Tài liệu Hiệu quả giảm đau sau mổ của phong bế vùng da đầu trong phẫu thuật ghép khuyết xương sọ: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 72
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ CỦA PHONG BẾ VÙNG DA ĐẦU
TRONG PHẪU THUẬT GHÉP KHUYẾT XƯƠNG SỌ
Nguyễn Thị Bích Hồng*, Trương Mạnh Khoa*, Trần Đỗ Anh Vũ**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiều nghiên cứu ghi nhận rằng có khoảng 2/3 bệnh nhân có mức độ đau từ vừa đến nặng sau
phẫu thuật mở sọ. Phong bế vùng da đầu có thể giúp kiểm soát đau sau mổ cho người bệnh mổ ghép khuyết
xương sọ.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ và xác định tính an toàn của phong bế vùng da đầu trong
phẫu thuật ghép khuyết xương sọ.
Thiết kế nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng.
Đối tượng và phương pháp: 60 trường hợp bệnh nhân, ASA từ 1 đến 3, được phẫu thuật ghép khuyết
xương sọ, từ tháng 01/2015 đến tháng 12/2015, tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương, chia ngẫu nhiên thành 2
nhóm. Nhóm L (30 trường hợp) tê vùng da đầu với Levobupivacaine 0,5% 20ml phối hợp adrenaline 1/200.000
và nhóm P (30 trường hợ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả giảm đau sau mổ của phong bế vùng da đầu trong phẫu thuật ghép khuyết xương sọ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 72
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ CỦA PHONG BẾ VÙNG DA ĐẦU
TRONG PHẪU THUẬT GHÉP KHUYẾT XƯƠNG SỌ
Nguyễn Thị Bích Hồng*, Trương Mạnh Khoa*, Trần Đỗ Anh Vũ**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiều nghiên cứu ghi nhận rằng có khoảng 2/3 bệnh nhân có mức độ đau từ vừa đến nặng sau
phẫu thuật mở sọ. Phong bế vùng da đầu có thể giúp kiểm soát đau sau mổ cho người bệnh mổ ghép khuyết
xương sọ.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ và xác định tính an toàn của phong bế vùng da đầu trong
phẫu thuật ghép khuyết xương sọ.
Thiết kế nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng.
Đối tượng và phương pháp: 60 trường hợp bệnh nhân, ASA từ 1 đến 3, được phẫu thuật ghép khuyết
xương sọ, từ tháng 01/2015 đến tháng 12/2015, tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương, chia ngẫu nhiên thành 2
nhóm. Nhóm L (30 trường hợp) tê vùng da đầu với Levobupivacaine 0,5% 20ml phối hợp adrenaline 1/200.000
và nhóm P (30 trường hợp) dùng Paracetamol ± Morphine. Đánh giá đau sau mổ tại thời điểm 0, 2, 4, 6 và 8 giờ
bằng thang điểm VAS.
Kết quả: Thời gian giảm đau hiệu quả của nhóm L: 10,9 ± 2,8 giờ, có 4/30 (13,3%) trường hợp phối hợp
thêm Paracetamol, không có trường hợp nào phải sử dụng Morphine, so nhóm chứng có 12/30 (40%) bệnh nhân.
Thang điểm đau VAS ở nhóm L tại các thời điểm luôn thấp hơn nhóm chứng. Không ghi nhận bất kỳ tai biến, tác
dụng phụ nào.
Kết luận: Phong bế vùng da đầu với levobupivacaine phối hợp adrenaline 1/200.000 giúp giảm đau sau mổ
tốt ở bệnh nhân phẫu thuật ghép khuyết xương sọ. Phong bế vùng da đầu là kỹ thuật đơn giản, có thể thực hiện
nhanh, an toàn và đáng tin cậy, có hiệu quả trong việc giảm đau sau mổ.
Từ khóa: phong bế vùng da đầu, phẫu thuật ghép khuyết xương sọ, Levobupivacaine, giảm đau sau mổ
ABSTRACT
THE EFFICACY OF SCALP BLOCK ON POSTOPERATIVE PAIN RELIEF IN CRANIOPLASTY
Nguyen Thi Bich Hong, Truong Manh Khoa, Tran Do Anh Vu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 3 - 2017: 72 - 77
Background: More recent prospective studies have shown that around two-thirds of patients report moderate
to severe pain after craniotomy. Scalp block may control postoperative analgesia for patients who undergo
cranioplasty.
