Tài liệu Hiệu quả chương trình hướng dẫn kỹ thuật hít và sử dụng bình xịt định kiều cho người bệnh hen phế quản: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 201
HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT HÍT
VÀ SỬ DỤNG BÌNH XỊT ĐỊNH LIỀU CHO NGƯỜI BỆNH HEN PHẾ QUẢN
Nguyễn Văn Chường*, Trần Thiện Trung**, Ann Henderson***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hen phế quản (HPQ) là một bệnh hô hấp mạn tính thường gặp và nghiêm trọng, phổ biến trên
toàn thế giới, ảnh hưởng đến 1-18% dân số ở các quốc gia khác nhau. Thuốc dạng hít là phương pháp điều trị
hiệu quả nhất để giúp kiểm soát triệu chứng của bệnh HPQ, tránh các cơn hen nặng kịch phát và cải thiện chất
lượng cuộc sống của người bệnh. Trong các loại thuốc dạng hít, bình xịt định liều (BXĐL) là thiết bị được sử
dụng phổ biến nhất. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy nhiều người bệnh HPQ sử dụng thuốc hít không đúng
và sau các chương trình can thiệp, giáo dục thì tăng đáng kể tỉ lệ người bệnh sử dụng thuốc hít đúng kĩ thuật,
tuân thủ sử dụng thuốc hít trong điều trị và kiểm soát cơn...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 28/06/2023 | Lượt xem: 279 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả chương trình hướng dẫn kỹ thuật hít và sử dụng bình xịt định kiều cho người bệnh hen phế quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 201
HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT HÍT
VÀ SỬ DỤNG BÌNH XỊT ĐỊNH LIỀU CHO NGƯỜI BỆNH HEN PHẾ QUẢN
Nguyễn Văn Chường*, Trần Thiện Trung**, Ann Henderson***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hen phế quản (HPQ) là một bệnh hô hấp mạn tính thường gặp và nghiêm trọng, phổ biến trên
toàn thế giới, ảnh hưởng đến 1-18% dân số ở các quốc gia khác nhau. Thuốc dạng hít là phương pháp điều trị
hiệu quả nhất để giúp kiểm soát triệu chứng của bệnh HPQ, tránh các cơn hen nặng kịch phát và cải thiện chất
lượng cuộc sống của người bệnh. Trong các loại thuốc dạng hít, bình xịt định liều (BXĐL) là thiết bị được sử
dụng phổ biến nhất. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy nhiều người bệnh HPQ sử dụng thuốc hít không đúng
và sau các chương trình can thiệp, giáo dục thì tăng đáng kể tỉ lệ người bệnh sử dụng thuốc hít đúng kĩ thuật,
tuân thủ sử dụng thuốc hít trong điều trị và kiểm soát cơn hen.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả chương trình hướng dẫn kỹ thuật hít và sử dụng BXĐL thông qua kỹ thuật
hít và mức độ kiểm soát cơn hen của người bệnh HPQ trước và sau can thiệp.
Đối tượng và phương pháp: Thiết kế nghiên cứu bán thực nghiệm đánh giá trước sau can thiệp, 64 người
bệnh HPQ đủ 18 tuổi trở lên đến khám và điều trị tại khoa Khám bệnh và khoa Nội tổng quát thần kinh Bệnh
viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa từ tháng 02/2019 đến tháng 06/2019. Tất cả người bệnh được đánh giá kỹ thuật
sử dụng bình xịt định liều và mức độ kiểm soát cơn hen bằng test kiểm soát hen ACT (Asthma Control Test)
trước chương trình can thiệp và sau 1 tháng.
Kết quả: Tỷ lệ người bệnh thực hiện đúng kỹ thuật BXĐL trước khi được can thiệp chiếm 32,4% thấp hơn
so với 78,1% người bệnh sau khi can thiệp, sự cải thiện có ý nghĩa thống kê với p <0,001. Điểm trung bình kiểm
soát cơn hen trước can thiệp là 17,4 ± 4,6 thấp hơn so với điểm trung bình kiểm soát cơn hen sau can thiệp là
20,6±3,1, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001.
Kết luận: Chương trình hướng dẫn kỹ thuật hít và sử dụng BXĐL của điều dưỡng đã cải thiện đáng kể kỹ
thuật sử dụng BXĐL đúng cho người bệnh HPQ, góp phần nâng cao hiệu quả kiểm soát hen của người bệnh.
