Hiệu quả giảm đau của lidocaine truyền tĩnh mạch trong phẫu thuật cắt đại tràng nội soi: Kinh nghiệm ban đầu

Tài liệu Hiệu quả giảm đau của lidocaine truyền tĩnh mạch trong phẫu thuật cắt đại tràng nội soi: Kinh nghiệm ban đầu: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 390 HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA LIDOCAINE TRUYỀN TĨNH MẠCH TRONG PHẪU THUẬT CẮT ĐẠI TRÀNG NỘI SOI: KINH NGHIỆM BAN ĐẦU Trần Đỗ Anh Vũ*, Hà Ngọc Chi** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Phục hồi sớm sau phẫu thuật (PT) bao gồm: giảm phản ứng với stress, giảm đau tốt, giảm hoặc không sử dụng nhóm opioid, nuôi ăn và vận động sớm. Lidocaine truyền tĩnh mạch (TM) hiệu quả trong giảm đau, giảm lượng opioid và đặc biệt giúp phục hồi nhu động ruột sớm tương đương với gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) trên các bệnh nhân (BN) PT cắt đại tràng nội soi. Mục tiêu: Xác định hiệu quả giảm đau của lidocaine truyền TM trong PT cắt đại tràng nội soi. Khảo sát các tác dụng phụ của lidocaine truyền TM: buồn nôn và nôn ói, ngứa, ngộ độc thuốc tê. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu thực hiện trên các BN được PT cắt đại tràng nội soi tại bệnh viện Bình Dân. Kết quả:...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 335 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả giảm đau của lidocaine truyền tĩnh mạch trong phẫu thuật cắt đại tràng nội soi: Kinh nghiệm ban đầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 390 HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA LIDOCAINE TRUYỀN TĨNH MẠCH TRONG PHẪU THUẬT CẮT ĐẠI TRÀNG NỘI SOI: KINH NGHIỆM BAN ĐẦU Trần Đỗ Anh Vũ*, Hà Ngọc Chi** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Phục hồi sớm sau phẫu thuật (PT) bao gồm: giảm phản ứng với stress, giảm đau tốt, giảm hoặc không sử dụng nhóm opioid, nuôi ăn và vận động sớm. Lidocaine truyền tĩnh mạch (TM) hiệu quả trong giảm đau, giảm lượng opioid và đặc biệt giúp phục hồi nhu động ruột sớm tương đương với gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) trên các bệnh nhân (BN) PT cắt đại tràng nội soi. Mục tiêu: Xác định hiệu quả giảm đau của lidocaine truyền TM trong PT cắt đại tràng nội soi. Khảo sát các tác dụng phụ của lidocaine truyền TM: buồn nôn và nôn ói, ngứa, ngộ độc thuốc tê. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu thực hiện trên các BN được PT cắt đại tràng nội soi tại bệnh viện Bình Dân. Kết quả: Tỷ lệ BN cần sử dụng thêm morphin giảm đau là 33,3%. Lượng morphin cần sử dụng là 15,7 mg. Đa số các BN trong nghiên cứu có mức đau nhẹ - trung bình (VAS trung bình < 4). Thời gian phục hồi nhu động ruột sau mổ 26 ±10,5 giờ (9-44 giờ). Thời gian nằm viện của các BN trong nghiên cứu là 9 ngày (6–18 ngày). Chúng tôi không ghi nhận các tác dụng phụ nặng hay ngộ độc thuốc tê. Kết luận: Lidocaine truyền TM an toàn và có hiệu quả giảm đau, giảm nhu cầu morphin sử dụng sau mổ, phục hồi nhu động ruột sớm trong PT cắt đại tràng nội soi. ABSTRACT ANALGESIC EFFICACY OF INTRAVENOUS LIDOCAINE INFUSION AFTER LAPAROSCOPIC COLECTOMY: INITIAL EXPERIENCES Tran Do Anh Vu, Ha Ngoc Chi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 