Objectives: The purpose of this study was to evaluate the effects and safety of scalp block to postoperative
pain control in cranioplasty.
Study design: randomized controlled trial
Patients and Methods: We studied 60 patients ASA physical status I - III who underwent selective
cranioplasty, from January 2015 to December 2015 in Binh Duong general hospital. A standard general
anaesthesia technique was followed. Patients were randomly divided into two groups. Group L received 0.5%
* Bệnh viện đa khoa Bình Dương ** Bệnh viện Bình Dân TP HCM
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Thị Bích Hồng ĐT: 0918434322 Email: trandoanhvu@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 73
levobupivacaine with 1:200,000 adrenaline after skin closure while paracetamol ± morphine intravenous were
administered in group P. Postoperative pain was assessed at 0 and 2, 4, 6, 8 hours using the visual analog scale.
Results: The duration of postoperative analgesia in group L was 10.9 ± 2.8 hours, 4/30 (13.3%) patients
need paracetamol. Morphine was required by no patients in group L compared to 12/30 (40%) in group P.
Median pain scores were significantly lower in group L for up to 8 hours.There were no complications and side
effects in any of the 30 patients who received scalp block.
Conclusion: Scalp block using 0.5% levobupivacaine with 1:200,000 adrenaline decreases the incidence and
severity of postoperative pain in patients undergoing cranioplasty. It is a simple technique that can be performed
rapidly, safely and reliably for postoperative analgesia.
Keywords: Scalp block, cranioplasty, Levobupivacaine, postoperative analgesia
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đau luôn là nỗi ám ảnh của người bệnh,
trong đó đau sau mổ là vấn đề được cả nhân
viên y tế và bệnh nhân rất quan tâm. Đặc biệt
kiểm soát đau trên những bệnh nhân phẫu
thuật mở sọ vẫn thường xuyên là một thử
thách cho bác sĩ, nhất là bác sĩ gây mê hồi sức
vì phải đối mặt hai vấn đề đối lập nhau là vừa
đảm bảo giảm đau tốt cho bệnh nhân đồng
thời vẫn có thể đánh giá chính xác tình trạng
tri giác, các chức năng thần kinh trong và sau
mổ cho người bệnh(4).
Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương những
năm gần đây trong bối cảnh xã hội và kinh tế
ngày càng phát triển phải tiếp nhận và điều trị
ngày càng nhiều trường hợp chấn thương sọ não
cần phẫu thuật mở sọ giải áp. Sau trung bình
khoảng 3 - 6 tháng, bệnh nhân cần được mổ
ghép khuyết xương sọ bằng sọ tự thân hoặc
titanium để bảo vệ não bên trong, đảm bảo tính
thẩm mỹ cho người bệnh, có thể giảm triệu
chứng đau đầu và cải thiện chức năng thần kinh.
Tuy nhiên, vấn đề giảm đau cho bệnh nhân
sau mổ nói chung và bệnh nhân ghép khuyết
xương sọ nói riêng chưa được quan tâm đúng
mức hoặc chưa đầy đủ. Hiện tại chỉ sử dụng
thuốc giảm đau tiêm bắp hoặc tiêm mạch thông
thường, trong khi có nhiều nghiên cứu ghi nhận
rằng có khoảng 2/3 đến hơn 80% bệnh nhân có
mức độ đau từ vừa đến nặng sau phẫu thuật mở
sọ. Phong bế vùng da đầu là một kỹ thuật mới có
thể lựa chọn để thực hiện cho người bệnh mổ
ghép khuyết xương sọ, được cho là có thể giúp
kiểm soát đau sau mổ, tránh được những bất lợi
do đau gây ra cho người bệnh.
