Tài liệu Hiệu quả của methotrexate trong điều trị nội khoa ngoài tử cung tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2015: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 44
HIỆU QUẢ CỦA METHOTREXATE TRONG ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA
NGOÀI TỬ CUNG TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG NĂM 2015
Hoàng Thị Thu Huyền*, Tạ Thị Thanh Thủy **
TÓM TẮT
Mở đầu: Điều trị bảo tồn thai ngoài tử cung chưa vỡ với Methotrexate đã được ứng dụng tại bệnh
viện Hùng Vương từ 2002, với số ca tăng dần theo kinh nghiệm điều trị. Hiện nay trung bình có khoảng
một nửa số thai ngoài tử cung chưa vỡ được điều trị bằng thuốc nhưng chưa có nghiên cứu đánh giá hiệu
quả của điều trị này.
Mục tiêu: Xác định hiệu quả của Methotrexate đơn liều trong điều trị nội khoa thai ngoài tử cung chưa vỡ
tại bệnh viện Hùng Vương trong năm 2015.
Phương pháp: 142 bệnh nhân thai ngoài tử cung chưa vỡ được tiêm MTX đơn liều 50mg tiêm bắp mỗi lần.
Các bệnh nhân được lựa chọn có nồng độ βhCG ≤ 5000UI/l và kích thước khối thai ≤ 3,5 cm đo trên siêu âm.
MTX được lập lại vào ngày 7 nếu β-hCG ...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của methotrexate trong điều trị nội khoa ngoài tử cung tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 44
HIỆU QUẢ CỦA METHOTREXATE TRONG ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA
NGOÀI TỬ CUNG TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG NĂM 2015
Hoàng Thị Thu Huyền*, Tạ Thị Thanh Thủy **
TÓM TẮT
Mở đầu: Điều trị bảo tồn thai ngoài tử cung chưa vỡ với Methotrexate đã được ứng dụng tại bệnh
viện Hùng Vương từ 2002, với số ca tăng dần theo kinh nghiệm điều trị. Hiện nay trung bình có khoảng
một nửa số thai ngoài tử cung chưa vỡ được điều trị bằng thuốc nhưng chưa có nghiên cứu đánh giá hiệu
quả của điều trị này.
Mục tiêu: Xác định hiệu quả của Methotrexate đơn liều trong điều trị nội khoa thai ngoài tử cung chưa vỡ
tại bệnh viện Hùng Vương trong năm 2015.
Phương pháp: 142 bệnh nhân thai ngoài tử cung chưa vỡ được tiêm MTX đơn liều 50mg tiêm bắp mỗi lần.
Các bệnh nhân được lựa chọn có nồng độ βhCG ≤ 5000UI/l và kích thước khối thai ≤ 3,5 cm đo trên siêu âm.
MTX được lập lại vào ngày 7 nếu β-hCG giảm ít hơn 25% so với βhCG ngày điều trị (ngày 1). Tổng liều MTX
được sử dụng tối đa là 3 liều. Bệnh nhân được theo dõi mỗi tuần đến khi βhCG âm tính. Điều trị thất bại khi bệnh
nhân phải can thiệp phẫu thuật trong thời gian điều trị.
Kết quả: Tỉ lệ thành công sau điều trị MTX là 91,6%. Có 68,3% trường hợp chỉ cần tiêm 1 liều MTX;
30,3% tiêm 2 liều và 1,4% còn lại cần tiêm đến 3 liều.
Kết luận: Các biến chứng liên quan đến điều trị đều nhẹ và không cần điều trị.
Từ khóa: Methotrexate, thai ngoài tử cung
ABSTRACT
METHOTREXATE IN CONSERVATIVE TREATMENT OF UNRUPTURED ECTOPIC PREGNANCY
AT HUNG VUONG HOSPITAL IN 2015
Hoang Thi Thu Huyen, Ta Thi Thanh Thuy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 1 - 2017: 44 - 48
Background: Conservative treatment of unruptured ectopic pregnancy has been performed since 2002, with
the number of cases gradually increasing. Nowadays, approximately there are more than a half of ectopic
pregnancy cases being treated medically, but no any study about its effectiveness being done.