2- 2018: 390 - 395 Background: Early postoperative recovery includes to reduce surgical stress, good pain relief, reduce or non- use of opioids, early feeding and mobilization. Intravenous lidocaine infusion is effective in decreasing pain score, opioid consumption and specifically early return of the first bowel movement equivalent to epidural anesthesia after laparoscopic colectomy. Objectives: The study determined the analgesic effect of intravenous lidocaine inusion after laparoscopic colectomy. We surveyed complications of intravenous lidocaine infusion: nausea and vomiting, pruritus, local anesthetic toxicity. Material and Method: Prospective study for all patients scheduled for laparoscopic colectomy at Binh Dan Hospital from July 2017 to November 2017. Results: The rate of patients needed to add more morphin analgesics in postoperative were 33.3%. Mean morphine consumption were 15.7 mg. Pain intensity scores were mild to moderate (mean VAS < 4). Mean time having of the first bowel movement was 26 ± 10.5 hours (9 - 44 hours). The length of stay in the hospital in our study was 9 days (6 - 18 days). We did not notice any serious side effects or local anesthetic toxicity. * Bệnh viện Bình Dân ** Đại học Y dược TP.HCM Tác giả liên lạc: ThS.BS Trần Đỗ Anh Vũ ĐT: 0903181976 Email: trandoanhvu@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 391 Conclusion: Intravenous lidocaine infusion is safe and effective in decreasing pain score and morphine consumption, early returning of the bowel movement in postoperative of laparoscopic colectomy. Keywords: Intravenous lidocaine, analgesia of lidocaine, laparoscopic colectomy. ĐẶT VẤN ĐỀ PT cắt đại tràng nội soi đã được chứng minh có nhiều ưu điểm hơn so với PT mở như: mức độ đau ít, ăn uống lại sớm, phục hồi nhu động ruột sớm hơn, giảm thời gian nằm viện, giảm tỷ lệ tử vong(9). Việc kiểm soát đau sau mổ không tốt có thể dẫn đến hậu quả đau mạn tính. Vì vậy khuynh hướng điều trị đau đa mô thức sau mổ hiện nay được ưa chuộng bởi nhiều BS GMHS gồm: gây tê ngoài màng cứng (GTNMC), BN tự kiểm soát đau, các thuốc đường TM, gây tê tủy sống. Nếu BN có chống chỉ định hay không đủ điều kiện GTNMC thì điều trị đau chủ yếu dựa vào opioid. Nhiều nghiên cứu cho thấy việc sử dụng đơn thuần opioid có thể gây tăng tỷ lệ biến chứng sau mổ như suy hô hấp, an thần, buồn nôn và nôn, liệt ruột, bí tiểu, tăng đau và dị cảm sau mổ, kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị(5). Hiện nay, lidocaine đường TM cũng được dùng để giảm đau sau mổ và có hiệu quả tốt, đặc biệt trong các PT bụng. Truyền TM liên tục lidocaine đã được nhiều tác giả đánh giá là có hiệu quả giảm đau tốt và giúp phục hồi nhu động ruột sớm(10). Lidocine còn giúp giảm nhu cầu thuốc giảm đau, giảm buồn nôn và nôn ói sau mổ, giảm thời gian nằm viện(1). Hơn nữa, lidocaine đường TM dễ sử dụng, giá thành thấp hơn so với GTNMC. Báo cáo hàng loạt trường hợp của Brendan và cộng sự (cs) cho thấy lidocaine truyền TM có tác dụng giảm đau tốt tại khoa cấp cứu, giúp giảm mức đau trung bình xuống khoảng 3 điểm theo thang điểm VAS(3). Nghiên cứu của Wongyingsinn