Phong bế vùng da đầu đã được áp dụng
nhiều ở một số nước, nhất là các nước tiên tiến
như phẫu thuật mở sọ có thức tỉnh trong mổ(3,8),
nhưng ở Việt Nam cho đến nay chưa ghi nhận
công trình nghiên cứu nào về phong bế vùng da
đầu cho đến thời điểm chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này.
Vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu hiệu
quả giảm đau sau mổ của phong bế vùng da đầu
trong phẫu thuật ghép khuyết xương sọ.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ của
phong bế vùng da đầu trong phẫu thuật ghép
khuyết xương sọ.
Xác định tính an toàn của kỹ thuật phong bế
vùng da đầu.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng
có nhóm chứng.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn nhận
Các bệnh nhân phân loại ASA từ 1 đến 3, từ
16 tuổi trở lên có chỉ định phẫu thuật ghép
khuyết xương sọ tại bệnh viện đa khoa Bình
Dương, được đánh giá Glasgow trước mổ ≥ 13
điểm, đồng ý tham gia nghiên cứu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 74
Tiêu chuẩn loại
Bệnh nhân không hiểu hoặc không sử dụng
được thang điểm đánh giá đau VAS, điều trị với
Opioid trước mổ, dị ứng thuốc tê, chống chỉ định
sử dụng Paracetamol, và phẫu thuật mở rộng ra
khỏi vùng của gây tê (như phẫu thuật sọ mặt),
ASA nhóm 4 trở lên, không đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Cỡ mẫu và phương pháp nghiên cứu
Bala và cộng sự nghiên cứu tác dụng của
phong bế vùng da đầu để giảm đau sau phẫu
thuật mở sọ lấy u não, nhận thấy tỉ lệ bệnh nhân
đau sau 12 giờ là 25% ở nhóm dùng gây tê vùng
da đầu so với 60% ở nhóm không dùng.(1)
Cỡ mẫu nghiên cứu
2
21
2
22111)2/1(
21
)(
])1()1()1(2[
pp
ppppZppZ
nn
Trong đó: n1: cỡ mẫu nhóm đối chứng (nhóm P); n2: cỡ mẫu
nhóm nghiên cứu (nhóm L); p1: % bệnh nhân đau sau 12
tiếng sau mổ khi dùng Paracetamol: ước tính là 60%; p2: %
bệnh nhân đau sau 12 tiếng sau mổ khi dùng
Levobupivacain với Adrenaline 1/200.000 gây tê da đầu:
ước tính là 25%; p = (p1+p2)/2; Z1- /2: Hệ số tin cậy ở mức
xác suất 95% (=1,96); Z1-: Lực mẫu (= 80%)
Theo công thức tính được: n1 = n2 = 29,25
Cỡ mẫu
60 bệnh nhân chia 2 nhóm. Nhóm nghiên cứu
gồm 30 bệnh nhân giảm đau sau mổ với phong bế
vùng da đầu, nhóm chứng gồm 30 bệnh nhân
giảm đau bằng thuốc đường tĩnh mạch.
Phương pháp tiến hành
Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 2
nhóm, thực hiện theo qui trình giảm đau như
sau:
+ Nhóm L: phong bế thần kinh vùng da đầu
lúc kết thúc cuộc mổ, với 20 ml Levobupivacaine
0,5% + adrenaline 1:200.000 (5mcg/ml), 10ml cho
mỗi bên, thêm thuốc Paracetamol khi đánh giá
bệnh nhân VAS ≥ 4, phối hợp thêm Morphine
khi VAS ≥ 5.
+ Nhóm P: cho thuốc giảm đau đường tĩnh
mạch Paracetamol 1 gram trước khi kết thúc
phẫu thuật 30 phút, thêm 1 gram mỗi 6 giờ sau,
phối hợp thêm Morphine khi VAS ≥ 5.
