung học cơ sở Tân Hưng huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang, 2009. Y học TP. Hồ Chí Minh, 14:1-6. 3. Nguyễn Văn Tới (2010). Hiệu quả truyền thông trong thay đổi kiến thức – thực hành của người dân về phòng chống Sốt xuất huyết tại Bảo Vinh, Long Khánh, Đồng Nai năm 2009. Y học TP. Hồ Chí Minh, 14: 48-53. 4. Vesga-Goszszsmez C, Cáceres-Manrique FM (2010). The efficacy of play-based education in preventing dengue in primary-school children. Revista Salud Pública, 12(4):558-569. 5. WHO (2016). Dengue and severe dengue. URL: https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/dengue- and-severe-dengue. Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf546_2901_2212138.pdf