Từ khóa: hen phế quản, bình xịt định liều, kỹ thuật hít, kiểm soát cơn hen
ABSTRACT
EFFECTIVENESS OF THE GUIDING PROGRAM OF INHALER TECHNIQUE
AND USING METERED DOSE INHALER FOR ASTHMA PATIENTS
Nguyen Van Chuong, Tran Thien Trung, Ann Henderson
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 201 – 206
Background: Asthma is a chronic and severe respiratory illness, common throughout the world, affecting
around 1-18% of the population in different countries. Inhalation therapy is the most effective treatment to help
control the symptoms of asthma, to prevent severe asthma attacks and to improve the quality of life for patients. In
these types of inhalers, metered dose inhaler (MDI) is the device most commonly used. However, studies in the
world and in Vietnam showed that many asthma patients use inhalers incorrectly and after the intervention and
education programs significant increase in the rate of patients use inhalers properly techniques, compliance with
inhalant use in the treatment and control of asthma.
*Trường Cao đẳng Sư phạm Trung Ương Nha Trang
**Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ***University of Northern Colorado – School of Nursing
Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Văn Chường ĐT: 0777777359 Email: nvchuong432@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 202
Objective: Evaluate the effectiveness of the guiding program of inhaler technique and use metered dose
inhaler through the inhalation technique and the levels of asthma control before and after intervention.
Subjects and Methods: Quasi-experimental study, sixty-four patients asthma are 18 years or older to be
examined and treated at the Outpatient Department and General Medicine Department at Khanh Hoa General
Hospital from February to June 2019. All patients were evaluated technical use of the MDI and the level of
asthma control with asthma control test (ACT) before intervention and after 1 month.
Results: The proportion of patients practice correctly MDI techniques before intervention accounted for
32.4% lower than 78.1% of patients after intervention, the improvement was statistically significant with
p<0.001 (χ2). The mean score level of asthma control before intervention was 17.4 ± 4.6 lower than the mean
score level of asthma control after intervention was 20.6 ± 3.1, the difference was statistically significant
with p <0.001 (χ2).
Conclusions: The guiding program of inhaler technique and use MDI of nurse has significantly improved
the technique of using the correct MDI for asthma patients, contributing to improving the effectiveness of asthma
control of patients.
Key word: asthma, MDI, inhaler technique, asthma control
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hen phế quản (HPQ) là một bệnh hô hấp
mạn tính thường gặp và nghiêm trọng, phổ biến
trên toàn thế giới, ảnh hưởng đến 1-18% dân số
ở các quốc gia khác nhau(12). Tại Việt Nam, tỷ lệ
mắc HPQ là 4,1%, trong đó ở trẻ em là 3,2% và
người lớn là 4,3%(13). Bệnh HPQ gây nên một
gánh nặng lớn cho người bệnh, gia đình và cộng
đồng, vì gây ra các triệu chứng hô hấp, ảnh
hưởng đến hoạt động, đôi khi xuất hiện các cơn
hen kịch phát cần phải chăm sóc y tế khẩn cấp
và có thể gây tử vong(12).
Thuốc dạng hít là phương pháp điều trị hiệu
quả nhất để giúp kiểm soát triệu chứng của bệnh
HPQ, tránh các cơn hen nặng kịch phát và cải
thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh. Ưu
điểm của việc sử dụng thuốc đường hít là thuốc
được phân bố trực tiếp đến đường hô hấp, có tác
dụng nhanh, liều lượng thấp, hạn chế tác dụng
phụ toàn thân và có thể mang theo bên người(6).
Trong các loại thuốc dạng hít, bình xịt định liều
(BXĐL) là thiết bị được sử dụng phổ biến nhất.
Theo sáng kiến toàn cầu về hen phế quản
(GINA) năm 2017, 80% người bệnh hen không
sử dụng thuốc hít đúng cách, khoảng 50% người
bệnh kể cả người lớn và trẻ em không tuân thủ
việc dùng thuốc được kê toa để kiểm soát cơn
hen, chính điều này đã làm cho việc kiểm soát
triệu chứng kém và tăng số cơn hen kịch phát(12).