Phong bế vùng da đầu theo phương pháp
như tác giả Pinosky, thực hiện vào cuối cuộc mổ
sau khi đóng da và trước khi bệnh nhân được
đưa ra phòng Hậu phẫu(8). Gây tê thần kinh trên
ổ mắt và trên ròng rọc với 2 ml dung dịch thuốc
tê, vị trí ở gờ ổ mắt trên cung mày vuông góc với
da. Thần kinh tai thái dương tê với 3 ml, vị trí ở
1,5 cm phía trước lỗ tai ngang mức gờ tai, hướng
kim vuông góc mặt da, 1,5 ml cho lớp cân sâu và
1,5 ml cho lớp nông. Nhánh tai sau của thần kinh
tai lớn được gây tê với 2 ml dung dịch, nằm giữa
da và xương, cách sau lỗ tai 1,5 cm ngang với
mức gờ tai. Gây tê thần kinh chẩm lớn và chẩm
bé với 3 ml dung dịch, dọc theo đường gáy trên,
tương ứng đường giữa ụ chẩm và gờ chũm. Mỗi
vị trí tiêm từ 1-3 ml thuốc tê, 10 ml cho mỗi bên.
Đánh giá đau sau mổ: theo “Thang điểm
nhìn” (VAS - visual analog scale): gồm một
đường thẳng dài 10 cm với 2 đầu : một đầu là
“không đau” và đầu kia là “đau nhiều nhất có
thể tưởng tượng được”. Đánh giá hiệu quả giảm
đau như sau: Không đau = 0; đau nhẹ (1- 3) = 2;
đau trung bình (4 - 6) = 5 và đau nhiều (7 - 10) =
8. Cho thêm thuốc giảm đau Paracetamol truyền
tĩnh mạch khi đánh giá đau VAS ≥ 4, Morphine
là thuốc giảm đau thứ 2 khi VAS ≥ 5
Các biến số theo dõi và phân tích
Tuổi, giới, cân nặng, thời gian gây mê phẫu
thuật, tổng liều fentanyl
Thời gian giảm đau ở nhóm L (tính từ lúc
gây tê xong đến khi bệnh nhân bắt đầu than đau,
đòi hỏi phải dùng thuốc giảm đau)
Thang điểm đánh giá đau VAS lúc bệnh
nhân vừa tỉnh (0 giờ) và mỗi 2 giờ trong 8 giờ
sau đó, thuốc giảm đau sử dụng ở 2 nhóm.
Các tai biến, biến chứng liên quan đến gây
tê: ngộ độc thuốc tê, tổn thương thần kinh, tai
biến và biến chứng sau mổ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 75
Các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn, chọn vào mẫu
nghiên cứu được ghi nhận các dữ kiện theo 1
mẫu thu thập số liệu thống nhất.
Xử lý và phân tích số liệu
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm phân
tích thống kê SPSS 22.0 for Windows.
Các phép kiểm có giá trị P < 0,05 được xem là
khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Mức ý nghĩa trong toàn bộ nghiên cứu là P <
0,05.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu được lấy mẫu từ tháng 01/2015
đến tháng 12/2015 tại bệnh viện đa khoa tỉnh
Bình Dương, chúng tôi đã thực hiện gây mê
phẫu thuật cho 60 trường hợp ghép khuyết
xương sọ, 30 trường hợp được phong bế vùng da
đầu, 30 trường hợp sử dụng thuốc giảm đau
đường tĩnh mạch, kết quả ghi nhận như sau:
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Bảng 1: Phân bố giới tính, ASA
Đặc điểm Nhóm L (n=30) Nhóm P (n=30)
Giới
Nam 93,3% (28) 83,3% (25)
Nữ 6,7% (2) 16,7% (5)
ASA
1 56,7 % (17) 90 % (27)
2 40 % (12) 6,7 % (2)
3 3,3 % (1) 3,3 % (1)
Bảng 2: So sánh các đặc điểm lâm sàng của 2 nhóm
nghiên cứu:
Nhóm L
(n=30)
Nhóm P
(n=30)
P
Tuổi 33,5 ± 10,1 32,7 ± 9,6 0,76 (NS)
Cân nặng (kg) 54,3 ± 7,7 55,3 ± 6,3 0,59 (NS)
Chiều cao (cm) 166,2 ± 5,0 162,7 ± 6,5 0,23 (NS)
Thời gian gây mê và
phẫu thuật
89,8 ± 22,6 89,0 ± 22,0
0,89 (NS)
Tổng lượng Fentanyl
trong mổ (mcg)
116,0 ± 28,6
110,0 ±
20,3
0,35 (NS)
NS: khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3: Phương pháp vá sọ và vị trí khuyết sọ
Nhóm L (n=30) Nhóm P (n=30)
Phương pháp vá sọ
Vá sọ tự thân 21 (70%) 27 (90%)
Vá sọ Titanium 9 (30%) 3 (10%)
Nhóm L (n=30) Nhóm P (n=30)
Vị trí
Bán cầu 26 (86,67%) 25 (83,34%)
Trán (1 bên, 2 bên) 3 (10%) 1 (3,33%)
Thái dương, đỉnh,
chẩm
1 (3,33%) 4 (13,33%)
Các bệnh nhân đa số được phân loại ASA
1-2, ít có bệnh kèm theo, độ tuổi trung bình
trẻ, thấp nhất 16, cao nhất 60, nam chiếm đa số
ở cả 2 nhóm, phù hợp với dân số bệnh nhân
chấn thương sọ não do tai nạn giao thông.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa về các đặc
điểm giữa 2 nhóm.
