Hiệu quả chương trình tập huấn nâng cao kiến thức về đái tháo đường của người cao tuổi mắc đái tháo đường type 2 tại thành phố Cần Thơ

Tài liệu Hiệu quả chương trình tập huấn nâng cao kiến thức về đái tháo đường của người cao tuổi mắc đái tháo đường type 2 tại thành phố Cần Thơ: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 396 HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH TẬP HUẤN NÂNG CAO KIẾN THỨC VỀ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI MẮC ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ Dương Thị Minh Tâm*, Nguyễn Ngọc Duy*, Nguyễn Thị Thùy*, Nguyễn Thị Tuyết Vân*, Mai Tiến Thành*, Võ Hoàng Phương*, Lê Đình Trọng Nhân* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tại thành phố Cần Thơ, điều tra của Trung tâm Y tế dự phòng năm 2013 cũng cho thấy có tới 60% người bị bệnh đái tháo đường týp 2 không biết mình đang mắc bệnh. Do đó, việc triển khai mô hình can thiệp giúp cải thiện tình trạng đái tháo đường của bệnh nhân là việc làm cần thiết. Mục tiêu: Nâng cao kiến thức về chế độ dinh dưỡng và tự kiểm soát ĐTĐ, thực hành dinh dưỡng cũng như thực hành vận động thể lực của bệnh nhân ĐTĐ tại 4 phường/xã tại thành phố Cần Thơ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang can thiệp tập huấn kiến thức về ĐTĐ. Mỗi phường/xã chọn ra toàn bộ những bện...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 347 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả chương trình tập huấn nâng cao kiến thức về đái tháo đường của người cao tuổi mắc đái tháo đường type 2 tại thành phố Cần Thơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 396 HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH TẬP HUẤN NÂNG CAO KIẾN THỨC VỀ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI MẮC ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ Dương Thị Minh Tâm*, Nguyễn Ngọc Duy*, Nguyễn Thị Thùy*, Nguyễn Thị Tuyết Vân*, Mai Tiến Thành*, Võ Hoàng Phương*, Lê Đình Trọng Nhân* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tại thành phố Cần Thơ, điều tra của Trung tâm Y tế dự phòng năm 2013 cũng cho thấy có tới 60% người bị bệnh đái tháo đường týp 2 không biết mình đang mắc bệnh. Do đó, việc triển khai mô hình can thiệp giúp cải thiện tình trạng đái tháo đường của bệnh nhân là việc làm cần thiết. Mục tiêu: Nâng cao kiến thức về chế độ dinh dưỡng và tự kiểm soát ĐTĐ, thực hành dinh dưỡng cũng như thực hành vận động thể lực của bệnh nhân ĐTĐ tại 4 phường/xã tại thành phố Cần Thơ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang can thiệp tập huấn kiến thức về ĐTĐ. Mỗi phường/xã chọn ra toàn bộ những bệnh nhân đã được chẩn đoán mắc ĐTĐ trong đợt tầm soát bệnh không lây năm 2017 và năm 2018 tại thành phố Cần Thơ. Trước can thiệp tất cả bệnh nhân được phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt về kiến thức chung về bệnh tiểu đường, kiến thức chế độ dinh dưỡng, và thực hành dinh dưỡng, thực hành vận động thể lực của bệnh nhân. Ngoài ra dữ liệu về mức đường huyết và BMI của bệnh nhân cũng được thu thập. Bệnh nhân sau đó sẽ được tập huấn kiến thức về bệnh và dinh dưỡng