thấy giảm đau sau mổ bằng GTNMC và lidocaine đường TM có thời gian phục hồi nhu động ruột như nhau ở BN PT cắt đại tràng nội soi(14). Và độc tính lidocaine đường TM giảm tối thiểu khi sử dụng liều tiêm mạch 1,5 - 2 mg/kg, sau đó truyền liên tục 1,5 – 3 mg/kg/giờ trong và sau mổ 6 giờ. Kết quả phân tích đa trung tâm của một số nghiên cứu cho thấy việc sử dụng lidocaine qua đường TM trong giai đoạn chu phẫu có tác dụng giảm đau tốt và an toàn sau phẫu thuật bụng(10). Với mục đích nâng cao chất lượng điều trị đau sau mổ và giảm tác dụng phụ của opioid, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đánh giá hiệu quả giảm đau của lidocaine truyền TM trong PT cắt đại tràng nội soi” với 2 mục tiêu: Xác định hiệu quả giảm đau của lidocaine đường TM trong PT cắt đại tràng nội soi. Khảo sát các tác dụng phụ của lidocaine đường TM: buồn nôn và nôn ói, ngứa, ngộ độc thuốc tê. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu tiến cứu. Đối tượng nghiên cứu Các BN cắt đại tràng nội soi tại bệnh viện Bình Dân. Tiêu chuẩn chọn mẫu Các BN cắt đại tràng nội soi chương trình, ASA I – III và đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại mẫu Bệnh nhân < 18 tuổi, phụ nữ có thai hay cho con bú, đau mạn tính, sử dụng opioid trong 7 ngày trước mổ, nghiện rượu, rối loạn tâm lý hay bệnh lý thần kinh trung ương, có bệnh tim mạch (Nhồi máu cơ tim trong vòng 6 tháng, giảm chức năng thất trái (EF) < 40%, rối loạn nhịp tim nặng, bệnh cơ tim phì đại, bệnh cơ tim giãn nở), bệnh lý gan (AST, ALT hay bilirubin máu > 2,5 lần bình thường), suy thận với GFR < 60 ml/phút, dị ứng thuốc (lidocaine, opioid.). Phương pháp tiến hành nghiên cứu Chuẩn bị bệnh nhân Thăm khám tiền mê, đánh giá ASA. Giải thích cho BN về phương pháp giảm đau trong Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 392 và sau mổ, lợi ích và các tác dụng phụ có thể có của lidocaine đường TM. Chuẩn bị dụng cụ Monitor theo dõi huyết áp động mạch không xâm lấn, mạch, SpO2, ECG. Dịch truyền tinh thể, thuốc gây mê, máy gây mê, dây hút, máy hút. Thuốc và các phương tiện hồi sức. Các bước thực hiện Tiến hành gây mê toàn diện qua ống nội khí quản: + Lidocaine 2% liều 1,5 mg/kg tiêm mạch chậm (TMC) trong 10 phút ngay trước khi khởi mê. + Thuốc gây mê: Midazolam 1 – 2 mg TM, sufentanil liều 0,2 – 0,3 µg/kg, propofol liều 1,5 – 2,5 mg/kg, thuốc dãn cơ rocuronium 0,6 mg/kg. Duy trì mê: sevoflurane, truyền TM lidocaine liều 2 mg/kg/giờ trong mổ. Thêm sufentanil 0,1 – 0,2 µg/kg khi mạch, huyết áp tăng > 20% so với mạch, huyết áp cơ bản của BN trước PT. Sau mổ + Giảm đau nền paracetamol 1g mỗi 6 giờ. + Truyền TM lidocaine liều 1 mg/kg/giờ trong 24 giờ. + Ghi nhận điểm đau VAS, mạch, huyết áp, SpO2: 1 giờ, 2 giờ, 4 giờ, 8 giờ, 12 giờ và 24 giờ sau mổ. + Thêm thuốc giảm đau toàn thân nếu VAS ≥ 4: Nefopam 20mg truyền TM trong 30 phút Morphine 2 mg tiêm mạch mỗi 10 phút đến khi VAS < 4. + Tính tổng liều thuốc giảm đau toàn thân trong và sau mổ. Ghi nhận tất cả các dữ liệu vào phiếu thu thập số liệu. KẾT QUẢ Từ tháng 07/2017 đến tháng 11/2017 tại bệnh viện Bình Dân, tổng số BN thu thập được là 21 trường hợp PT cắt đại tràng nội soi chương