Mặc dù hiện nay tại Việt Nam có nhiều bệnh
viện đã triển khai các mô hình tuyên truyền giáo
dục sức khỏe cho người bệnh hen như: Câu lạc
bộ bệnh nhân hen phế quản, phòng khám và tư
vấn bệnh hen để nâng cao nhận thức, kỹ năng
thực hành sử dụng thực hành thuốc đúng và hỗ
trợ kiểm soát cơn hen cho người bệnh HPQ(3).
Tuy nhiên, với mục đích đánh giá hiệu quả
công tác hướng dẫn kỹ thuật hít và sử dụng bình
xịt định liều của điều dưỡng nhằm nâng cao hơn
nữa kỹ thuật hít và sử dụng BXĐL trong điều trị
và kiểm soát cơn hen của người bệnh HPQ.
Chúng tôi tiến hành “Nghiên cứu hiệu quả
chương trình hướng dẫn kỹ thuật hít và sử dụng
bình xịt định liều cho người bệnh hen phế quản”
với các mục tiêu:
Xác định tỷ lệ người bệnh HPQ sử dụng
đúng kỹ thuật BXĐL trước và sau can thiệp.
Xác định mức độ kiểm soát cơn hen của
người bệnh HPQ trước và sau can thiệp bằng
test kiểm soát hen ACT (Asthma Control Test).
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh đủ 18 tuổi trở lên đến khám và
điều trị HPQ tại khoa Khám bệnh, khoa Nội
tổng quát thần kinh Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 203
Khánh Hòa, thời gian từ tháng 02/2019 - 6/2019.
Tiêu chí chọn vào
Người bệnh đủ 18 tuổi trở lên.
Chẩn đoán hen phế quản.
Đang sử dụng BXĐL.
Không có hoặc đã qua cơn hen nặng.
Tiêu chí loại ra
Chưa từng sử dụng BXĐL.
Người bệnh không thể thực hiện động tác ấn
xịt thuốc.
Người bệnh bị mù hoặc điếc.
Đang trong cơn hen nặng.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu bán thực nghiệm đánh giá trước
sau can thiệp với 64 người bệnh HPQ.
Phương pháp thu thập số liệu
Chọn mẫu theo tiêu chí chọn vào.
Thu thập số liệu bằng phương pháp phỏng
vấn thông tin cá nhân, quan sát trực tiếp người
bệnh thực hiện kỹ thuật sử dụng BXĐL và người
bệnh tự đánh giá mức độ kiểm soát cơn hen
bằng test kiểm soát hen ACT theo bộ câu hỏi
được thiết kế sẵn.
Nghiên cứu viên hướng dẫn kỹ thuật sử
dụng BXĐL đúng cho người bệnh. Phương pháp
hướng dẫn gồm:
+ Hướng dẫn từng kỹ thuật bằng lời nói.
+ Minh họa kỹ thuật bằng tờ thông tin về
cách sử dụng BXĐL.
+ Thực hiện minh họa kỹ thuật động tác cho
người bệnh xem.
Sau 1 tháng, đánh giá lại kỹ thuật sử dụng
BXĐL theo bảng kiểm và mức độ kiểm soát cơn
hen bằng test kiểm soát hen ACT.
Cách đánh giá:
+ Đánh giá kỹ thuật sử dụng BXĐL (6 bước):
Mỗi bước thực hành kỹ thuật BXĐL của người
bệnh sẽ được đánh giá đúng và sai. Đánh giá
thực hiện đúng kỹ thuật khi người bệnh thực
hiện đúng từ 5 bước trở lên.
+ Đánh giá mức độ kiểm soát cơn hen dựa
vào test ACT:
25 điểm: Hen được kiểm soát hoàn toàn.
20-24 điểm: Hen được kiểm soát tốt.
<20 điểm: Hen chưa được kiểm soát.
Phân tích dữ liệu
Quản lý số liệu và phân tích dữ liệu bằng
phần mềm SPSS 22.0.
Y đức
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng Y
đức Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số
37/ĐHYD-HĐĐĐ.
