Hiệu quả của kỹ thuật trưởng thành trứng non (In-Vitro Maturation – Ivm) so với thụ tinh ống nghiệm (In-Vitro Fertilization – Ivf) ở bệnh nhân có số nang noãn thứ cấp nhiều

Tài liệu Hiệu quả của kỹ thuật trưởng thành trứng non (In-Vitro Maturation – Ivm) so với thụ tinh ống nghiệm (In-Vitro Fertilization – Ivf) ở bệnh nhân có số nang noãn thứ cấp nhiều: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 17 HIỆU QUẢ CỦA KỸ THUẬT TRƯỞNG THÀNH TRỨNG NON (IN-VITRO MATURATION – IVM) SO VỚI THỤ TINH ỐNG NGHIỆM (IN-VITRO FERTILIZATION – IVF) Ở BỆNH NHÂN CÓ SỐ NANG NOÃN THỨ CẤP NHIỀU Hồ Ngọc Anh Vũ*, Phạm Dương Toàn*, Vương Thị Ngọc Lan** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Kỹ thuật trưởng thành trứng non trong ống nghiệm (IVM) được thay thế cho thụ tinh ống nghiệm (IVF) nhằm giảm nguy cơ quá kích buồng trứng (QKBT) ở bệnh nhân có số nang thứ cấp (Antral Follicle Count – AFC) nhiều. Chưa có nghiên cứu so sánh trực tiếp hai kỹ thuật này. Mục tiêu: So sánh hiệu quả và tính an toàn của IVM và IVF ở bệnh nhân có AFC nhiều. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện tại Đơn vị hỗ trợ sinh sản Mỹ Đức (IVFMD), bệnh viện Mỹ Đức, TP. Hồ Chí Minh từ 7/2015 đến 12/2017. Bệnh nhân 18-38 tuổi, AFC ≥ 24, điều trị hỗ trợ sinh sản được nhận vào nghiên cứu. IVM hay IVF được thực hiện do chỉ đị...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 342 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của kỹ thuật trưởng thành trứng non (In-Vitro Maturation – Ivm) so với thụ tinh ống nghiệm (In-Vitro Fertilization – Ivf) ở bệnh nhân có số nang noãn thứ cấp nhiều, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 17 HIỆU QUẢ CỦA KỸ THUẬT TRƯỞNG THÀNH TRỨNG NON (IN-VITRO MATURATION – IVM) SO VỚI THỤ TINH ỐNG NGHIỆM (IN-VITRO FERTILIZATION – IVF) Ở BỆNH NHÂN CÓ SỐ NANG NOÃN THỨ CẤP NHIỀU Hồ Ngọc Anh Vũ*, Phạm Dương Toàn*, Vương Thị Ngọc Lan** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Kỹ thuật trưởng thành trứng non trong ống nghiệm (IVM) được thay thế cho thụ tinh ống nghiệm (IVF) nhằm giảm nguy cơ quá kích buồng trứng (QKBT) ở bệnh nhân có số nang thứ cấp (Antral Follicle Count – AFC) nhiều. Chưa có nghiên cứu so sánh trực tiếp hai kỹ thuật này. Mục tiêu: So sánh hiệu quả và tính an toàn của IVM và IVF ở bệnh nhân có AFC nhiều. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện tại Đơn vị hỗ trợ sinh sản Mỹ Đức (IVFMD), bệnh viện Mỹ Đức, TP. Hồ Chí Minh từ 7/2015 đến 12/2017. Bệnh nhân 18-38 tuổi, AFC ≥ 24, điều trị hỗ trợ sinh sản được nhận vào nghiên cứu. IVM hay IVF được thực hiện do chỉ định của bác sĩ hay chọn lựa của bệnh nhân. Bệnh nhân IVM được tiêm FSH 3 liều và hCG. Bệnh nhân IVF được tiêm FSH (phác đồ GnRH đối vận) và hCG. Kết cục chính là tỷ lệ trẻ sinh sống sau lần chuyển phôi đầu tiên. Kết quả: Có 919 bệnh nhân được nhận vào nghiên cứu, gồm 608 IVM và 311 IVF. Tuổi, BMI và số noãn không khác biệt giữa 2 nhóm. Tỷ lệ trẻ sinh sống không khác biệt giữa 2 nhóm IVM so với IVF (36,5% vs 40,8%, p=0,274); OR hiệu chỉnh = 0,74 (KTC 95% 0,42-1,3). Không có QKBT ở nhóm IVM, trong khi đó, 3,5% ở nhóm IVF. Kết luận: Ở bệnh nhân AFC nhiều, IVM có thể thay thế IVF do tránh QKBT và giảm gánh nặng điều trị cho bệnh nhân. Từ khoá: trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM), thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), AFC, trẻ sinh sống ABSTRACT THE EFFECTIVENESS OF IN VITRO MATURATION AND IN VITRO FERTILIZATION IN WOMEN WITH HIGH ANTRAL FOLLICLES COUNT Ho Ngoc Anh Vu, Pham Duong Toan, Vuong Thi Ngoc Lan * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 17 - 22 Introduction: In vitro maturation (IVM) is postulated to be an alternative to conventional in vitro fertilization IVF to avoid ovarian hyperstimulation syndrome (OHSS) in patients with high Antral Follicle Count (AFC). To date, there is no direct comparison between IVM versus IVF in women with high AFC. Aim: To investigate the effectiveness and safety of IVM and IVF in women with high AFC. Method: We conducted a retrospective study at IVFMD, My Duc Hospital, HCMC, Vietnam from July 2015 to December 2017. We included infertile women between 18-38 years old with AFC ≥ 24, having indication for ART. Women received either IVM or IVF treatment depending on patients’ or physicians’ choices. In IVM cycles, women received 3 days of FSH followed by hCG. In IVF cycles, women underwent a GnRH antagonist protocol and were triggered with hCG 6.500 IU. Outcome measures were live birth rate (LBR) after first embryo transfer. *Bệnh viện Mỹ Đức **BM Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BS. Hồ Ngọc Anh Vũ ĐT: 0935843336 Email: bsvu.hna@myduchospital.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 18 Results: We studied 919 women, of whom 608 underwent IVM and 311 IVF cycles No significant differences were found in age, BMI, and number of oocytes between two groups. No difference was found in live birth between two groups after first transfer (37% vs 41%, p = 0.274). Adjusted OR of IVM compared with IVF for live birth rate was 0.74, 95%CI 0.42-1.3. OHSS did not occur in the IVM group, while it was 3.5% in IVF group. Conclusion: In women with high AFC, IVM could be an alternative treatment to IVF to avoid OHSS and reduce treatment burden for patients. Keywords: IVM, IVF, AFC, live birth ĐẶT VẤN ĐỀ Từ năm 1949, phương pháp kích thích buồng trứng (KTBT) được thực hiện thường quy trong IVF nhằm hai mục đích: (i) Thu được nhiều noãn chất lượng tốt, từ đó, tạo được nhiều phôi; (ii) Có phôi dư để trữ lạnh và sử dụng nếu chuyển phôi tươi thất bại, do đó, tăng kết quả thai cho bệnh nhân sau một chu kỳ điều trị có KTBT. Tuy nhiên, kỹ thuật này mang lại nhiều gánh nặng cho bệnh nhân trong quá trình điều trị như nguy cơ bị hội chứng quá kích buồng trứng, xoắn buồng trứng, huyết khối tĩnh mạch cũng như nhiều phiền toái do bệnh nhân phải tiêm thuốc liên tục, siêu âm, xét nghiệm máu nhiều lần(7,14). Nhiều giải pháp đã được đưa ra nhằm giải quyết các hạn chế này từ việc kích thích buồng trứng. Kỹ thuật trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) là một trong số đó. Kỹ thuật IVM là một kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, khác biệt với thụ tinh ống nghiệm cổ điển ở hai điểm chính: không tiến hành hoặc chỉ kích thích buồng trứng nhẹ và noãn chọc hút được là đa số/ hoặc toàn bộ là noãn chưa trưởng thành. Kỹ thuật IVM có ưu điểm lớn trên nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao bị ảnh hưởng từ các biến chứng của quá trình kích thích buồng trứng