trình. Tuổi trung bình của các BN trong nghiên cứu là 58,2 ± 14,4 tuổi. Trong đó, bệnh nhân nhỏ nhất là 30 tuổi, lớn nhất là 85 tuổi. Bảng 1: Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Số BN (n) Tỷ lệ (%) Giới: Nam Nữ 14 7 66,7 33,3 BMI (kg/m 2 ): < 18,5 18,5–24,9 25–29,9 2 16 3 9,5 76,2 14,3 Phân độ ASA:ASA I ASA II ASA III 12 8 1 57,1 38,1 4,8 Đa số BN trong nghiên cứu của chúng tôi không có bệnh lý đi kèm, chiếm tỷ lệ 57,1%. Bệnh lý đi kèm thường gặp nhất là tăng huyết áp chiếm tỷ lệ 28,6%. Các bệnh lý đi kèm khác là đái tháo đường, viêm dạ dày, lao phổi cũ với tỷ lệ 14,4%. Thời gian PT trung bình của các đối tượng nghiên cứu là 180 (100 - 360) phút. Thời gian PT trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi ngắn hơn của tác giả Elhafz (247 ± 87), dài hơn so với các nghiên cứu của Kaba (169 ± 47) (2,7). Chúng tôi không tìm thấy sự liên quan giữa thời gian PT và thời gian phục hồi nhu động ruột, thời gian nằm viện. Lượng lidocaine trung bình sử dụng trong nghiên cứu là: 866,5 ± 349,9 mg, ít nhất là 302 mg, nhiều nhất là 1440 mg. Thời gian truyền lidocaine TM trung bình là 10,1 ± 5,4 giờ, ngắn nhất là 4 giờ, dài nhất 24 giờ. Thời gian truyền lidocaine TM sau mổ trong nghiên cứu của chúng tôi chưa hoàn toàn đồng nhất. Do lần đầu tiên chúng tôi tiến hành nghiên cứu truyền lidocaine đường TM liên tục trong và sau mổ để giảm đau và chưa có điều kiện đo nồng độ lidocaine trong máu nên chúng tôi vẫn còn lo ngại nguy cơ ngộ độc thuốc tê. Sau 1 thời gian nghiên cứu, chúng tôi đã tự tin truyền lidocaine đường TM liên tục trong vòng 24 giờ sau mổ. Nghiên cứu của Herroeder truyền lidocaine liều bolus 1,5 mg/kg, sau đó truyền 2 mg/phút đến 4 giờ sau mổ. Nồng độ lidocaine trong máu trung bình là 1,1 – 4,2 µg/ml, tác giả ghi nhận có Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 393 1 BN đạt nồng độ đỉnh đến 5,8 µg/ml(4). Nghiên cứu của Elhafz truyền lidocaine TM 2 mg/phút (BN > 70 kg) hoặc 1 mg/kg (BN < 70 kg) đến khi BN có nhu động ruột hoặc đến ngày thứ 5 sau mổ. Nồng độ lidocaine trong máu khoảng 1,04 – 3,7 µg/ml(2). Cả 2 nghiên cứu đều không ghi nhận xảy ra các tác dụng phụ như rối loạn nhịp tim hay các triệu chứng thần kinh. Hạn chế trong nghiên cứu của chúng tôi là không định lượng nồng độ lidocaine trong máu. Lidocaine truyền TM liên tục có thể dẫn đến sự tích tụ thuốc theo thời gian. Nhưng kết quả từ các nghiên cứu cho thấy nồng độ thuốc vẫn thấp hơn ngưỡng ngộ độc dù truyền kéo dài 24 giờ hay nhiều ngày(2,4). Bảng 2: Lượng opioid sử dụng trong phẫu thuật Tác giả Nhóm sử dụng lidocaine Nhóm chứng (µg) Sufentanil trong mổ (µg) Fentanyl trong mổ (µg) Chúng tôi 20,7 ± 0,7 Elhafz và cs (2) 234±78 278±54 Kaba và cs (7) 13.0 ± 3.7 16,3 ± 3,6 Wongyingsinn và cs (14) 235 Lượng opioid sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương với các tác giả khác trên thế giới. Lượng sufentanil trong mổ của chúng tôi cao so với nghiên cứu của Kaba, ở cả nhóm sử dụng lidocaine để giảm đau và nhóm chứng (16,3 ± 3,6 µg)(7). Có thể do thời gian PT của chúng tôi dài hơn và liều lidocaine TM sử dụng trong PT thấp hơn. Nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 1 nhóm BN, nên không thể thấy rõ được tác dụng giảm liều sufentanil sử dụng trong PT. So về dược lực học thì fentanyl chỉ bằng khoảng 1/10 sufentanil, nên so với nhóm chứng trong nghiên cứu Elhafz thì lượng opioid trong PT của chúng tôi thấp hơn(2). Số BN cần thêm morphin để giảm đau sau mổ là 7/21 (33,3%). Lượng morphin cần sử dụng trung bình là 15,7 mg. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số BN cần sử dụng thêm morphin giảm đau trong vòng 2 giờ là 4/7 (19%), 4 giờ là 2/7 (9,5%), 8 giờ 1/7 (4,8%). Lượng morphin trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với của tác giả Elhafz (20±4.65 mg) và Wongyingsinn (25,5 mg)(2,10). Bảng 3: Mức độ đau ở các thời điểm trong nghiên cứu chúng tôi VAS 1 giờ 2 giờ 4 giờ 8 giờ 12 giờ 24 giờ 48 giờ 1-3 17 (70,9) 9 (41,8) 17 (70,9) 18 (85,7) 18 (85,7) 20 (95,2) 21 (100) 4-6 4 (19,1) 12 (57,2) 4 (19,1) 3 (14,3) 3 (14,3) 1 (4,8) 0 7-10 0 0 0 0 0 0 Trung bình 3,2±0,6 3,5±0,7 3,2±0,7 3±0,7 2,9±0,7 2,4±0,6 2,2±0,4 Đa số các BN trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có mức đau nhẹ đến trung bình. Mức độ đau có khuynh hướng giảm dần theo thời gian. Thời điểm 2 giờ sau mổ mức độ đau và số BN đau nhiều tăng lên, có thể đây là thời điểm mà tác dụng của các thuốc sử dụng trong PT đã hết, BN tỉnh táo hoàn toàn, ho và cử động. Số lượng BN cần thêm morphin giảm đau nhiều nhất ở giai đoạn này. Bảng 4: So sánh mức độ đau ở các thời điểm với các nghiên cứu khác VAS 1 giờ 2 giờ 4 giờ 8 giờ 12 giờ 24 giờ 48 giờ Chúng tôi 3,2 3,5 3,2 3 2,9 2,4 2,2 Tikuisis và cs (12) 3 5,2 2,5 2,8 2,6 Kaba và cs (77) ≤ 2 ≤ 2 ≤ 2 ≤ 2 ≤ 2 Elhafz và cs (2) 3.6 3.1 2,9 2,7 1,9 Mức độ đau trung bình trong nghiên cứu chúng tôi không khác biệt nhiều so với nghiên cứu của Tikuisis và Elhafz. Mức độ đau trung bình trong nghiên cứu của Kaba và cs thấp hơn nhiều so với các nghiên cứu khác. Sự khác biệt này có thể do liều lidocaine TM của Kaba cao hơn (trong mổ 2 mg/kg/giờ, sau mổ 1,33 mg/kg/giờ) so với chúng tôi và giảm đau nền nhiều hơn (paracetamol và ketorolac). Lidocaine đường TM có tác động giảm đau cả ngoại biên lẫn trung ương, hiệu quả tốt khi truyền trước khi chấn thương xảy ra. Ngoài ra, lidocaine đường TM còn có tác dụng chống tăng đau và dị cảm sau mổ, đây là tác dụng phụ không mong muốn khi sử dụng opioid TM(1,5,10). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 394 Tác dụng giảm đau của lidocaine đường TM vẫn hiện diện ngay cả khi BN có sử dụng paracetamol và giảm đau nhóm không steroid, giúp giảm lượng opioid cần dùng và giảm mức đau khi ho, vận động. Các phân tích gộp về lidocaine đường TM trong các PT bụng đều ghi nhận có tác dụng giảm đau, giảm nhu cầu opioid sử dụng trong mổ(10). Bảng 5: Thời gian phục hồi nhu động ruột Tác giả Nhóm lidocaine (giờ) Nhóm chứng (giờ) Chúng tôi 26±10,5 Elhafz và cs (2) 22.8±9.26 32.7±11.9 Kaba và cs (7) 17 (11–24) 28 (25–33) Tikuisis và cs (12) 26.97 ± 2.30 32.93 ± 2.86 BN có thời gian phục hồi nhu động ruột ngắn nhất là 9 giờ và dài nhất là 44 giờ. Thời gian phục hồi nhu động ruột trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương với một số nghiên cứu và cao hơn so với của tác giả Kaba (17 