KẾT QUẢ
Qua nghiên cứu trên 64 người bệnh HPQ tại
khoa Khám bệnh, khoa Nội tổng quát thần kinh
bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa trong thời
gian từ tháng 02/2019 đến tháng 06/2019. Kết quả
nghiên cứu được trình bày như sau:
Đặc điểm người bệnh hen phế quản
Bảng 1. Đặc điểm người bệnh HPQ (n=64)
Đặc điểm người bệnh HPQ
Số người
bệnh
Tỷ lệ (%)
Tuổi TB ± ĐLC (53,7 ± 13,7)
18-40 12 18,8
41-60 28 43,7
>60 24 37,5
Giới
Nam 29 45,3
Nữ 35 54,7
Nơi cư trú
Thành phố Nha Trang 53 82,8
Khác 11 17,2
Trình độ học vấn
≤ Tiểu học 10 15,6
Trung học cơ sở 12 18,8
Trung học phổ thông 25 39,0
Trung cấp/ CĐ/ĐH/ Sau ĐH 17 26,6
Nghề nghiệp
Hưu trí/già 17 26,5
Cán bộ viên chức 10 15,6
Công nhân 6 9,4
Nông dân 2 3,1
Kinh doanh/buôn bán 9 14,1
Nội trợ 6 9,4
Khác 14 21,9
Số năm mắc bệnh HPQ
< 5 năm 18 28,1
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 204
Đặc điểm người bệnh HPQ
Số người
bệnh
Tỷ lệ (%)
5- 10 năm 18 28,1
> 10 năm 28 43,8
Thời gian sử dụng BXĐL
< 1 năm 5 7,8
1-5 năm 21 32,8
> 5 năm 38 59,4
Người hướng dẫn kỹ thuật sử dụng BXĐL
Người bệnh tự tham khảo 11 17,2
Bác sĩ 41 64,1
Điều dưỡng 7 10,9
Nhân viên nhà thuốc 5 7,8
Khác 0 0
Tuổi trung bình của người bệnh trong
nghiên cứu là 53,7 tuổi, nhóm tuổi từ 41-60
chiếm tỷ lệ cao nhất 43,7%. Tỷ lệ nữ chiếm 54,7%
cao hơn so với nam chiếm tỷ lệ 45,3%. Số người
bệnh có thời gian sử dụng BXĐL trên 5 năm
chiếm tỷ lệ cao nhất 59,4% và phần lớn người
bệnh được bác sĩ hướng dẫn sử dụng BXĐL
chiếm 64,1% (Bảng 1).
Tỷ lệ người bệnh hen phế quản thực hiện đúng
kỹ thuật sử dụng BXĐL trước và sau can thiệp
Trước can thiệp, người bệnh thực hiện đúng
bước 5 (Hít vào chậm và sâu qua miệng đồng
thời ấn bình xịt) chiếm tỷ lệ thấp nhất là 39,1%.
Sau can thiệp, tỷ lệ người bệnh thực hiện đúng
bước 5 tăng lên 76,7%, sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê p <0,001 (χ2) (Bảng 2).
Tỷ lệ người bệnh thực hiện đúng kỹ thuật
BXĐL trước khi được can thiệp chiếm 32,4%
thấp hơn so với 78,1% người bệnh sau khi can
thiệp, sự cải thiện có ý nghĩa thống kê với
p<0,001 (χ2) (Bảng 3).
Bảng 2. Tỷ lệ người bệnh hen phế quản thực hiện đúng từng bước kỹ thuật sử dụng BXĐL
Stt Trình tự các bước kỹ thuật sử dụng BXĐL
Trước can thiệp Sau can thiệp
P
Số NB (n=64) Tỷ lệ (%) Số NB (n=64) Tỷ lệ (%)
1 Mở nắp bình xịt 58 90,6 62 96,9 0,289
2 Giữ bình thẳng, lắc kỹ 41 64,1 57 89,1 0,002
3 Thở ra chậm 38 59,4 53 82,8 0,006
4 Ngậm kín miệng ống 42 65,6 56 87,5 0,007
5 Hít vào chậm và sâu qua miệng đồng thời ấn bình xịt 25 39,1 49 76,6 0,001
6 Nín thở 10 giây 36 56,3 50 78,1 0,029
Bảng 3. Tỷ lệ người bệnh hen phế quản sử dụng
đúng kỹ thuật BXĐL
Stt
Sử dụng kỹ
thuật BXĐL
Trước can thiệp Sau can thiệp
P Số NB
(n=64)
Tỷ lệ
(%)
Số NB
(n=64)
Tỷ lệ
(%)
1 Đúng kỹ thuật 22 32,4 50 78,1 <0,001
2
Chưa đúng
kỹ thuật
42 65,6 14 21,9
Mức độ kiểm soát cơn hen của người bệnh hen
phế quản theo ACT
Điểm trung bình kiểm soát cơn hen trước can
thiệp là 17,4±4,6 thấp hơn so với điểm trung bình
kiểm soát cơn hen sau can thiệp là 20,6±3,1, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001 (Bảng 4).