cho người đái tháo đường đồng thời được phát tài liệu tập huấn. Sau tập huấn 1 tháng, bệnh nhân sẽ được đánh giá lại kiến thức và đo lại mức đường huyết của bệnh nhân. Kết quả: Tổng cộng có 197 bệnh nhân tham gia nghiên cứu. Nữ chiếm tỷ lệ nhiều hơn nam (73,1% so với 26,9%). Độ tuổi chiếm tỷ lệ nhiều nhất là 60-69 (49,7%) và < 60 tuổi (35,5%). Sau can thiệp hầu hết các kiến thức đều cải thiện (> 70%) trừ các kiến thức về vai trò nhóm thực phẩm (66,7%), kiến thức về đọc nhãn thực phẩm (2,0%) và kiến thức về vận động thể lực (46,7%). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hành vi vận động thể lực (p< 0,001). Kết luận: Can thiệp tập huấn nâng cao kiến thức cho bệnh nhân ĐTĐ tại thành phố Cần Thơ mang lại hiệu quả nhất định. Bệnh nhân có sự cải thiện về kiến thức chung về ĐTĐ và kiến thức về dinh dưỡng dành cho bệnh nhân ĐTĐ. Từ khóa: đái tháo đường, người cao tuổi, tập huấn, kiến thức, thực hành ABSTRACT THE EFFECTIVENESS OF A TRAINING PROGRAM ON DIABETES KNOWLEDGE TO TYPE 2 DIABETES ELDERLY IN CAN THO CITY Duong Thi Minh Tam, Nguyen Ngoc Duy, Nguyen Thi Thuy, Nguyen Thi Tuyet Van, Mai Tien Thanh, Vo Hoang Phuong, Le Dinh Trong Nhan * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 396 - 402 Background: According to a survey of Can Tho Preventive Health Center, there were up to 60% of type 2 diabetes patients not knowing they had gotten the disease. Therefore, it was necessary to implement an intervention program to diabetes patients. *Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS. Dương Thị Minh Tâm ĐT: 0903172012 Email: duongthiminhtam@iph.org.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 397 Objectives: To improve knowledge of diabetes and nutritional diet, practices of diet and physical activity among diabetes patients in 4 communes in Can Tho City. Methods: A cross-sectional study was carried out in Can Tho City. All diabetes patients monitored in four selected communes were enrolled in the study. Prior to training program, all patients were interviewed about their knowledge and practices of diabetes and nutritional diet and were measured BMI and blood glucose. After one month, they took part in a two-days training course and were received training materials. One month later, we reevaluated patients’ knowledge and practices. Results: There were a total of 197 patients enrolled in the study. Females were predominated in the study (73.1%). Most of patients aged under 60 (35.5%) and from 60 to 69 (49.7%). After intervention, most of knowledge were improved (> 70%), except for knowledge of roles of food elements (66.7%), of reading of nutritional fact label (2.0%), and of physical activity (46.7%). There was a significant difference on practice of physical activity of patients between prior and after intervention (p< 0.001). Conclusion: The training program on improvement of knowledge of diabetes patients in Can Tho City had brought a relative effectiveness. Patients had improvements on general knowledge of diabetes and nutritional diet. Keywords: diabetes, elderly, training course, knowledge, practice