Objective: To determine effectiveness of Methotrexate (MTX) in conservative treatment of unruptured
ectopic pregnancy in Hung Vuong hospital in 2015.
Methods: 142 patients were enrolled and treated with a single dose MTX, 50mg intramuscularly.
Participants had serum βhCG level < 5000 UI/L and gestational mass diameter < 3.5cm by ultrasound
measuring. Another dose of MTX was repeated on day 7 if β- hCG level decreased less than 25% compared
with that on the day of treatment (day 1). Total doses of MTX would not exceed 3. All participants were
followed up weekly until βhCG level undetectable. Treatment was unsuccessful when ever patient has
suffered surgery during treating period.
Results: successful rate was 91.6%, with 68.5% cases received only one dose of MTX; 30.3% two doses of
* Khoa Phụ Ngoại BV Hùng Vương ** BV Mekong
Tác giả liên lạc: BSCK2 Hoàng Thị Thu Huyền ĐT: 0913859340 Email: bshuyenhv@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 45
MTX, and 1.4% three doses of MTX.
Conclusion: The side effect is rare, transient, and did not need any intervention.
Key words: Methotrexate, ectopic pregnancy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thai ngoài tử cung là loại bệnh lý phụ khoa
thường gặp với tỉ lệ khoảng 2% thai kỳ, là
nguyên nhân chủ yếu gây bệnh suất và tử suất
trong tam cá nguyệt đầu tiên(4,10).
Hiện nay các phác đồ khuyến cáo điều trị nội
khoa đều ủng hộ phác đồ đơn liều vì dễ thực
hiện và dễ theo dõi. Theo phác đồ của NICE(12),
thai ngoài tử cung có chỉ định điều trị nội khoa
sẽ được điều trị bằng MTX đơn liều ngoại trú
không phải nhập viện. Tại bệnh viện Hùng
Vương, một trong hai trung tâm điều trị sản phụ
khoa lớn của thành phố, đã có những nghiên
cứu đầu tiên về điều trị nội khoa thai ngoài tử
cung bằng MTX của tác giả Tạ Thị Thanh
Thủy(16). Hiện nay, tại bệnh viện Hùng Vương
đang sử dụng phác đồ MTX đơn liều với xét
nghiệm βhCG ngày 1-ngày 7 có ngưỡng βhCG
giảm 25% và bệnh nhân được theo dõi nội trú. Vì
chưa có thống kê kết quả về vấn đề này tại bệnh
viện nên chúng tôi thực hiện đề tài “Hiệu quả
của Methotrexate trong điều trị nội khoa thai
ngoài tử cung tại bệnh viện Hùng Vương ” với
mục tiêu nghiên cứu chính là xác định tỷ lệ
thành công của MTX đơn liều (theo phác đồ theo
dõi βhCG ngày 1 - ngày 7) trong điều trị nội
khoa thai ngoài tử cung tại bệnh viện Hùng
Vương, đồng thời xác định các tác dụng không
mong muốn cũng như tai biến liên quan đến
điều trị.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện theo thiết kế
mô tả loạt ca dọc tiến cứu. Đối tượng là những
bệnh nhân thai ngoài tử cung chưa vỡ, có chỉ
định điều trị nội khoa tại bệnh viện Hùng
Vương trong thời gian nghiên cứu (từ tháng
9/2015 đến tháng 4/2016) và thỏa tiêu chí nhận
bệnh. Toàn bộ những trường hợp thai ngoài
TC có lượng βhCG ban đầu < 5000mUI/mL,
kích thước khối thai < 3,5 cm đo trên siêu âm
và không có hoạt động tim thai – được chọn
vào nghiên cứu nếu bệnh nhân đồng ý và
không có chống chỉ định điều trị. Cỡ mẫu
được tính toán dựa vào ước tính giả định tỷ lệ
thành công là 90%, mức độ sai lầm loại I 0,05
và độ chính xác so với thực tế d = 0,05 thì số ca
cần thiết tối thiểu là 138. Những bệnh nhân
được điều trị nội khoa sẽ tuân thủ theo phác
đồ đang lưu hành tại bệnh viện (bảng 1).