Bảng 4. Điểm trung bình giữa điểm kiểm soát cơn
hen trước can thiệp và sau can thiệp (n=64)
Điểm kiểm soát cơn hen
p Trước can thiệp
(TB ± ĐLC)
Sau can thiệp
(TB ± ĐLC)
17,4 ± 4,6 20,6±3,1 < 0,001
Tỷ lệ người bệnh kiểm soát hen hoàn toàn
trước can thiệp là 7,8% thấp hơn so với 17,2%
sau can thiệp, tỷ lệ người bệnh không kiểm soát
cơn hen giảm từ 67,2% trước can thiệp xuống
35,9% sau can thiệp. Sự cải thiện về mức độ kiểm
soát hen hoàn toàn và không kiểm soát có ý
nghĩa thống kê với p <0,001 (Bảng 5).
Bảng 5. Mức độ kiểm soát cơn hen của người bệnh hen phế quản theo ACT
Mức độ kiểm soát cơn hen
Trước can thiệp Sau can thiệp
p
Số NB(n=64) Tỷ lệ(%) TB±ĐLC Số NB(n=64) Tỷ lệ(%) TB±ĐLC
Kiểm soát hoàn toàn 5 7,8 25,0 11 17,2 25,0 <0,001
Kiểm soát tốt 16 25,0 22,0±1,6 30 46,9 21,4±1,3 0,148
Không kiểm soát 43 67,2 14,8±2,9 23 35,9 17,3±1,8 <0,001
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 205
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, người bệnh
HPQ có tuổi trung bình là 53,7 ± 13,7, tuổi thấp
nhất là 22 tuổi và cao nhất là 82 tuổi. Tỷ lệ nữ
chiếm 54,7% cao hơn so với nam chiếm tỷ lệ
45,3% và đa số người bệnh cư trú ở Thành phố
Nha Trang với tỷ lệ 82,8%. Người bệnh có trình
độ THPT trở lên chiếm đa số 65,6%, đây là một
điểm thuận lợi cho việc hướng dẫn kỹ thuật hít
và sử dụng BXĐL cho người bệnh.
Số người bệnh có thời gian sử dụng BXĐL
trên 5 năm chiếm tỷ lệ cao nhất 59,4% và phần
lớn người bệnh được bác sĩ hướng dẫn sử dụng
BXĐL chiếm 64,1%, chỉ có 10,9% người bệnh
được điều dưỡng hướng dẫn sử dụng BXĐL.
Điều này cho thấy, việc hướng dẫn kỹ thuật sử
dụng thuốc hít cho người bệnh chủ yếu đến từ
bác sĩ, điều dưỡng có hướng dẫn cho người bệnh
nhưng còn thấp, trong khi đó điều dưỡng có
nhiều thời gian tiếp xúc với người bệnh trong
quá trình tiếp nhận bệnh và theo dõi chăm sóc.
Tỷ lệ người bệnh hen phế quản thực hiện đúng
kỹ thuật sử dụng BXĐL trước và sau can thiệp
Trước can thiệp
Trên 64 người bệnh tham gia nghiên cứu
không có người bệnh nào thực hiện đúng hoàn
toàn các bước kỹ thuật sử dụng BXĐL theo
bảng kiểm nghiên của chúng tôi. Trong các
bước kỹ thuật sử dụng BXĐL, tỷ lệ người bệnh
thực hiện đúng kỹ thuật bước 5 (hít vào chậm
và sâu qua miệng đồng thời ấn bình xịt) là
thấp nhất chiếm 39,1%, lỗi người bệnh hay
mắc phải là hít vào nhanh và nông, ấn và hít
không đồng bộ. Chỉ có 56,3% người bệnh thực
hiện đúng kỹ thuật bước 6, do người bệnh
không nín thở lại hoặc nín thở ít hơn. Tỷ lệ
thực hiện đúng ở bước 3 là 59,4%, lỗi gặp phải
do người bệnh không thở ra trước khi hít.