Hiệu quả giảm đau của gây tê vùng da đầu
Bảng 4: VAS tại các thời điểm giữa 2 nhóm
VAS P
Nhóm L (n=30) Nhóm P (n=30)
Giờ 0 0,07 ± 0,046 1,07± 0,191 0,00
Giờ 2 0,47 ± 0,133 2,53 ± 0,213 0,00
Giờ 4 0,87 ± 0,202 3,33 ± 0,237 0,00
Giờ 6 1,37 ± 0,247 3,37± 0,169 0,00
Giờ 8 1,70 ± 0,259 3,43 ± 0,177 0,00
Nhận xét: với phong bế vùng da đầu, điểm
đau VAS tại các thời điểm luôn thấp hơn nhóm
chứng sử dụng Paracetamol và Morphine, sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê, với P < 0,05.
BÀN LUẬN
Giảm đau không đủ trong giai đoạn cấp có
thể làm tăng khả năng chuyển sang đau đầu
mạn tính tồn tại dai dẳng sau mổ, gây ảnh
hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống của
người bệnh. Opioid đường toàn thân là thuốc
giảm đau mạnh tuy nhiên do làm hạn chế nhu
cầu đòi hỏi phải đánh giá thần kinh, và làm giảm
hô hấp gây ra bất lợi là tăng thán khí và tăng áp
lực nội sọ nên cũng không được ưa chuộng
nhiều. Gây tê tại chổ hoặc gây tê vùng cân bằng
về tính hiệu quả và các tác dụng không mong
muốn của thuốc dùng đường toàn thân, được ưa
thích hơn. Guilfoyle và cộng sự cho rằng gây tê
sẽ khắc phục được các nhược điểm khi dùng
opioids(6). Tuy nhiên, gây tê tại chổ không ức chế
được cảm nhận đau ở các mô sâu hơn, trong khi
phong bế vùng da đầu cung cấp kiểm soát đau
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 76
đáng tin cậy do ức chế phân bố thần kinh cho cả
lớp bề mặt và lớp sâu của mô mềm(5).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả bệnh
nhân ở cả 2 nhóm đều được giảm đau tốt, không
có trường hợp nào đau ở mức độ trung bình và
nặng, điểm VAS luôn được duy trì < 4 ở tất cả
bệnh nhân và ở mọi thời điểm nghiên cứu lúc
vừa tỉnh và 2, 4, 6, 8 giờ sau mổ. Tuy nhiên, khi
so sánh điểm VAS giữa 2 nhóm ghi nhận rằng
nhóm L với phong bế vùng da đầu có kết quả
thấp hơn so với nhóm chứng P ở tất cả thời điểm
nghiên cứu, sự thấp hơn này có ý nghĩa về mặt
thống kê. Mặt khác, nhu cầu dùng thêm
morphine để duy trì VAS < 4 ở nhóm P là 40%
(12/30) trong khi nhóm L không có trường hợp
nào. Kết quả này chứng tỏ rằng gây tê phong bế
thần kinh vùng da đầu giúp giảm đau sau mổ tốt
hơn so với việc dùng thuốc giảm đau
Paracetamol có hoặc không phối hợp Morphine
đường tĩnh mạch.