Bảng 1 Phác đồ điều trị nội khoa TNTC của bệnh viện Hùng Vương
Ngày điều trị Xét nghiệm Chỉ định
Trước điều trị CTM, SGOT,SGPT, Ure, Creatinin, GS, Rh Tiêm Anti D nếu Rh âm
MTX 50 mg tiêm bắp
1 ΒhCG Lập lại MTX 50 mg tiêm bắp mỗi tuần nếu βhCG giảm
< 25%, tối đa 3 liều MTX.
Nếu βhCG giảm > 25% tái khám mỗi tuần tại khoa
đến khi βhCG < 5mUI/mL
7 ΒhCG,CTM,SGOT,SGPT, Ure, Creatinin
Tất cả bệnh nhân được theo dõi nội trú, thăm
khám mỗi ngày theo dõi sát sinh hiệu, cơn đau
bụng, các triệu chứng bất thường khác nếu có.
Điều trị được coi là thành công khi định lượng
βhCG huyết thanh < 5 mUI/mL, và bệnh nhân
không phải can thiệp phẫu thuật. Điều trị được
coi là thất bại khi bệnh nhân phải phẫu thuật vì
chỉ định y khoa hoặc sau tiêm MTX liều 3 một
tuần mà βhCG không giảm 25% so với nồng độ
βhCG liền trước đó. Số liệu được quản lý chặt
chẽ, mã hóa để phân tích và bảo mật kỹ lưỡng.
Thống kê mô tả và phân tích dữ liệu bằng
phương pháp hồi qui logistic đa biến số.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 46
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Trong thời gian nghiên cứu, có tất cả 142
trường hợp được nhận vào theo dõi với độ tuổi
trung bình là 29, thấp nhất 19 và cao nhất là 42 -
đa số các trường hợp trong độ tuổi dưới 40
(96,5%). Điều này phù hợp vì đây là lứa tuổi sinh
đẻ của phụ nữ. Đối tượng tham gia nghiên cứu
có cân nặng > 50kg chiếm 57%. Theo phác đồ của
đa số các tác giả thì liều lượng MTX được tính
theo cân nặng(9,11), tuy nhiên phác đồ của bệnh
viện Hùng Vương từ trước đến nay vẫn sử dụng
một liều lượng 50 mg cho tất cả các nhóm cân
nặng. Tỉ lệ bệnh nhân chưa đủ con hoặc chỉ mới
có 1 con chiếm đa số (83,2%). Những người chưa
đủ con thì mong muốn điều trị nội khoa để bảo
tồn vòi tử cung, tuy nhiên các bệnh nhân dù đã
đủ con vẫn muốn chọn điều trị nội khoa hơn là
phẫu thuật do tránh được một cuộc mổ với các
nguy cơ về gây mê, tai biến phẫu thuật hoặc điều
trị nội khoa thành công thì xét về mặt thẩm mỹ
sẽ hơn hẳn phẫu thuật. Có 12,0% đối tượng
nghiên cứu đã từng bị thai ngoài tử cung, và
23,9% đã từng ít nhất có 1 lần nạo phá thai. Tuổi
thai trung bình 6,3 tuần với tỷ lệ thai < 6 tuần và
≥ 6 tuần tương đương nhau (52,8 và 48,2%). Đây
là những đặc điểm khá thuận lợi cho việc điều trị
nội khoa thai ngoài tử cung.