Tỷ lệ người bệnh hen phế quản thực hiện
đúng từng bước kỹ thuật sử dụng BXĐL trước
can thiệp trong nghiên cứu của chúng tôi
tương đồng với tác giả Phạm Thị Thanh
Thúy(7), tuy nhiên có sự khác biệt với các tác
giả Jolly(5), Sanchis(10), Sodhi(11). Sự khác biệt
này có thể lý giải do sự khác nhau về địa điểm
nơi nghiên cứu, độ tuổi và trình độ học vấn
của đối tượng nghiên cứu. Do đó khi hướng
dẫn kỹ thuật sử dụng BXĐL nhân viên y tế cần
chú ý nhấn mạnh các bước hay sai và lỗi người
bệnh hay gặp để họ có thể thực hành chính xác
và đạt hiệu quả cao.
Sau can thiệp
Kỹ thuật sử dụng BXĐL của 64 người bệnh
trong nghiên cứu của chúng tôi đã cải thiện rõ ở
từng bước kỹ thuật. Cụ thể: tỷ lệ người bệnh
thực hiện đúng bước 2 tăng từ 64,1% lên 89,1%,
tỷ lệ người bệnh thực hiện đúng bước 3 tăng từ
59,4% lên 82,8%, tỷ lệ thực hiện đúng bước 4
tăng từ 65,6% lên 87,5%, tỷ lệ người bệnh thực
hiện đúng kỹ thuật BXĐL ở bước 5 tăng từ 39,1%
lên 76,6%, người bệnh thực hiện đúng kỹ thuật
bước 6 sau khi được hướng dẫn tăng lên 78,1%
và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p <0,05).
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi
tương đồng với nghiên cứu của Phạm Thị Thanh
Thúy(7) và Al-Kalalde(1) cho thấy các lỗi sai
thường gặp của người bệnh khi sử dụng BXĐL
có sự cải thiện đáng kể sau khi nhận được
chương trình giáo dục sức khỏe.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho
thấy tỷ lệ người bệnh thực hiện đúng kỹ thuật
BXĐL sau khi được can thiệp chiếm 78,1% cao
hơn so với 32,4% người bệnh trước khi can thiệp,
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001.
Kết quả này tương đồng với tác giả Phạm Thị
Thanh Thúy(7), Harnett(4) tuy nhiên cao hơn so
với nghiên cứu của tác giả Rodrigue(9).
Như vậy, qua các nghiên cứu đã khẳng định
rằng tỷ lệ người bệnh sử dụng thuốc hít đúng kỹ
thuật sẽ giảm dần theo thời gian nếu người bệnh
không được thường xuyên kiểm tra, đánh giá lại,
ngay cả ở những người bệnh đã có kinh nghiệm
lâu năm sử dụng thuốc hít(4,5). Vì vậy cần thiết
phải giáo dục thường xuyên, giáo dục lại kỹ
thuật sử dụng thuốc hít trong suốt cuộc đời của
người bệnh.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 206
Mức độ kiểm soát cơn hen của người bệnh hen
phế quản theo ACT
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
mức độ kiểm soát hen hoàn toàn của người bệnh
trước can thiệp là 7,8% thấp hơn so với 17,2%
sau can thiệp. Tương tự, mức độ kiểm soát hen
tốt của người bệnh trước can thiệp là 25% tăng
lên 46,9% sau khi can thiệp. Tỷ lệ người bệnh
không kiểm soát cơn hen giảm từ 67,2% trước
can thiệp xuống 35,9% sau can thiệp. Sự cải thiện
về mức độ kiểm soát hen hoàn toàn và không
kiểm soát có ý nghĩa thống kê với p <0,001.
Điểm trung bình kiểm soát cơn hen trước
can thiệp là 17,4 ± 4,6 thấp hơn so với điểm trung
bình kiểm soát cơn hen sau can thiệp là 20,6 ±
3,1, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
Mức độ kiểm soát cơn hen của người bệnh theo
ACT trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so
với tác giả Yildiz(14) nhưng cao hơn so với nghiên
cứu của Rodrigues(9), tuy nhiên đều cho thấy
người bệnh HPQ có sự cải thiện mức độ kiểm
soát cơn hen sau các chương trình giáo dục về kỹ
thuật hít và sử dụng BXĐL.
Các nghiên cứu cũng khẳng định kỹ thuật
hít không đúng cách và không chính xác làm
phức tạp việc kiểm soát hen, giáo dục người
bệnh sử dụng đúng kỹ thuật thuốc hít không
chỉ cải thiện việc kiểm soát các triệu chứng của
bệnh HPQ mà còn cho phép giảm liều trong
thời gian dài(2,8).