như bệnh nhân có AFC nhiều hoặc có hội chứng buồng trứng đa nang(2). Các báo đầu tiên ghi nhận tỷ lệ thai của IVM thấp, nhưng hiện nay, kết quả IVM đã được cải thiện đáng kể. Chúng tôi, trong năm 2018 vừa công bố kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn của IVM ở bệnh nhân có đa nang buồng trứng (PCOS) là 33,7%(6). Các nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ thai khá tương đương giữa kỹ thuật IVM so với IVF sử dụng KTBT với phác đồ GnRH đồng vận(12,17) hay phác đồ GnRH đối vận(3,18). Tuy nhiên, nhược điểm của các nghiên cứu trước đây là cỡ mẫu nhỏ với kết quả thai không ổn định. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm so sánh hiệu quả và tính an toàn của kỹ thuật IVM so với kỹ thuật IVF ở bệnh nhân có AFC nhiều. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu. Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân hiếm muộn có AFC nhiều được điều trị hỗ trợ sinh sản tại Đơn vị hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Mỹ Đức (IVFMĐ). Tiêu chuẩn chọn mẫu Tiêu chuẩn nhận Tuổi từ 18 đến 38. Có AFC ≥24 bao gồm các bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang hay hình ảnh buồng trứng đa nang được chẩn đoán theo tiêu chuẩn Rotterdam(11). Được thực hiện IVM hay IVF. Số chu kỳ điều trị hỗ trợ sinh sản ≤2. Tiêu chuẩn loại Các bệnh nhân có bất thường cấu trúc tử cung. Các chu kỳ: xin noãn, chẩn đoán tiền làm tổ, khởi động trưởng thành noãn bằng GnRH đồng vận. Cách chọn mẫu Chọn toàn bộ các chu kỳ IVM và IVF thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu trong thời gian nghiên cứu. Địa điểm và thời gian nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện tại IVFMD, Bệnh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 19 viện Mỹ Đức, TP. Hồ Chí Minh từ tháng 07/2015 đến tháng 12/2017. Phương pháp tiến hành Nhóm IVM Bệnh nhân được tiêm 3 mũi FSH (liều 100IU) vào ngày thứ 3, 4, 5 của chu kỳ kinh tự nhiên hoặc sau sử dụng nội tiết tạo kinh nguyệt. Siêu âm được thực hiện vào ngày tiêm mũi FSH cuối. Bệnh nhân được tiêm hCG 10.000 IU (gọi là mồi hCG) ngày tiếp theo. Chọc hút noãn được tiến hành ở thời điểm 36 giờ sau đó. Nuôi cấy trưởng thành noãn trong 20 giờ với môi trường Medicult IVM system (Origio, Đan Mạch). Thụ tinh được thực hiện bằng các tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) sau kiểm tra trưởng thành noãn (1 ngày sau chọc hút noãn). Chuyển phôi tươi được thực hiện vào 2 ngày sau thụ tinh. Phôi còn dư sau chuyển phôi tươi sẽ được trữ lại cho các chu kỳ chuyển phôi trữ sau. Nhóm IVF Bệnh nhân được kích thích buồng trứng phác đồ GnRH đối vận với liều FSH khởi đầu từ 150-225IU/ngày dựa theo tuổi và BMI. Theo dõi sự phát triển nang noãn bằng siêu âm và định lượng nồng độ estradiol, progesterone. Khi có ít nhất 2 nang noãn với đường kính từ 17mm trở lên, khởi động trưởng thành noãn bằng hCG 250µg. Chọc hút noãn được tiến hành sau đó 36 giờ. Thụ tinh được thực hiện bằng các tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) ở thời điểm 3 – 4 giờ sau chọc hút. Chuyển phôi tươi được thực hiện vào 2 ngày sau thụ tinh. Phôi còn dư sau chuyển phôi tươi sẽ được trữ lại cho các chu kỳ chuyển phôi trữ sau. Chuyển phôi trữ lạnh Bệnh nhân ở cả 2 nhóm, nếu thất bại chuyển phôi tươi hay được trữ phôi toàn bộ sẽ được thực hiện chuyển phôi trữ lạnh (nếu còn phôi dư được trữ lạnh). Chuẩn bị nội mạc tử cung để chuyển phôi trữ lạnh được thực hiện bằng cách sử dụng estradiol uống 2mg/viên, 4 lần mỗi ngày, từ ngày thứ 2 hoặc thứ 3 của chu kỳ kinh nguyệt. Siêu âm đầu dò âm đạo để theo dõi độ dày niên mạc tử cung (NMTC) từ ngày thứ 6 trở đi. Khi nội mạc tử cung dày ít nhất 8mm, bệnh nhân được sử dụng progesterone đặt âm đạo 400mg/viên, 2 lần mỗi ngày. Ba ngày sau bắt đầu progesterone, bệnh nhân được thực hiện rã đông phôi và chuyển phôi. Thử thai và hỗ trợ hoàng thể Thử thai bằng cách định lượng nồng độ ß- hCG trong máu vào 2 tuần sau chuyển phôi. Hỗ trợ hoàng thể bằng estradiol 4mg/ ngày và progesterone ngả âm đạo 800mg/ ngày liên tục tới tuần thứ 7 của thai kỳ. Kết cục nghiên cứu Kết cục chính: tỷ lệ trẻ sinh sống sau lần chuyển phôi đầu tiên. Kết cục phụ: tỷ lệ thai lâm sàng, thai diễn tiến, thai ngoài tử cung, sẩy thai, đa thai, thời gian có thai và tỷ lệ mắc QKBT(13). Quản lý và phân tích số liệu Dữ liệu của bệnh nhân được quản lý bằng phần mềm Microsoft Access. Phân tích số liệu được thực hiện bằng phần mềm R, phiên bản 3.3.3. Giá trị p <0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Từ tháng 7/2015 đến tháng 4/2017, có 5205 bệnh nhân được sàng lọc, 919 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu, trong đó, có 608 bệnh nhân điều trị IVM và 311 bệnh nhân điều trị IVF. Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân trong nghiên cứu Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân trong nghiên cứu được trình bày trong Bảng 1. Kết quả noãn phôi Kết quả noãn, phôi của tất cả các chu kỳ điều trị IVM và IVF được trình bày trong Bảng 2. Kết quả điều trị TTON và kết quả thai sau lần chuyển phôi đầu tiên Kết quả điều trị TTON, kết quả thai và trẻ sơ sinh sau lần chuyển phôi đầu tiên được trình bày Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 20 trong Bảng 3. Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên cứu Đặc điểm IVM (n=608) IVF (n= 311) Giá trị P Tuổi vợ (năm) 27±2,2 27,2±2,00 0,12 BMI (kg/m 2 ) 21,2±2,44 20,9±2,62 0,13 AFC 26,5±8,85 27,5±5,31 0,06 Thời gian vô sinh (năm) 2,9±1,99 2,9±1,51 0,69 Nguyên nhân vô sinh, n (%) 0,20 Nguyên phát 509 (83,7) 249 (80,1) Thứ phát 99 (16,3) 62 (19,9) Chỉ định TTON, n (%) 0,80 Vô sinh nam 207 (34,0) 115 (37,0) Gây phóng noãn thất bại 285 (46,9) 123 (39,5) Bệnh lý ống dẫn trứng 50 (8,2) 34 (10,9) Chưa rõ nguyên nhân 43 (7,1) 25 (8,0) Khác 23 (3,8) 14 (4,5) Số chu kỳ TTON, n (%) 0,27 1 529 (87,0) 268 (86,2) Đặc điểm IVM (n=608) IVF (n= 311) Giá trị P 2 79 (13,0) 43 (13,8) Bảng 2. Kết quả noãn và phôi Đặc điểm IVM (n=608) IVF (n=311) Giá trị P Thời gian KTBT (ngày) 3 9,4±8,12 <0,001 Tổng liệu FSH sử dụng (IU) 300 1995,3±754,88 <0,001 Số trứng chọc hút 15,6±9,13 15,4±5,89 0,70 Số trứng trưởng thành 8,9±5,27 11,9±4,77 <0,001 Số trứng thụ tinh 6,3±4,04 9,6±4,12 <0,001 Số phôi 5,5±3,37 7,5±3,86 <0,001 Phôi tốt 1±1,28 1,8±1,87 <0,001 Phôi trung bình 1,9±1,76 3,7±2,72 <0,001 Phôi xấu 2,6±2,49 2±2,17 0,001 Số phôi trữ lạnh 1,8±2,18 4,3 (3,35) <0,001 QKBT, n (%) 0 (0) 11 (3,5) <0,001 Bảng 3. Kết quả điều trị TTON, kết quả thai và trẻ sơ sinh sau lần chuyển phôi đầu tiên Đặc điểm IVM (n = 608) IVF (n = 311) OR OR* Giá trị P Số phôi