Khối thai trước điều trị có kích thước trung
bình 21,5 mm (10 – 35 mm). Nồng độ βhCG
trung bình trước nghiên cứu này là 916,4
mUI/mL với đa số bệnh nhân có nồng độ βhCG
< 1000mUI/mL, chiếm tỉ lệ 66,9%.
Tỷ lệ thành công trong điều trị nội khoa là
91,6% (KTC=0,87-0,96). Khi so sánh với các tác
giả khác có cùng phác đồ theo dõi βhCG N1-
N7 thì tỉ lệ này tương đương với Tạ Thị Thanh
Thủy, Trần Chiến Thắng, Parichehr(13,16,17), thấp
hơn Alshimmiri(1) và cao hơn khi so với
Shaamash, Sendy(14,15). Tỉ lệ thành công khác
nhau do tiêu chuẩn chọn mẫu khác nhau và
định nghĩa thành công cũng khác nhau. Theo
Sendy và Shaamash điều trị thai ngoài tử cung
bằng MTX đơn liều được gọi là thành công khi
bệnh nhân chỉ cần tiêm một liều MTX, nếu
tiêm đến liều thứ 2 thì được xem là thất
bại(14,15). Trong khi nghiên cứu này, cũng giống
phần lớn các nghiên cứu khác, định nghĩa
thành công là bệnh nhân được điều trị hoàn
toàn bằng nội khoa, có thể phải tiêm 2 đến 3
liều MTX mà không phải phẫu thuật.
Tổng số liều MTX sử dụng để điều trị được
mô tả chi tiết ở bảng 2.
Bảng 2. Số liều MTX
Số liều MTX Tần số Tỉ lệ (%)
1 liều
2 liều
3 liều
97
43
2
68,3
30,3
1,4
Trong nghiên cứu này, sau điều trị MTX 1
liều, βhCG sẽ được thử lại vào N7 theo phác đồ
của bệnh viện Hùng Vương. Nếu βhCG N7
không giảm > 25% so với N1, bệnh nhân sẽ được
tiêm MTX liều 2 với cùng liều thuốc là 50mg và
cách tính tương tự như thế với MTX liều 3. Có
68,3% bệnh nhân được tiêm MTX 1 liều, tỉ lệ
bệnh nhân phải tiêm liều 2 là 30,3% và chỉ có
1,4% tiêm liều 3. Khi so sánh với các nghiên cứu
trên có cùng phác đồ theo dõi N1-N7 thì tỉ lệ
bệnh nhân của chúng tôi phải tiêm MTX liều 2
cao hơn do chúng tôi lấy ngưỡng βhCG giữa N1-
N7 là 25%. Tỉ lệ thành công sau tiêm 1 liều MTX
của chúng tôi thì tương tự như của các nghiên
cứu nêu trên nhưng thấp hơn nhiều so với
nghiên cứu của Alshimmiri với ngưỡng giảm
βhCG N1-N7 gần tương đương với nghiên cứu
của chúng tôi. Liều MTX trong nghiên cứu của
Alshimmiri được tính theo công thức 50mg/m2
da, còn liều MTX của chúng tôi lấy liều 50 mg
cho tất cả bệnh nhân không tính theo cân nặng
hay diện tích da(1). Tuy xét về mối liên quan giữa
cân nặng và số liều MTX không cho thấy sự khác
biệt, có thể do mẫu của chúng tôi không đủ lớn
để chứng minh sự khác biệt, nhưng chúng tôi
cho rằng liều lượng MTX có thể ảnh hưởng đến
kết quả điều trị. Cân nặng trung bình trong
nghiên cứu là 52kg, chiều cao trung bình 1.53,
diện tích da trung bình 1.49. Như vậy, liều MTX
cho mỗi lần điều trị khoảng 75 mg. Vương Tiến
Hòa và cs. cũng thấy rằng liều thuốc MTX thấp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 47
50mg cho tất cả bệnh nhân cho tỉ lệ thành công
thấp hơn với các tác giả khác(18).