ĐẶT VẤN ĐỀ Tại Việt Nam, tỷ lệ người mắc đái tháo đường (ĐTĐ) cũng gia tăng nhanh chóng. Theo kết quả điều tra của Bệnh viện Nội tiết Trung ương tỷ lệ đái thái đường trên toàn quốc là 5,7% dân số. Nếu so sánh với năm 2002 thì tỷ lệ này đã tăng lên 211%. Dự báo đến năm 2025, số người đái tháo đường sẽ tăng xấp xỉ 3 triệu người(4). Tại thành phố Cần Thơ, điều tra của Trung tâm Y tế dự phòng năm 2013 cũng cho thấy có tới 60% người bị bệnh đái tháo đường týp 2 không biết mình đang mắc bệnh. Do đó, việc triển khai mô hình can thiệp giúp cải thiện tình trạng đái tháo đường của bệnh nhân là việc làm cần thiết, nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công tác phòng ngừa bệnh tật và đặc biệt các yếu tố nguy cơ của bệnh, hạn chế số người mắc bệnh trong cộng đồng, ngăn chặn tàn tật, tử vong sớm và giảm quá tải tại các bệnh viện. Mục tiêu nghiên cứu Nâng cao kiến thức về chế độ dinh dưỡng, thực hành dinh dưỡng cũng như thực hành vận động thể lực của bệnh nhân ĐTĐ tại 4 phường/xã tại thành phố Cần Thơ với mục tiêu: Có 70% bệnh nhân ĐTĐ có kiến thức đúng về chế độ dinh dưỡng và tự kiểm soát đường huyết sau can thiệp. Có 70% bệnh nhân thực hành dinh dưỡng đúng sau can thiệp. 70% bệnh nhân thực hành vận động thể lực đầy đủ sau can thiệp. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Là người dân trên 40 tuổi mắc ĐTĐ sinh sống tại 04 phường/xã: huyện Cờ Đỏ (xã Thới Xuân, và xã Trung An), quận Bình Thủy (phường Long Tuyền và phường Thới An Đông). Thời gian nghiên cứu từ tháng 7/2018 – tháng 12/2018. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang can thiệp tập huấn kiến thức về ĐTĐ. Mỗi phường/xã chọn ra toàn bộ những bệnh nhân trên 40 tuổi đã được chẩn đoán mắc ĐTĐ trong đợt tầm soát bệnh không lây năm 2017 và năm 2018 tại thành phố Cần Thơ. Trước can thiệp tất cả bệnh nhân được phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt về: (1) kiến thức chung về bệnh tiểu đường, (2) kiến thức chế độ dinh dưỡng; (3) thực hành dinh dưỡng; (4) thực hành vận động thể lực của bệnh nhân. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 398 Ngoài ra dữ liệu về mức đường huyết và BMI của bệnh nhân trước thời điểm can thiệp (được quản lý bởi trạm y tế phường/xã) cũng được thu thập. Bệnh nhân sau đó sẽ được tổ chức 1 buổi tập huấn nhóm về kiến thức về bệnh và dinh dưỡng cho người đái tháo đường đồng thời được phát tài liệu tập huấn với các nội dung: (1) Tập huấn nâng cao kiến thức về bệnh đái tháo đường; (2) Tập huấn kiến thức về dinh dưỡng đái tháo đường; (3) Tập huấn về tự kiểm soát đường huyết; (4) Tập huấn về thay đổi hành vi. Sau tập huấn 1 tháng, bệnh nhân sẽ được đánh giá lại kiến thức và đo lại mức đường huyết của bệnh nhân. Kiến thức đúng về chế độ dinh dưỡng và tự kiểm soát đường huyết: bệnh nhân có kiến thức đúng khi trả lời đúng >70% các câu hỏi kiến thức. Thực hành đúng về chế biến thực phẩm: bệnh nhân có thực hành đúng khi thực hành >70% các phương pháp chế biến thực phẩm đúng dành cho bệnh nhân ĐTĐ. KẾT QUẢ Tổng cộng có 197 bệnh nhân tham gia nghiên cứu. Sau đây là đặc điểm của bệnh nhân trước khi can