chuyển trung bình 2,3±0,58 2,3±0,50 0,01 Giai đoạn phôi, n (%) <0,001 Ngày 2 570 (93,8) 26 (8,4) Ngày 3 38 (6,2) 284 (91,3) Kiểu chuyển phôi, n (%) <0,001 Phôi tươi 511 (84,0) 209 (67,2) TPTB - Phôi trữ 89 (14,6) 101 (32,5) Tỷ lệ thai lâm sàng, n (%) 295 (48,5) 176 (56,6) 0,03 Tỷ lệ thai diễn tiến, n (%) 231 (38,0) 135 (43,4) 0,13 Tỷ lệ sinh sống, n (%) 222 (36,5) 127 (40,8) 0,83 [0,6-1,10] 0,74 [0,42-1,30] 0,23 Đơn thai 147 (66,2) 72 (56,7) Song thai 75 (33,8) 55 (43,3) Tỷ lệ làm tổ, n 28,56 (35,57) 37,04 (37,73) 0,001 Tỷ lệ thai ngoài tử cung, n (%) 10 (1,6) 4 (1,3) 0,90 Tỷ lệ sẩy thai (<12 tuần), n (%) 54 (8,9) 37 (11,9) 0,18 Tỷ lệ sẩy thai (12-24 tuần), n (%) 9 (1,5) 8 (2,6) 0,37 Tuổi thai lúc sinh (tuần) 36,74±2,78 36,77±2,30 0,90 Sinh non, n (%) Đơn thai 30 (4,9) 15 (4,8) 0,99 Song thai 33 (5,4) 29 (9,3) 0,04 Cân nặng trẻ lúc sanh, gram Đơn thai 3030,6±630,6 3048,4±396,0 0,81 Song thai 2377,1±579,9 2304,2±571,3 0,38 BÀN LUẬN Đây là nghiên cứu đầu tiên với cỡ mẫu lớn, so sánh trực tiếp giữa IVM và IVF về hiệu quả và tính an toàn của kỹ thuật ở bệnh nhân có AFC nhiều. Kết quả nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ trẻ sinh sống sau chu kỳ chuyển phôi đầu tiên ở kỹ thuật IVM và IVF không khác biệt có ý nghĩa thống kê (36,5% so với 40,8%). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 21 Kết quả nghiên cứu Kết quả thai trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự các nghiên cứu khác so sánh IVM và IVF nhưng có cỡ mẫu nhỏ hơn. Nghiên cứu của Shalom-Paz và cs. cho thấy IVM có tỷ lệ thai tương đương IVF (44% so với 38-45%)(12). Nghiên cứu của Walls và cs. cũng cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn sau chuyển phôi nang của IVM là 41% so với 55% của IVF(18). Tỷ lệ trưởng thành noãn, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ làm tổ của nhóm điều trị IVM trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đương với các kết quả từ các nghiên cứu trước(8,18). Đặc biệt, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ làm tổ ở nhóm bệnh nhân điều trị IVM trong nghiên cứu của chúng tôi là cao hơn so với các nghiên cứu trước đây (49% so với 35-40% và 29% so với 15-20%)(1). Điều này có thể do chúng tôi đã thực hiện kỹ thuật IVM được trên 12 năm nên có nhiều kinh nghiệm với kỹ thuật này. Ngoài ra, bệnh nhân IVM ở các nghiên cứu trước đây được chuyển đơn phôi nang (chuyển phôi tươi hoặc phôi trữ), trong khi nghiên cứu của chúng tôi thực hiện chuyển trung bình 2 phôi ở giai đoạn phân chia. Thực tế, khó khăn lớn nhất khi so sánh kết quả IVM giữa các nghiên cứu khác nhau là sự không thống nhất trong phác đồ thực hiện IVM. Các kết quả về phôi học của IVM đều thấp hơn IVF, chủ yếu do kỹ thuật IVM chọc hút lấy noãn chưa trưởng thành, qua công đoạn trưởng thành noãn trong ống nghiệm, số noãn trưởng thành có sẵn để tạo phôi thấp hơn IVF. Tuy vậy, không có sự khác biệt về tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm IVM so với IVF sau lần chuyển phôi đầu tiên (36,5% so với 40,8%, p = 0,274). Chúng tôi cũng tiến hành hiệu chỉnh với các yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị bao gồm số phôi chuyển, giai đoạn phôi chuyển và kiểu chuyển phôi, kết quả vẫn ghi nhận tỷ lệ trẻ sinh sống của IVM không khác biệt có ý nghĩa thống kê