Kết quả điểm đau VAS của chúng tôi thấp
hơn ở nhóm nghiên cứu tương tự như kết quả
của tác giả Hélène Batoz và cộng sự nghiên cứu
52 trường hợp mổ cắt bỏ khối u nội sọ, chia làm 2
nhóm, 25 trường hợp được phong bế vùng da
đầu với 20ml ropivacaine 0,75% và 27 trường
hợp nhóm chứng được cho thuốc giảm đau
acetaminophen và nalbuphine sau mổ(2).
Thời gian giảm đau hiệu quả của nhóm L
Thời gian giảm đau sau mổ hiệu quả ở nhóm
L trong nghiên cứu của chúng tôi là 10,9 ± 2,8
giờ, chỉ có 4/30 (13,3%) trường hợp phải phối
hợp thêm Paracetamol, không có bệnh nhân nào
phải dùng thêm morphine, trong khi ở nhóm
chứng ngoài lượng Paracetamol sử dụng theo
phác đồ nghiên cứu có tới 40% (12/30) trường
hợp cần phối hợp thêm morphine để giúp giảm
đau cho người bệnh; thời điểm đạt hiệu quả
giảm đau lớn nhất là lúc bệnh nhân vừa tỉnh với
điểm VAS trung bình 0,07. Kết quả này cũng có
sự tương đồng với nhiều nghiên cứu khác.
Mathew R. Guilfoyle và cộng sự phân tích gộp 7
nghiên cứu với tổng cộng 320 bệnh nhân, cho
thấy có sự giảm chung về nhu cầu đòi hỏi dùng
thêm opioid ở nhóm bệnh nhân được gây tê, thời
điểm đạt hiệu quả giảm đau lớn nhất là tại 1 giờ
sau mổ với điểm đau trung bình là 1,61. Các
nghiên cứu cũng được chia thành nhóm nhỏ với
gây tê vùng da đầu được thực hiện trước khi mổ
và sau mổ ở thời điểm đóng da. Phân tích phân
nhóm cho thấy gây tê được thực hiện sau mổ có
thời gian giảm đau dài hơn so với chích trước
mổ. Tuy nhiên gây tê trước mổ có ý nghĩa trong
việc ổn định huyết động trong mổ và có vai trò
hết sức quan trọng trong phẫu thuật mở sọ có
cho thức tỉnh trong mổ để đánh giá chức năng
thần kinh của bệnh nhân(6).
Tai biến, tác dụng phụ liên quan gây tê
vùng
Trong nghiên cứu của chúng tôi không ghi
nhận bất kỳ tác dụng phụ hoặc tai biến, biến
chứng nào liên quan đến phong bế vùng da đầu
ở nhóm L như tụ máu tại chổ tiêm, nhiễm trùng
hay tổn thương thần kinh. Kết quả này tương tự
như các nghiên cứu khác mặc dù đối tượng
nghiên cứu khác với chúng tôi. Theo nhiều tác
giả khác, tác dụng phụ của phong bế vùng da
đầu là hiếm xảy ra(7). Mathew R. Guilfoyle và
cộng sự ghi nhận trong 170 trường hợp được
phong bế vùng da đầu không có tai biến nào về
nhiễm trùng, tụ máu, yếu liệt thần kinh hay các
biến chứng khác liên quan đến gây tê trong bất
kỳ nghiên cứu nào(6).
Việc lựa chọn thuốc tê cũng đóng vai trò
quan trọng để phong bế vùng da đầu thành công
trong việc đạt được mức tê và giảm đau đủ, vì
thế một thuốc tê tác dụng dài sẽ được ưa thích
hơn, mục đích để kéo dài thời gian giảm đau
nhất là giai đoạn sau mổ. Nồng độ của thuốc tê
thường dùng là 0,5% cho ropivacaine,
levobupivacaine và bupivacaine, trong đó
ropivacaine và levobupivacaine ít độc tính trên
tim mạch hơn nên dần được chọn lựa nhiều hơn.