Nghiên cứu chưa cho thấy mối liên quan
giữa nồng độ βhCG ban đầu và hiệu quả điều
trị. Theo tổng quan Cochrane, điều trị MTX có tỉ
lệ thành công cao khi βhCG dưới 3000mUI/mL,
tỉ lệ thành công cao nhất là 98% khi βhCG
<1000mUI/mL(3,7). Chỉ có βhCG ngày 1 là yếu tố
tiên đoán duy nhất cho nhu cầu điều trị MTX
liều 2 và sự thành công của điều trị. Giá trị
ngưỡng cho kết quả điều trị tốt nhất là
2.234 mUI/mL(6).
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có mối
liên quan giữa kích thước khối thai và tỷ lệ điều
trị thành công. Khối thai càng lớn thì hiệu quả
điều trị càng giảm (p=0,01) tương tự các nghiên
cứu khác. Tuy nhiên, điều này chỉ có ý nghĩa với
nhóm có kích thước > 30mm, với nhóm có kích
thước từ 20-30 mm thì chưa tìm được sự khác
biệt có thể do cỡ mẫu không đủ lớn. Theo Lê
Thụy Quế Lâm nhóm thất bại điều trị có kích
thước khối thai lớn hơn nhóm thành công, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê(9). Theo Vương
Tiến Hòa, Nguyễn Thị Bích Thủy thì kích thước
khối thai càng nhỏ, tỷ lệ thành công càng cao.
Khối thai <1,5cm thành công 94,6%, khối thai từ
1,5 - < 2,5 cm thành công 89,4% và từ 2,5 đến ≤
3,5cm thành công 72,7%(18). Theo Krissi và cs, các
bệnh nhân thai ngoài tử cung có βhCG ban đầu
tương đối thấp thì yếu tố tiên đoán quan trọng
nhất cho thất bại khi điều trị MTX là kích thước
khối thai và sự hiện diện của túi noãn hoàng
trong khối thai. Kích thước khối thai càng lớn thì
khả năng thất bại càng cao(8).
Những ca thất bại
Trong 12 trường hợp mổ cấp cứu thì chỉ có 1
ca bị vỡ thật sự (0,7%), 11 ca còn lại chỉ là khối
thai ngoài tử cung rỉ máu qua loa vòi tử cung
(7,7%). Sau mổ, có 1 ca bị vỡ máu mất 700ml, 2 ca
có máu mất 300ml, còn lại 9 ca có máu mất ít chỉ
từ 100-200ml. Như vậy, chỉ định mổ có phải là
quá rộng khi chỉ có 3 ca mất máu nhiều trong đó
có 1 ca vỡ thật sự. Theo chúng tôi, các trường
hợp thai ngoài tử cung đang điều trị mà bị đau
bụng hoặc kích thước khối thai tăng lên do tạo
khối máu tụ nên cân nhắc tiếp tục theo dõi điều
trị nội khoa hơn là có chỉ định mổ.
Thời điểm phẫu thuật trong nghiên cứu này
đa số là từ 2-8 ngày sau tiêm MTX, phù hợp với
nghiên cứu của tác giả Tạ Thị Thanh Thủy đa số
các trường hợp thất bại đều xảy ra trong vòng 7
ngày đầu sau tiêm thuốc(16). Tỉ lệ vỡ thai ngoài tử
cung trong tuần đầu tiên sau điều trị rất thấp
(1/142 ca), như vậy có nên xem xét phương án
điều trị ngoại trú sau tiêm MTX, đặc biệt là các
trường hợp tiêm MTX liều 2 hoặc 3.