so với IVF. Thật ra, các cặp vợ chồng khi điều trị hiếm muộn, kết cục quan trọng đối với họ là trẻ sinh sống, do đó, có thể nói, kỹ thuật IVM có hiệu quả lâm sàng tương đương IVF. Về kết cục sản khoa và sơ sinh, không có sự khác biệt về tỷ lệ sinh non giữa hai nhóm; tuy nhiên, tỷ lệ này là khá cao. Tỷ lệ sinh non được ghi nhận cao hơn ở các thai kỳ sau điều trị hỗ trợ sinh sản so với thai kỳ tự nhiên(5). Một trong các nguyên nhân của vấn đề này là do tỷ lệ song thai ở các bệnh nhân trong nghiên cứu đến từ việc số lượng phôi chuyển nhiều hơn 2 phôi. Việc áp dụng chiến lược chuyển đơn phôi cần được quan tâm hơn. Bên cạnh đó, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về cân nặng trẻ sinh ra giữa hai nhóm. Nghiên cứu của Roesner và cs. cũng cho thấy không có sự khác biệt về cân nặng giữa hai nhóm bệnh nhân điều trị IVM hoặc IVF/ICSI ở thời điểm bé mới ra đời hoặc tới 2 năm sau đó(10). Các kết quả từ nhiều nghiên cứu đến thời điểm hiện tại đều ghi nhận tỷ lệ dị tật bẩm sinh ở trẻ sinh ra từ IVM hay IVF/ICSI là không có sự khác biệt so với trẻ sinh ra từ các thai kỳ tự nhiên(4,6,15). Không có trường hợp quá kích buồng trứng nào được ghi nhận ở nhóm bệnh nhân điều trị IVM so với tỷ lệ 3,5% ở nhóm bệnh nhân IVF. Kết quả này thống nhất với tất cả nghiên cứu từ trước tới nay về IVM. Đây là một ưu điểm lớn của IVM nhằm mang lại sự an toàn và tính tiện lợi cho bệnh nhân trong quá trình điều trị. Quá kích buồng trứng vẫn còn là một trong những biến chứng nguy hiểm của điều trị IVF mặc dù các chiến lược dự phòng đã được áp dụng. QKBT nặng là một gánh nặng lớn cho bệnh nhân cả về thể chất lần tinh thần. Do IVM không kết hợp với KTBT nên QKBT không còn là vấn đề lo ngại đối với bệnh nhân khi thực hiện IVM, đây cũng là ưu điểm lớn nhất của IVM so với IVF ở các bệnh nhân có AFC nhiều(9). Điểm mạnh và hạn chế của nghiên cứu Điểm mạnh của nghiên cứu này là cỡ mẫu lớn, trên gần 1.000 chu kỳ chọc hút IVM và IVF với kết cục chính của nghiên cứu là tỷ lệ trẻ sinh sống, trong khi đa số các nghiên cứu khác, cỡ mẫu nhỏ và kết cục chỉ là thai lâm sàng hay thai diễn tiến. Hạn chế của nghiên cứu này là thiết kế hồi cứu. Cần tiến hành các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên để có cái nhìn toàn diện hơn về hai kỹ thuật này trên nhóm bệnh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 22 nhân có AFC nhiều. Hiện tại, chúng tôi đang tiến hành một nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng lớn nhằm so sánh hiệu quả và tính an toàn của hai kỹ thuật này (NCT03405701)(16). KẾT LUẬN Kỹ thuật trưởng thành noãn trong ống nghiệm – IVM là một kỹ thuật an toàn và hiệu quả so với IVF ở bệnh nhân có số nang thứ cấp nhiều. Cần có các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng để kiểm chứng các kết quả này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chian RC, Uzelac PS, Nargund G (2013). “In vitro maturation of human immature oocytes for fertility preservation”. Fertil Steril, 99(5):1173-81. 2. Delvigne A, Rozenberg S (2002). “Epidemiology and prevention of ovarian hyperstimulation syndrome (OHSS): a review”. Hum Reprod Update, 8(6): 559-577. 3. Ellenbogen A, Shavit T, Shalom-Paz E (2014). “IVM results are comparable and may have advantages over standard IVF”. Facts Views Vis Obgyn, 6(2):77-80. 