Một vấn đề cần lưu ý chung khi gây tê vùng là
sử dụng 1 lượng thuốc tê tương đối cao chích ở
nơi có nhiều mạch máu như vùng da đầu thì nên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 3 * 2017 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 77
cẩn thận để tránh nguy cơ ngộ độc thuốc tê,
thường là do tiêm nhầm vào mạch máu. Nhưng
điều này có thể tránh khỏi nếu tuân thủ đúng
qui trình kỹ thuật khi tiêm và cảnh giác với liều
tối đa. Tuy nhiên, dù không ghi nhận trường
hợp ngộ độc nào nhưng chúng tôi khuyến cáo
khi tiến hành gây tê vùng cần phải trang bị đầy
đủ dụng cụ, thuốc men cấp cứu, tủ thuốc trực
nên có sẵn dung dịch lipid 20% để sẵn sàng đối
phó với mọi tình huống.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 60 trường hợp phẫu thuật
ghép khuyết xương sọ tại bệnh viện đa khoa
tỉnh Bình Dương từ tháng 01/2015 đến tháng
12/2015, trong đó 30 trường hợp được phong
bế vùng da đầu, 30 trường hợp sử dụng thuốc
giảm đau đường tĩnh mạch chúng tôi rút ra
một số kết luận:
Phong bế vùng da đầu ở thời điểm cuối cuộc
mổ trên bệnh nhân mổ ghép khuyết xương sọ
cho kết quả giảm đau tốt với thang điểm đau
VAS thấp hơn và lượng thuốc giảm đau phải sử
dụng thêm để duy trì VAS < 5 cũng ít hơn có ý
nghĩa thống kê.
Không có bất kỳ tác dụng phụ hoặc tai biến,
biến chứng nào liên quan đến phong bế vùng da
đầu. Gây tê phong bế thần kinh vùng da đầu
được ghi nhận là an toàn cho người bệnh, ngăn
chặn được kích thích đau và có thể xem là lựa
chọn tốt để duy trì giảm đau sau mổ cho bệnh
nhân phẫu thuật ghép khuyết xương sọ.
Phong bế vùng da đầu là 1 kỹ thuật đơn giản
dễ thực hiện, an toàn, hiệu quả và đáng tin cậy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bala I, Gupta B, Bhardwaj N, et al (2006). Effect of scalp block
on postoperative pain relief in craniotomy patients. Anaesth
Intensive Care, 34: 224-227.
2. Batoz H, Verdonck O, Pellerin C, et al (2009). The analgesic
properties of scalp infiltrations with ropivacaine after
intracranial tumoral resection. Anesth Analg, 109: 240-244.
3. Costello TG, Cormack JR, Mather LE, et al (2005). Plasma
levobupivacaine concentrations following scalp block in
patients undergoing awake craniotomy. British Journal of
Anaesthesia, 94(6): 848-851
4. De Benedittis G, Lorenzetti A, Migliore M, et al (1996).
Postoperative pain in neurosurgery: a pilot study in brain
surgery. Neurosurgery, 38: 466-70
5. Geze S, Yilmaza A, Tuzuner F (2009). The effect of scalp block
and local infiltration on the haemodynamic and stress
response to skull-pin placement for craniotomy. Eur J
Anaesthesiol, 26(4): 298-303
6. Guilfoyle MR, Helmy A, Duane D, Hutchinson PJ (2013).
Regional scalp block for postcraniotomy analgesia: a
systematic review and meta-analysis. Anesth Analg, 116(5):
1093-102
7. Osborn I, Sebeo J (2010). “Scalp Block” during craniotomy: A
classic technique revisited. J Neurosurg Anesthesiol, 22(3): 187-
94
8. Papangelou A, Radzik BR, Smith T, Gottschalk A (2013). A
review of scalp blockade for cranial surgery. J Clin Anesth,
25(2): 150-9
9. Pinosky ML, Fishman RL, Reeves ST, et al (1996). The effect of
bupivacaine skull block on the hemodynamic response to
craniotomy. Anesth Analg, 83(6): 1256-61
Ngày nhận bài báo: 15/02/2017
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/02/2017
Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_giam_dau_sau_mo_cua_phong_be_vung_da_dau_trong_phau.pdf