Tài liệu Hiệu quả can thiệp truyền thông thay đổi thực hành vệ sinh tay của điều dưỡng Bệnh viện Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 410
HIỆU QUẢ CAN THIỆP TRUYỀN THÔNG THAY ĐỔI THỰC HÀNH
VỆ SINH TAY CỦA ĐIỀU DƯỠNG BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Đỗ Thị Hà*, Lâm Thị Thu Tâm*, Lê Văn Tỉnh*, Lê Thụy Bích Thủy*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) đang là vấn đề y tế toàn cầu do làm tăng tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ
tử vong, kéo dài ngày nằm viện và tăng chi phí điều trị. Trong các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn (KSNK), vệ
sinh tay (VST) từ lâu luôn được coi là biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả chương trình can thiệp thay đổi thực hành vệ sinh tay thường quy (VSTTQ)
của điều dưỡng Bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp không có nhóm chứng trên 251 điều dưỡng (ĐD)
đang công tác tại các khoa lâm sàng của bệnh viện Thống Nhất với phương pháp chọn mẫu theo cụm.
P...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 193 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả can thiệp truyền thông thay đổi thực hành vệ sinh tay của điều dưỡng Bệnh viện Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 410
HIỆU QUẢ CAN THIỆP TRUYỀN THÔNG THAY ĐỔI THỰC HÀNH
VỆ SINH TAY CỦA ĐIỀU DƯỠNG BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Đỗ Thị Hà*, Lâm Thị Thu Tâm*, Lê Văn Tỉnh*, Lê Thụy Bích Thủy*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) đang là vấn đề y tế toàn cầu do làm tăng tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ
tử vong, kéo dài ngày nằm viện và tăng chi phí điều trị. Trong các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn (KSNK), vệ
sinh tay (VST) từ lâu luôn được coi là biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả chương trình can thiệp thay đổi thực hành vệ sinh tay thường quy (VSTTQ)
của điều dưỡng Bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp không có nhóm chứng trên 251 điều dưỡng (ĐD)
đang công tác tại các khoa lâm sàng của bệnh viện Thống Nhất với phương pháp chọn mẫu theo cụm.
Phương pháp can thiệp bao gồm truyền thông trực tiếp lồng ghép tập huấn về VSTTQ được áp dụng. Phần
mềm thống kê SPSS 22.0 được sử dụng để phân tích số liệu. Phép kiểm Mc Nemar được sử dụng để đánh
giá sự thay đổi về kỹ thuật thực hành VSTTQ của điều dưỡng thông qua chương trình can thiệp, thống kê
có ý nghĩa khi giá trị p < 0,05.
Kết quả: Phần lớn điều dưỡng tham gia nghiên cứu là nữ (85,3%). Tỷ lệ điều dưỡng thực hành đúng kỹ
thuật vệ sinh tay thường quy tăng cao sau can thiệp, 96,4% so với 54,2% trước can thiệp.
Kết luận: Phương pháp can thiệp đã làm cải thiện đáng kể tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay ở điều dưỡng. Các cơ
sở y tế cần duy trì và tăng cường công tác truyền thông nhằm nâng cao tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay thường quy ở
nhân viên y tế góp phần nâng cao chất lượng điều trị và chăm sóc.
Từ khóa: vệ sinh tay, can thiệp, điều dưỡng
ABSTRACT
EFFECTIVENESS OF AN INTERVENTION PROGRAM TO IMPROVE HAND HYGIENE
COMPLIANCE AMONG NURSES IN THONG NHAT HOSPITAL
Do Thi Ha, Lam Thi Thu Tam, Le Van Tinh, Le Thuy Bich Thuy
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 410-416
Background: Hospital infections are a global health problem due to increased morbidity, mortality,
prolonged hospital stay, and increase treatment costs. Hand hygiene is a basis and most effective of infection
control strategies.
Objective: The aim of this study was to evaluate the effectiveness of communication intervention program to
enhand hand hygiene compliance among nurses in Thong Nhat Hospital, Ho Chi Minh City in 2017.
Methods: One group pretest – posttest design on 251 nurses working in clinical departments of Thong
Nhat Hospital undertaken a directly communication intervention on hand hygiene integrated with hand
hygiene training program. Cluster sampling method was applied to recruit the participants. The SPSS
version 22.0 was used to analyze data. Mc Nemar test was applied to evaluate the effectiveness of the
intervention pgrogram with p <0.05.
*Khoa Điều dưỡng–Kỹ thuật Y học, Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP. Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: TS.ĐD. Đỗ Thị Hà ĐT: 0944831458 E-mail: doha@pnt.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 411
Results: The majority of nurses participating in the study were female (85.3%). The reseults showed that,
there was a significant improvement of hand hygiene compliance among nurses after intervention program
(96.4%) compared to before intervention (54.2%) (p < 0.001).