giờ). Có thể do liều lidocaine truyền TM trong nghiên cứu của Kaba cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. So sánh với nhóm chứng trong nghiên cứu của Elhafz và Tikuisis thì thời gian phục hồi nhu động ruột của chúng tôi vẫn thấp hơn. Và so với y văn về PT cắt đại tràng tại Việt Nam thì thời gian phục hồi nhu động ruột trong nghiên cứu của chúng tôi vẫn ngắn hơn (26±10,5 giờ so với 63,6 giờ)(11). Mức độ đau và liệt ruột sau mổ có liên quan đến nhau, do tác động của nhiều yếu tố như tổn thương mô do phẫu thuật, các hóa chất trung gian gây viêm, sự kích thích hoạt động giao cảm hay điều trị đau bằng opioid đường toàn thân(9). Nghiên cứu của Elhafz cho thấy nồng độ các hóa chất trung gian gây viêm đã giảm có ý nghĩa ở nhóm sử dụng lidocaine đường tĩnh mạch so với nhóm chứng và nhóm sử dụng lidocaine dán vết mổ(2,7). Các phác đồ phục hồi sớm sau mổ bao gồm: giảm phản ứng với stress sau phẫu thuật, giảm đau tốt, nuôi ăn và vận động sớm. Việc sử dụng thuốc giảm đau không thuộc nhóm opioid kiểm soát đau tạng sau phẫu thuật nội soi giúp hồi phục tốt hơn. Và lidocaine truyền tĩnh mạch có thể tác động đến đa số các yếu tố tác động đến mức độ đau, liệt ruột. Một nghiên cứu cho thấy chỉ sử dụng lidocaine trong mổ có thời gian phục hồi nhu động ruột, tiêu phân và nằm viện dài hơn so với việc sử dụng lidocaine kéo dài đến giai đoạn sau mổ(6,8). Chúng tôi không tìm được sự tương quan giữa thời gian truyền lidocaine và thời gian phục hồi nhu động ruột, có thể do số mẫu BN trong nghiên cứu còn nhỏ. Thời gian nằm viện: Trung vị thời gian nằm viện trong nghiên cứu của chúng tôi là 9 ngày (6 – 18 ngày). Thời gian nằm viện trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với các nghiên cứu khác. So với một nghiên cứu khác về PT nội soi cắt đại tràng không sử dụng lidocaine truyền tĩnh mạch chu phẫu tại bệnh viện Bình Dân thì thời gian nằm viện của chúng tôi ngắn hơn (9 so với 12,4 ngày)(13). Chúng tôi có ba BN có thời gian nằm viện dài kéo dài: 01 BN bị nhiễm trùng vết mổ phải nằm viện 18 ngày, 01 BN nằm viện đến 16 ngày do rối loạn điện giải (hạ kali máu), 02 BN này cần sử dụng thêm morphin sau mổ, thời gian phục hồi nhu động ruột từ 30 đến 40 giờ, dài hơn so với thời gian phục hồi nhu động ruột trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi (26 giờ); 01 BN bị tắc ruột do dính thời điểm hậu phẫu ngày thứ 5, cần PT lần 2 để gỡ dính, thời gian nằm viện 18 ngày, BN này không cần sử dụng thêm morphin sau mổ (VAS trong 48 giờ chỉ 2-3) và thời gian phục hồi nhu động ruột khá sớm 17 giờ. Cả 3 BN trên đều không ghi nhận các tai biến, biến chứng liên quan đến lidocaine. Trong thời gian tiến hành nghiên cứu, chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào bị ngộ độc, hay tác dụng phụ nặng liên quan đến lidocaine. Do số BN trong nghiên cứu còn nhỏ nên không thể đánh giá được tính an toàn tuyệt đối của lidocaine, cần một nghiên cứu có cỡ mẫu lớn hơn để xác định nguy cơ ngộ độc khi truyền lidocaine đường TM kéo dài sau mổ. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 395 KẾT LUẬN Bước đầu nghiên cứu chúng tôi nhận thấy lidocaine truyền TM trong và sau PT cắt đại tràng nội soi có hiệu quả giảm đau tốt, giảm nhu cầu tiêu thụ morphine, hồi phục nhu động ruột sớm hơn sau mổ, tương đối an toàn, dễ sử dụng và ít có tác dụng phụ nặng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. De Oliveira GS, Fitzgerald P, Streicher LF, et al (2012). Systemic lidocaine to improve postoperative quality of recovery after ambulatory laparoscopic surgery, Anesth Analg, 115(2). pp.262 - 267. 2. Elhafz AAA, Elgebaly AS (2012). Is lidocaine patch as effective as intravenous lidocaine in pain and illus reduction after laparoscopic colorectal surgery? A randomized clinical trial, Anesthesia: Essays and Researches; 6(2); pp.140-146. 3. Fitzpatrick BM, Mullins ME (2016). Intravenous lidocaine for the treatment of acute pain in the emergency department, Clin Exp Emerg Med, 3(2). pp.105-108. 4. Herroeder S, Pecher S, Schonherr ME, (2007). Systemic lidocaine shortens length of hospital stay after colorectal surgery: A double-blinded, randomized, placebo- controlled trial, Ann Surg, 246, pp.192-200. 5. Junger A, Klasen J, Benson M, et al (2001). Factors determining length of stay of surgical day-case patients, Eur J Anaesthesiol, 18, pp.314 - 321. 6. Kaba A, Detroz BJ, Laurent SR, et al (2005). Acute rehabilitation program after laparoscopic colectomy using intravenous lidocaine, Acta Chir Belg, 105, pp.53–8 7. Kaba A, Laurent SR, Detroz BJ (2007). Intravenous Lidocaine Infusion Facilitates Acute Rehabilitation after Laparoscopic Colectomy, Anesthesiology, 106, pp.11–8. 8. Koppert W, Weigand M, Neumann F, et al, (2004). Perioperative intravenous lidocaine has preventive effects on postoperative pain and morphine consumption after major abdominal surgery. Anesth Analg, 98, pp.1050–5. 9. Kuhry E, Schwenk W, Gaupset R, et al, (2008). Long-term outcome of laparoscopic surgery for colorectal cancer: a cochrane systematic review of randomised controlled trials. Cancer Treat Rev, 34, pp.498–504. 10. Marret E, Rolin M, Beaussier M,Bonnet F (2008). Meta-analysis of intravenous lidocaine and postoperative recovery after abdominal surgery, Br J Surg, 95(11). pp.1331 - 1338. 11. Nguyễn Hữu Thịnh, Trần Xuân Hùng, Nguyễn Hoàng Bắc (2015). Kĩ thuật cắt toàn bộ mạc treo đại tràng trong phẫu thuật nội soi cắt đại tràng, Y Học TP. Hồ Chí Minh, (19)1, tr.166 -170. 12. Tikuisis R, Miliauskas P, Samalavicius NE, et al (2014). Intravenous lidocaine for post-operative pain relief after hand- assisted laparoscopic colon surgery: a randomized, placebo- controlled clinical trial, Tech Coloproctol, 18(4):373–380. 13. Văn Tần, Trần Vĩnh Hưng, Dương Thanh Hải, (2014). Nội soi so với mổ mở trong ung thư đại tràng, Y Học TP.Hồ Chí Minh, (18)1, tr.49-51. 14. Wongyingsinn M, Baldini G, Charlebois P, et al, (2011). Intravenous Lidocaine Versus Thoracic Epidural Analgesia: A Randomized Controlled Trial in Patients Undergoing Laparoscopic Colorectal Surgery Using an Enhanced Recovery Program, Regional Anesthesia and Pain Medicine 36(3). pp.241 - 248. Ngày nhận bài báo: 13/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_giam_dau_cua_lidocaine_truyen_tinh_mach_trong_phau.pdf
Tài liệu liên quan