thiệp. Đặc tính chung của mẫu nghiên cứu Bảng 1: Đặc điểm dân số học của bệnh nhân (n=197) Đặc điểm n % Giới Nam 53 26,9 Nữ 144 73,1 Tuổi < 60 70 35,5 60-69 98 49,7 70-79 23 11,7 ≥ 80 6 3,1 Trình độ học vấn Mù chữ 22 11,2 Biết đọc, biết viết 18 9,1 Cấp 1 115 58,4 Cấp 2 23 11,7 Cấp 3 12 6,1 Trung cấp/cao đẳng/đại học 7 3,5 Tình trạng hôn nhân Có gia đình 156 80,0 Độc thân / Ly thân / Ly dị 7 3,6 Đặc điểm n % Góa vợ/chồng 32 16,4 Thời gian mắc ĐTĐ < 1 năm 28 14,2 1-5 năm 82 41,6 > 5 năm 87 44,2 Nữ chiếm tỷ lệ nhiều hơn nam (73,1% so với 26,9%). Độ tuổi chiếm tỷ lệ nhiều nhất là 60-69 (49,7%) và <60 tuổi (35,5%). Đa số (58,4%) bệnh nhân có trình độ học vấn cấp 1, và có 11,2% mù chữ. Có 97% là dân tộc Kinh. Có đến 80% bệnh nhân có gia đình và chỉ có 3,1% độc thân. Hầu hết bệnh nhân là người già hoặc hưu trí hoặc nội trợ (62,4%). Thu nhập gia đình trung bình của các bệnh nhân vào khoảng 3,4 ± 3,4 triệu/tháng. Chỉ có 9/197 bệnh nhân (4,6%) đã từng tham dự lớp tập huấn về chế độ ăn dành cho người ĐTĐ. Trong số này có 77,8% được tập huấn tại trạm y tế xã/phường. Có 44,2% và 41,6% bệnh nhân có thời gian mắc ĐTĐ >5 năm và 1-5 năm. Thời gian điều trị của các bệnh nhân cũng từ 1-5 năm (40,8%) và >5 năm (42,9%). Hiện có 89,9% bệnh nhân đang sử dụng thuốc đường uống và 4,5% vừa sử dụng insulin và thuốc uống. Có 71,9% bệnh nhân không có người thân mắc ĐTĐ. Tuy nhiên cũng có 11,2% có anh/chị/em ruột mắc ĐTĐ trước đó. Tình trạng sức khỏe bệnh nhân trước và sau can thiệp Bảng 2: Tình trạng sức khỏe của bệnh nhân trước và sau can thiệp Đặc điểm Trước can thiệp (TB ± ĐLC) Sau can thiệp (TB ± ĐLC) p BMI (kg/m2) 22,9 ± 3,3 23.3 ± 3.2 0,27 Đường huyết (mmol/l) 8,4 ± 2,6 8,7 ± 9,2 0,73 Không có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê về chỉ số BMI và đường huyết của bệnh nhân trước và sau can thiệp (p >0,27). Trước can thiệp BMI của bệnh nhân là 22,9 còn sau can thiệp là 23,3. Đường huyết trước can thiệp là 8,4 và sau can thiệp là 8,7 (Bảng 2). Kiến thức của bệnh nhân trước và sau can thiệp Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kiến thức chung đái tháo đường, dưỡng chất chính, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 399 vai trò nhóm thực phẩm, quy tắc nấu nướng, kiến thức về vận động trước và sau can thiệp trên bệnh nhân (p <0,001) (Bảng 3). Có sự cải thiện kiến thức của bệnh nhân sau can thiệp (p <0,001). Sau can thiệp hầu hết các kiến thức đều cải thiện (>70%) trừ các kiến thức về vai trò nhóm thực phẩm (66,7%), kiến thức về đọc nhãn thực phẩm (2,0%) và kiến thức về vận động thể lực (46,7%) (Bảng 4). Bảng 3: Kiến thức của bệnh nhân trước và sau can thiệp Đặc điểm Trước can thiệp (TB ± ĐLC) Sau can thiệp (TB ± ĐLC) p Kiến thức chung về đái tháo đường 11,6 ± 5,7 23.3 ± 3.2 < 0,001 Kiến thức về dưỡng chất chính 3,8 ± 6,9 11,8 ± 6,9 < 0,001 Kiến thức về vai trò các nhóm thực phẩm 5,9 ± 4,2 7,9 ± 4,1 < 0,001 Kiến thức về chế độ ăn 9,1 ± 4,9 12,8 ± 2,9 < 0,001 Kiến thức về quy tắc nấu nướng 3,8 ± 1,9 4,5 ± 1,5 < 0,001 Kiến thức về đọc nhãn thực phẩm 0,1 ± 1,2 0,2 ± 1,4 0,47 Kiến thức về vận động thể lực 0,3 ± 0,5 0.5 ± 0.5 < 0,001 Bảng 4: So sánh kiến thức đúng của bệnh nhân trước và sau can thiệp Kiến thức Thời điểm can thiệp Trước can thiệp Sau can thiệp RR KTC 95% p Kiến thức chung về đái tháo đường 102 (51,8) 133 (85,8) 1,65 1,42-1,92 < 0,001 Kiến thức về dưỡng chất chính 57 (28,9) 113 (95,8) 3,31 2,65-4,13 < 0,001 Kiến thức về vai trò các nhóm thực phẩm 102 (51,8) 100 (66,7) 1,28 1,07-1,53 0,005 Kiến thức về chế độ ăn 121 (61,4) 132 (85,2) 1,38 1,21-1,57 < 0,001 Kiến thức về quy tắc nấu nướng 118 (59,9) 118 (76,1) 1,27 1,1-1,46 0,001 Kiến thức về đọc nhãn thực phẩm 7 (3,5) 3 (2,0) 0,57 0,15-2,17 0,4 Kiến thức về vận động thể lực 61 (31,0) 71 (46,7) 1,50 1,15-1,97 0,003 Hành vi của bệnh nhân trước và sau can thiệp Bảng 5: Hành vi của bệnh nhân trước và sau can thiệp Hành vi Trước can thiệp (TB ± ĐLC) Sau can thiệp (TB ± ĐLC) p Hành vi dinh dưỡng 6,2 ± 2,2 6,5 ± 2,2 0,21 Hành vi vận động thể lực 1,4 ± 1,2 1,9 ± 0,8 <0,001 Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hành vi vận động thể lực (p <0,001). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hành vi dinh dưỡng của bệnh nhân trước và sau can thiệp (p=0,21) (Bảng 5). Bảng 6: So sánh hành vi đúng của bệnh nhân trước và sau can thiệp Hành vi Thời điểm can thiệp Trước can thiệp Sau can thiệp p Hành vi dinh dưỡng 86 (43,6) 79 (51,0) 0,17 Hành vi vận động thể lực 90 (45,7) 92 (68,7) < 0,001 Hành vi vận động thể lực và hành vi tự kiểm soát có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê sau can thiệp (p< 0,001). Sau can thiệp hai hành vi dinh dưỡng và vận động thể lực có sự cải thiện 51,0% và 68,7% (Bảng 6). BÀN LUẬN Đặc điểm của bệnh nhân tham gia nghiên cứu Trong nghiên cứu này nữ chiếm đa số (73,1%). Nhiều nghiên cứu tại Việt Nam cũng cho thấy nữ có xu hướng mắc ĐTĐ cao hơn so với nam. Một nghiên cứu tại bệnh viện Bạch Mai Hà Nội cho thấy trong 135 bệnh nhân ĐTĐ thì tỷ lệ nữ chiến đến 61,4%(7). Tương tự như vậy một nghiên cứu trong vòng 2 năm tại Hậu Giang cho thấy tỷ số nam: nữ mắc ĐTĐ là 1:1,5(6). Tuy nhiên một số nghiên cứu khác lại cho thấy nam có nguy cơ mắc ĐTĐ cao hơn nữ. Một nghiên cứu quy mô lớn trên 1.456 bệnh nhân sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy nam chiếm tỷ lệ cao hơn so với nữ về khả năng mắc ĐTĐ. (8,2% so với 5,5%)(3). Một nghiên cứu khác tiến hành tại ba tỉnh là Quảng Ninh, Thanh Hóa, Đà Nẵng trên 900 công nhân cho thấy tỷ lệ ĐTĐ ở Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 400 nam là 58,9% cao hơn so với nữ (41,1%)(5). Báo cáo toàn cầu cũng cho thấy rằng trong vòng vài thập niên của thế kỷ trước, nữ là đối tượng chính mắc ĐTĐ với số mắc cao hơn so với nam. Tuy nhiên trong những năm gần đây, các nhà khoa học nhận thấy có sự dịch chuyển nhẹ về tỷ lệ mắc ĐTĐ từ nữ sang nam. Điều này được giải thích là do ngày càng có nhiều nam được chẩn đoán mắc ĐTĐ hơn và tuổi thọ của nam cũng tăng dần lên dẫn đến tỷ lệ bệnh nhân nam mắc ĐTĐ sống sót cũng tăng lên. Trong nghiên cứu này có 35,5% bệnh nhân có độ tuổi < 60 và 49,7% có độ tuổi 60-69. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy ĐTĐ được xem như là bệnh đi kèm với dân số người cao tuổi(10); với độ tuổi dễ mắc ĐTĐ rơi vào nhóm tuổi 45-60(1). Tại Việt Nam, bệnh nhân người trưởng thành mắc ĐTĐ cũng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số ca ĐTĐ. Nghiên cứu của Phạm(7) cho thấy tuổi trung bình của bệnh nhân mắc ĐTĐ là 59,4 ± 15,6, trong khi nghiên cứu của Nguyễn(6) chỉ ra rằng trên 1 nửa bệnh nhân (52,8%) có độ tuổi > 55. Một nghiên cứu trên 1800 bệnh nhân béo phì cho thấy hầu hết bệnh nhân ĐTĐ (43%) đều thuộc nhóm tuổi 50-59(8). Tuy nhiên, một số nghiên cứu gần đây cũng lưu ý rằng các trường hợp ĐTĐ xảy ra ở bệnh nhân trẻ tuổi cũng ngày càng tăng lên. Một nghiên cứu tại 3 tỉnh thành cho thấy 42,1% đối tượng nghiên cứu thuộc nhóm tuổi 30-44 và 50,1% thuộc nhóm tuổi 45-54(5). Nghiên cứu của Đỗ(3) kết luận rằng số hiện mắc ĐTĐ ở nhóm tuổi 30- 70 vào năm 2008 cao gấp 2 lần so với năm 2007 (7,1% so với 3,7%). Tình trạng hôn nhân cũng được khảo sát trong nghiên cứu này và kết quả cho thấy có 80,0% đối tượng lập gia đình và 16,4% góa bụa. Mối liên quan giữa tình trạng hôn nhân và ĐTĐ cho đến nay vẫn chưa được chứng minh rõ ràng. Một nghiên cứu trên 41.379 đàn ông tuổi 40-70 cho thấy những người góa vợ thường có nguy cơ tăng cao mắc ĐTĐ type 1 so với những người có gia đình vì những người góa vợ thường có những thay đổi về lối sống, chế độ ăn theo chiều hướng tiêu cực. Tuy nhiên các nghiên cứu khác tại nhiều quốc gia không phát hiện thấy mối liên quan giữa ĐTĐ và tình trạng hôn nhân(2). Về bản chất, ĐTĐ là bệnh mạn tính trong đó bệnh nhân phải sống chung với bệnh suốt cuộc đời. Trong nghiên cứu này có 41,6% bệnh nhân có thời gian mắc ĐTĐ 1-5 năm và 44,2% có thời gian mắc >5 năm. Kết quả của nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Trần(9) trong đó bệnh nhân có thời gian mắc ĐTĐ từ 1-5 năm điều trị tại bệnh viện Bạch Mai chiếm tỷ lệ 54,67%. Tuy nhiên, một nghiên cứu cũng được tiến hành tại bệnh viện Bạch Mai báo cáo chỉ có 28,6% bệnh nhân mắc ĐTĐ với thời gian từ 1-5 năm(7). Sự khác biệt này có thể là do khác biệt về phân bố dân số nghiên cứu của hai nghiên cứu này. Sự thay đổi về tình trạng sức khỏe của bệnh nhân sau tập huấn Trong nghiên cứu này chúng tôi đánh giá BMI và đường huyết của bệnh nhân trước và sau tập huấn. Kết quả ghi nhận không có sự thay đổi nhiều về BMI và đường huyết của bệnh nhân sau tập huấn. Điều này có thể giải thích là do thời gian tập huấn và đánh giá lại của chúng tôi ngắn, chỉ sau 1 tháng tập huấn chúng tôi đánh giá lại. Do đó có thể không thấy được sự thay đổi đáng kể về BMI và đường huyết. Bên cạnh đó, vì các bệnh nhân hiện nay đều đang sử dụng thuốc hàng ngày do đó, lượng đường huyết luôn ở mức duy trì ổn định, không thay đổi nhiều. Sự thay đổi về kiến thức của bệnh nhân sau tập huấn Chúng tôi đánh giá kiến thức chung của bệnh nhân về ĐTĐ dưới các khía cạnh triệu chứng, mức đường huyết cao, cách điều trị bệnh v.v. Kết quả khảo sát cho thấy sau tập huấn kiến thức chung về ĐTĐ của bệnh nhân cải thiện đáng kể (11,6 trước tập huấn và 23,3 sau tập huấn). Điều này cho thấy tập huấn đã mang lại hiệu quả khi kiến thức của bệnh nhân về ĐTĐ đã được cải