4. Fadini R, Mignini RM, Guarnieri T et al (2012). “Comparison of the obstetric and perinatal outcomes of children conceived from in vitro or in vivo matured oocytes in in vitro maturation treatments with births from conventional ICSI cycles”. Hum Repro, 27:3601-8. 5. Henningsen AK, Romundstad LB, Gissler M et al (2011). “Infant and maternal health monitoring using a combined Nordic database on ART and safety”. Acta Obstet Gynecol Scand, 90:pp. 683-691. 6. Ho Ngoc Anh Vu, Pham Duong Toan, Le Hoang Anh, Ho Manh Tuong, Vuong Ngoc Lan (2018). “Live birth rate after human chorionic gonadotropin priming in vitro maturation in women with polycystic ovary syndrome”. J Ovarian Re, 11(1):70. 7. Jones HWJr, Jones D, Kolm P (1997). “Cryopreservation: a simplified method of evaluation”. Hum Reprod, 12:548–553. 8. Junk SM, Yeap D (2012). “Improved implantation and ongoing pregnancy rates after single-embryo transfer with an optimized protocol for in vitro oocyte maturation in women with polycystic ovaries and polycystic ovary syndrome”. Fertil Steril, 98:888–892. 9. Lindenberg S (2013). “New approach in patients with polycystic ovaries, lessons for everyone”. Fertil. Steril, 99(5):1170–1172. 10. Roesner S, von-Wolff M, Elsaesser M et al (2017). “Two-year development of children conceived by IVM: a prospective controlled single-blinded study”. Hum Reprod, 32(6):1341-1350. 11. Rotterdam ESHRE/ASRM-Sponsored PCOS Consensus Workshop Group (2004). “Revised 2003 consensus on diagnostic criteria and long-term health risks related to polycystic ovary syndrome”. Fertil Steril, 81:19–25. 12. Shalom-Paz E, Holzer H, Son W et al (2012). “PCOS patients can benefit from in vitro maturation (IVM) of oocytes”. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol,165:53-6. 13. The Management of Ovarian Hyperstimulation Syndrome (2016). “Green-top Guideline No. 5”. Available from https://www.rcog.org.uk/globalassets/documents/guidelines/gr een-top-guidelines/gtg_5_ohss.pdf. 14. Toner JP, Brzyski RG, Oehninger S et al (1991). “Combined impact of the number of pre-ovulatory oocytes and cryopreservation on IVF outcome”. Hum Reprod, 6:284–289. 15. Vuong Ngoc Lan, Dang Quang Vinh, Ho Manh Tuong et al (2018). “IVF transfer of fresh or frozen embryos in women without polycystic ovaries”. N Engl J Med, 378(2):137–47. 16. Vuong Ngoc Lan, Ho Ngoc Anh Vu, Ho Manh Tuong et al (2018). “The effectiveness and safety of in vitro maturation of oocytes versus in vitro fertilisation in women with high antral follicle count: study protocol for a randomised controlled trial”. BMJ Open, 8(12):e023413. 17. Walls M, Junk S, Ryan J, Hart R (2012). “IVF versus ICSI for the fertilization of in vitro matured human oocytes”. Reprod BioMed Online, 25:603 – 607. 18. Walls ML, Hunter T, Ryan JP et al (2015). “In vitro maturation as an alternative to standard in vitro fertilization for patients diagnosed with polycystic ovaries: a comparative analysis of fresh, frozen and cumulative cycle outcomes”. Hum Repro, 30(1):88–96. Ngày nhận bài báo 30/11/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 08/12/2018 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_cua_ky_thuat_truong_thanh_trung_non_in_vitro_matura.pdf
Tài liệu liên quan