KẾT LUẬN
Chương trình hướng dẫn kỹ thuật hít và sử
dụng BXĐL của điều dưỡng đã cải thiện đáng kể
kỹ thuật sử dụng BXĐL đúng cho người bệnh
HPQ, góp phần nâng cao hiệu quả mức độ kiểm
soát hen của người bệnh.
Tuy nhiên, vẫn còn một tỷ lệ lớn người
bệnh sử dụng BXĐL chưa đúng kỹ thuật, đặc
biệt là các bước quan trọng quyết định đến
hiệu quả sử dụng thuốc. Do đó, nhân viên y tế
đặc biệt là điều dưỡng thường xuyên kiểm tra
và hướng dẫn kỹ thuật sử dụng thuốc hít của
người bệnh mỗi lần tái khám hoặc nhập viện
để đảm bảo người bệnh có kỹ thuật sử dụng
thuốc hít thuần thục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Al-Kalaldeh M, El-Rahman M A, El-Ata A (2016). "Effectiveness
of nurse-driven inhaler education on inhaler proficiency and
compliance among obstructive lung disease patients: A quasi-
experimental study". Canadian Journal of Nursing Research,
48(2):48-55.
2. Arora P, Kumar L, Vohra V, et al (2014). "Evaluating the
technique of using inhalation device in COPD and bronchial
asthma patients". Respiratory Medicine, 108(7):992-8.
3. Bùi Thị Hương, Bùi Văn Dân, Hoàng Thị Lâm (2016). "Đánh giá
mức độ kiểm soát hen bằng ACT đối với bệnh nhân câu lạc bộ
hen bệnh viện đại học Y Hà Nội". Tạp chí Nghiên cứu Y học,
99(1):131-136.
4. Harnett CM, Hunt EB, Bowen BR, et al (2014). "A study to assess
inhaler technique and its potential impact on asthma control in
patients attending an asthma clinic". Journal of Asthma, 51(4):440-5.
5. Jolly GP, Mohan A, Guleria R, et al (2015). "Evaluation of
metered dose inhaler use technique and response to educational
training". Indian Journal of Chest Diseases and Allied Sciences,
57(1):17-20.
6. Neininger M P, Kaune A, Bertsche A, et al (2015). "How to
improve prescription of inhaled salbutamol by providing
standardised feedback on administration: a controlled
intervention pilot study with follow-up". BMC Health Services
Research, 15:40.
7. Phạm Thị Thanh Thúy (2018). "Hiệu quả giáo dục sức khỏe của
điều dưỡng nâng cao kiến thức về bệnh và thực hành sử dụng
dụng cụ hít ở người lớn mắc bệnh hen". Đại học Y Dược TP. Hồ
Chí Minh.
8. Purohit AN, Patel PP, Gandhi AM, et al (2017). "An evaluation
of impact of educational interventions on the technique of use of
metered-dose inhaler by patients". Indian Journal of Pharmacology,
49(2):194-200.
9. Rodrigues C D B, Pereira R P, Dalcin PTR (2013). "Effects of an
outpatient education program in patients with uncontrolled
asthma". Jornal Brasileiro de Pneumologia, 39(3):272-279.
10. Sanchis J, Gich I, Pedersen S (2016). "Systematic review of errors
in inhaler use: Has patient technique improved over time?"
Chest, 150(2):394-406.
11. Sodhi MK (2017). "Incorrect inhaler techniques in Western India:
still a common problem". International Journal of Research in
Medical Sciences, 5(8):3461-3465.
12. The Global Strategy for asthma management and prevention
global innitiative for asthma (2017). Pocket guide for asthma
Management and Prevention (for Adults and children older
than 5 years). GINA, pp.1-135.
13. Trần Thúy Hạnh, Nguyễn Văn Đoàn (2011). "Dịch tễ học và tình
hình kiểm soát hen ở người trưởng thành Việt Nam". Tạp chí Y
tế Công cộng, 4(2):123.
14. Yildiz F (2014). "Importance of inhaler device use status in the
control of asthma in adults: the asthma inhaler treatment study".
Respiratory Care, 59(2):223-30.
Ngày nhận bài báo: 30/07/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_chuong_trinh_huong_dan_ky_thuat_hit_va_su_dung_binh.pdf