thiện. Các kiến thức về dinh dưỡng bao gồm về Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 401 dưỡng chất chính (các nhóm dưỡng chất carbonhydrate, protein và chất béo, vai trò nhóm thực phẩm trong kiểm soát đường huyết, chế độ ăn có sự cải thiện nhiều sau khi tập huấn. Đặc biệt kiến thức về dưỡng chất chính tăng lên từ 3,8 trước can thiệp lên 11,8 sau can thiệp. Điều này cho thấy các bệnh nhân đã nhận thức tốt hơn về các thành phần dinh dưỡng có thể làm tăng đường huyết hoặc giảm đường huyết. Bên cạnh đó kiến thức về chế độ ăn cũng cải thiện nhiều từ 9,1 trước can thiệp lên 12,8 sau can thiệp cho thấy bệnh nhân cũng đã có kiến thức tốt hơn trong việc ăn uống thường ngày. Kiến thức về quy tắc nấu nướng của bệnh nhân không có sự cải thiện đáng kể. Điều này xuất phát từ thực tế đa số bệnh nhân đều không tham gia vào việc nấu nướng tại nhà. Việc nấu nướng thường do con cái hoặc người thân khác trong gia đình phụ trách do đó theo quan điểm của họ “con cái nấu gì thì ăn đó” hoặc “nấu nướng đơn giản vì mình bị ĐTĐ”. Do đó hầu hết bệnh nhân không quan tâm nhiều đến quy tắc nấu nước dành cho bệnh nhân ĐTĐ. Đối với người Việt Nam, đọc nhãn dinh dưỡng có thể là một thực hành ít phổ biến. Thực vậy hầu hết các thực phẩm trong siêu thị đều có nhãn dinh dưỡng trên bao bì. Tuy nhiên hầu hết người tiêu dùng không quan tâm đến nội dung nhãn vì các từ trong nhãn thường viết bằng chữ tiếng Anh, và điều này làm phần lớn người dân không thể đọc. Các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi cũng có kiến thức về đọc nhãn thực phẩm trước tập huấn rất thấp chỉ có 0,1. Mặc dù được tấp huấn về đọc nhãn thực phẩm, tuy nhiên sau tập huấn kiến thức của họ cũng cải thiện không nhiều. Nguyên do như đã nói ở trên, bệnh nhân không quan tâm nhiều đến nhãn thành phần dinh dưỡng của thực phẩm. Ngoài ra, đa số bệnh nhân cũng không là người đi mua thực phẩm nên việc tiếp xúc với các nhãn thực phẩm cũng không cao. Tương tự như kiến thức về đọc nhãn thực phẩm, kiến thức về vận động thể lực cũng cải thiện không đáng kể. Trong thực tế, đa số bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là người cao tuổi, do biến chứng của ĐTĐ như đau nhức chân, thấp khớp v.v. dẫn đến họ ít vận động thể lực. Số bệnh nhân tập thể dục, chơi thể thao rất thấp. Thay vì vậy họ chủ yếu đi bộ trong nhà, làm việc nhà hoặc đi dạo xung quanh xóm làng. Chính điều này dẫn đến việc mặc dù được tập huấn nhưng bệnh nhân cũng không quan tâm ghi nhớ để thực hành trong cuộc sống. Sự thay đổi về hành vi sau can thiệp Đối với hành vi dinh dưỡng, sau can thiệp không có sự thay đổi đáng kể. Điều này là do trước khi tập huấn đa số bệnh nhân vì tình trạng bệnh tật của mình đã tuân theo một chế độ ăn uống khá thích hợp dành cho bệnh nhân ĐTĐ. Mặc dù không có một nền tảng kiến thức về chế độ dinh dưỡng đầy đủ, nhưng dựa trên những lời khuyên của bác sỹ, họ cũng đã áp dụng chế độ dinh dưỡng phù hợp như ăn nhiều bữa, ăn ít cơm nhiều rau v.v. Do đó, sau khi tập huấn kiến thức về chế độ dinh dưỡng có thể tăng lên nhưng việc áp dụng vào thực tế cũng không nhiều. Hành vi vận động thể lực