Đánh giá tác dụng ngoại ý của
Methotrexate
Tác dụng ngoại ý sau điều trị MTX thường
gặp nhưng hầu hết là nhẹ và thoáng qua, đáp
ứng tốt với thuốc điều trị triệu chứng, xuất
hiện khoảng 1-3 ngày sau tiêm MTX. Các tác
dụng ngoại ý nặng như loét niêm mạc miệng,
hầu như không gặp. Thường gặp nhất là tăng
đau bụng (34,4%) sau tiêm MTX 1-2 ngày và
thường không cần phải điều trị. Buồn nôn
(26,1%), chán ăn (16,2%), tăng men gan (9,9%)
tiêu chảy (6,3%). Theo dõi các chỉ số về xét
nghiệm máu như huyết đồ, chức năng gan
thận trong quá trình điều trị, chúng tôi nhận
thấy với liều lượng thuốc đang điều trị, MTX
không gây giảm bạch cầu hay giảm chức năng
thận nhưng thuốc có thể làm tăng men gan
nhẹ nhưng vẫn dưới ngưỡng cho phép và
không cần điều trị. Chỉ có 1 ca bị tăng men gan
gấp 8 lần, nhưng βhCG không giảm > 25% sau
1 tuần điều trị nên được chỉ định mổ bụng hở.
Hồi cứu lại trường hợp này thấy bệnh nhân có
xét nghiệm HbsAg (+). Theo khuyến cáo của
ACOG và ASRM, các bệnh nhân thai ngoài tử
cung điều trị MTX cần phải được thử chức
năng gan thận trước và sau điều trị 1 tuần. Các
hướng dẫn này chủ yếu dựa trên các nghiên
cứu điều trị bệnh lý nguyên bào nuôi(2,3).
Trong khi đó, hiện nay, điều trị thai ngoài tử
cung bằng MTX thường sử dụng phác đồ đơn
liều mà phần lớn bệnh nhân chỉ cần tiêm 1 liều
MTX là đủ. Trong nghiên cứu của Clark và cs.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 1 * 2017
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Bà Mẹ Trẻ Em 48
trên 383 bệnh nhân thai ngoài tử cung phác đồ
MTX đơn liều thì việc xác nhận chức năng gan
thận bình thường vì mục đích an toàn thuốc ở
phụ nữ khỏe mạnh không có tiền căn hay
nguy cơ bệnh lý gan thận trước khi điều trị là
không cần thiết. Điều này không chỉ loại bỏ
được xét nghiệm không cần thiết làm trì hoãn
điều trị mà còn giảm những bất tiện và giá
thành điều trị cho bệnh nhân. Cũng theo
nghiên cứu này, sau điều trị MTX 1 liều đầu
tiên cũng không cần thử lại chức năng gan
thận, chỉ thử lại khi cần điều trị MTX liều 2
hoặc MTX đa liều(5). Nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy tăng men gan gặp trong 9,9% trường
hợp và phần lớn là tăng nhẹ không cần điều
trị. Như vậy, vấn đề được đặt ra là có nên xét
nghiệm lại huyết đồ, chức năng gan thận hàng
loạt sau chỉ 1 liều MTX như khuyến cáo hay
chỉ cần thử lại chức năng gan ở các bệnh nhân
cần MTX liều 2,3 hoặc ở các bệnh nhân có
HbsAg (+)? Chúng tôi nghĩ rằng cần có thêm
những nghiên cứu lớn về vấn đề này.
KẾT LUẬN
Điều trị nội khoa thai ngoài tử cung tại bệnh
viện Hùng Vương cho tỷ lệ thành công 91,6%
(KTC=0,87-0,96). Tác dụng ngoại ý của MTX
thường gặp là buồn nôn-nôn (26,1%), chán ăn
(16,2%), tăng men gan (9,9%) với triệu chứng
thoáng qua không cần điều trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alshimmiri M., AL-Saleh E, et al. (2003). Treatment of ectopic
pregnancy with single intramuscular dose of methotrexate.
Archives of Gynecoloy and Obstetrics, Vol. 268, Issue 3,181-183.