của bệnh nhân cũng không có sự cải thiện đáng kể sau tập huấn. Như chúng tôi đã trình bày ở trên, hầu hết bệnh nhân đều có hạn chế về vận động, do đó trước tập huấn họ cũng ít vận động thể lực. Sau tập huấn, tình trạng này cũng không thay đổi nhiều. Hạn chế của đề tài Việc đánh giá sau can thiệp trong nghiên cứu chúng tôi gặp hạn chế do thời gian nghiên cứu không cho phép, khiến cho nghiên cứu đánh giá thiếu chính xác hơn so với các nghiên cứu can thiệp đánh giá nhiều giai đoạn (sau 1, 3 và 6 tháng). Việc không lựa chọn các đối tượng chăm sóc trực tiếp các bệnh nhân ĐTĐ vào chương trình can thiệp cũng gián tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả thực tế mà chương trình can thiệp mang lại. KẾT LUẬN Can thiệp tập huấn nâng cao kiến thức cho Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 402 bệnh nhân ĐTĐ tại thành phố Cần Thơ mang lại hiệu quả so với mục tiêu nghiên cứu. Bệnh nhân có sự cải thiện về kiến thức chung về ĐTĐ và kiến thức về dinh dưỡng dành cho bệnh nhân ĐTĐ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Danaei G, et al (2011). "National, regional, and global trends in systolic blood pressure since 1980: Systematic analysis of health examination surveys and epidemiological studies with 786 country-years and 5.4 million participants". Lancet, 377:568–577. 2. Daneshpajouh P, Pirhaji O (2011). "Is prevalence of type 2 diabetes mellitus related to education, marital status and urbanization in Isfahan, Iran?". The First International & 4th National Congress on health Education & Promotion, pp.23-56. 3. Đỗ Ngọc Định và cộng sự (2008). "Dịch tễ học bệnh đái tháo đường tại TP.HCM và một số yếu tố liên quan". Đề tài cấp cơ sở, pp.45-67. 4. Hoàng Kim Ước (2008). “Dịch tể học bệnh đái tháo đường, các yếu tố nguy cơ và các vấn đề liên quan đến vấn đề quản lý đái tháo đường trong phạm vi toàn quốc. Một số công trình nghiên cứu khoa học thực hiện tại Viện nội tiết”. Nhà xuất bản Y học, pp.21 5. Lê Phương, Trần Văn Dĩnh (2013). "Điều tra, khảo sát thực trạng bệnh đái tháo đường trong một số doanh nghiệp ngành công thương và biện pháp phòng chống". Đề tài cấp cơ sở. 6. Nguyễn Văn Lành (2014). "Thực trạng bệnh đái tháo đường ở người Khmer tỉnh Hậu Giang và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp". Luận văn Tiến sĩ, Viện Vệ sinh dịch tễ Tây nguyên 7. Phạm Văn Khoa (2011). "Thực hành tư vấn dinh dưỡng, nuôi dưỡng và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân đái tháo đường tại bệnh viện Bạch Mai". Luận án Chuyên khoa cấp II, pp.45-78. 8. Phan Huỳnh Dương và cộng sự (2013). "Tỷ lệ đái tháo đường, tiền đái tháo đường và một số yếu tố nguy cơ ở người quá cân béo phì tại bốn phường của thành phố Hải Phòng". Y học Dự phòng, 7(143):75-78. 9. Tran LG (2007) Nghiên cứu thực trạng nuôi dưỡng bệnh nhân ĐTĐ tại bệnh viện Bạch Mai, luận văn cử nhân Y tế công cộng, Trường Đạo Học Y Hà Nội. 10. WHO (1994). Prevention of diabetes mellitus. Report of a study group Geneva No. 844. URL. https://apps.who.int/iris/handle/10665/39374 Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf396_2715_2212118.pdf