2. American College of Obtetricians and Gynecologists (2008).
ACOG Practice Bulletin No.94:Medical management of
ectopic pregnancy. Obstet Gynecol;111
3. ASRM Practice committee-Treatment of eotopic pregnancy.
Vol 86 suppl4, November 2006
(
supp/)
4. Center for control of disease (CDC) (2012). Ectopic pregnancy
Mortality Florida, 2009-2010.MMWR Morbod Mortal Wkly
Rep;61:106-109.
5. Clark E., Bhagavath B et al (2012). Role of routine monitoring
of liver and renal function during treatment of ectopic
pregnancies with single-dose methotrexate protocol. Fertility
and Sterility. July 98(1):84-88.
6. Cohen A, BibiG, Almog B (2014). Seconddose methotrexate in
ectopic pregnancies: the role of beta human chorionic
gonadotropin. Fertil Steril. 2014 Dec;102(6):1646-9.
7. Hajenius PJ, Engelsbel S, Mol BW et al.(1997). Randomized
trial of systemic methotrexate versus laparoscopic
salpingostomy in tubal pregnancy.Lancet; 350:774-779.
8. Krissi H, Peled Y, Eitan R (2013). Single-dose methotrexate
injection for treatment of ectopic pregnancy in women with
relatively low levels of human chorionic gonadotropin.
FIGO.May 121(2): 141–143
9. Lê Thụy Quế Lâm (2012). Hiệu quả của Methotrexate trong điều
trị thai ngoài tử cung chưa vỡ tại bệnh viện đa khoa Bạc Liêu. Luận
văn Thạc sỹ Y học. Đại học Y Dược TP.HCM.
10. Lipscomb GH, Given VM, Meyes NL et al (2005). Comparison
of multi and single methotrexate protocol for the treatment of
ectopic pregnancy. Am J Obstet Gynecol
11. Nguyễn Thị Kim Huê (2009). Hiệu quả của Methotrexate trong
điều trị thai ở vòi tử cung chưa vỡ tại bệnh viện đa khoa Bình
Dương.Luận án tốt nghiệp chuyên khoa cấp II. Đại học Y
Dược TP.HCM.
12. NICE (2014). Ectopic pregnancy and miscarriage.
https://www.nice.org.uk/guidance/qs69.
13. Parichehr K, Zahra K, Azadeh M. (2013), The Importance of
Gestational Sac Size of Ectopic Pregnancy in Response to
Single-Dose Methotrexate. ISRN Obstetrics
andGynecology.
14. Sendy F, AlShehri E, Al Ajmi A (2015). Failure Rate of Single
Dose Methotrexate in Managment of Ectopic Pregnancy.
Obstetrics and Gynecology International
.
15. Shaamash AH, Alshahrani MS et al (2014). Falling in serum β
human chorionic gonadotropine levels between days 1 and 7
as a new protocol to predict successful single-dose of
Methotrexate therapy for ectopic pregnancy. Middle East
Fetility SocJ,
16. Tạ Thị Thanh Thủy, Đỗ Danh Toàn (2001). Điều trị thai ngoài
tử cung với MTX: một nghiên cứu thực nghiệm không so sánh
tại bệnh viện Hùng Vương. Hội nghị tổng kết khoa học kỹ thuật
bệnh viện Hùng Vương, trang 69-74.
17. Trần Chiến Thắng, Vương Tiến Hòa, Nguyễn Viết Tiến (2011).
Nghiên cứu chửa ngoài tử cung chưa vỡ bằng Methotrexate
tại bệnh viện Phụ sản Trung ương. Y học thực hành (778), trang
59-63.
18. Vương Tiến Hòa, Nguyễn Thị Bích Thủy (2013). Nghiên cứu
điều trị chửa ngoài tử cung chưa vỡ bằng methotrexat đơn
liều tại bệnh viện phụ sản Hà Nội. Y học thực hành số 11/2014,
trang 62-65.
Ngày nhận bài báo: 08/12/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/12/2016
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_cua_methotrexate_trong_dieu_tri_noi_khoa_ngoai_tu_c.pdf