Conclusion: The intervention program has made good improvements in hand hygiene compliance among
nurses. It is importance to maintain and enhance communication and training programs to improve routine hand
hygiene compliance among health care providers, contributing to improving the quality of treatment and care.
Keywords: hand hygiene, intervention, nurses
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) hay còn
gọi là nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế
đang là vấn đề y tế toàn cầu do làm tăng tỷ lệ
mắc bệnh, tỷ lệ tử vong, kéo dài ngày nằm
viện và tăng chi phí điều trị. Kiểm soát nhiễm
khuẩn (KSNK) là việc áp dụng đồng bộ các
biện pháp nhằm ngăn ngừa sự lan truyền các
tác nhân gây nhiễm khuẩn trong thực hành
khám bệnh, chữa bệnh (KBCB), là nội dung
quan trọng nhằm nâng cao chất lượng chăm
sóc người bệnh (NB) tại các cơ sở KBCB. Trong
các biện pháp KSNK, vệ sinh tay (VST) từ lâu
luôn được coi là biện pháp đơn giản và hiệu
quả nhất trong chăm sóc người bệnh (NB)(2).
Trong môi trường bệnh viện, mọi nơi bàn
tay đụng chạm vào đều có vi khuẩn trên đó.
Trong quá trình chăm sóc NB, bàn tay nhân viên
y tế (NVYT) thường xuyên bị ô nhiễm vi sinh vật
(VSV) có ở trên da NB cũng như ở bề mặt môi
trường bệnh viện. Thời gian thao tác càng dài thì
mức độ ô nhiễm bàn tay càng lớn. Không VST
trước khi chăm sóc NB là nguyên nhân quan
trọng làm lan truyền NKBV. Các VSV có ở bàn
tay ô nhiễm lan truyền trực tiếp sang NB thông
qua các thực hành chăm sóc hoặc gián tiếp do
bàn tay làm ô nhiễm các dụng cụ chăm sóc(2).
Nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng và
cộng sự tại bệnh viện Bạch Mai cho thấy bàn
tay NVYT bị ô nhiễm trung bình: 1,65 log
khuẩn lạc. Đáng chú ý, NVYT không thực hiện
bất kỳ thực hành chăm sóc nào trong buồng
bệnh có mức ô nhiễm bàn tay cao nhất (2,1
log)(6). Nghiên cứu này càng khẳng định sự cần
thiết phải VST thường xuyên, đặc biệt là VST
trước khi vào buồng bệnh. Bàn tay NVYT là
phương tiện lan truyền bệnh quan trọng trong
các vụ dịch NKBV.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ
tuân thủ VST ở NVYT thay đổi từ 13% - 81%,
tính chung là 40,5%. Tại Việt Nam, tuân thủ VST
trong các cơ sở KBCB hiện nay chưa tốt. Khảo
sát tại 10 bệnh viện năm 2005 cho thấy tỷ lệ tuân
thủ VST ở NVYT là 13,4%(6). Trong những năm
gần đây, tỉ lệ tuân thủ VST ở các cơ sở KBCB đã
cải thiện đáng kể, dao động từ 30% đến 40%. Có
nhiều yếu tố ảnh hưởng tới tuân thủ VST ở
NVYT gồm thiếu phương tiện, thiếu kiến thức,
thiếu NVYT (quá tải), lạm dụng găng, thiếu
kiểm tra giám sát và thiếu các biện pháp tạo
dựng thói quen VST(2). VST giúp loại bỏ VSV có
ở bàn tay. Hiệu quả loại bỏ VSV trên bàn tay của
thực hành VST phụ thuộc vào một số yếu tố như
kỹ thuật vệ sinh tay, thời gian vệ sinh tay, hóa
chất vệ sinh tay, mang đồ trang sức và móng tay
giả. VST không đúng quy trình sẽ không loại bỏ
hết được VSV trên tay.
Những năm gần đây, tuy đã có nhiều tiến bộ
trong kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện ở nước
ta, song tỷ lệ tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế
theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) vẫn còn thấp. Năm 2017, Bộ Y tế đã đưa
ra Hướng dẫn thực hành vệ sinh tay trong các cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh(2). Theo đó, thời điểm
vệ sinh tay thường quy được yêu cầu thực hiện
trước và sau khi NVYT tiếp xúc trực tiếp với mỗi
NB; trước khi thực hiện mỗi thủ thuật sạch/vô
khuẩn; ngay sau mỗi khi tiếp xúc với máu, dịch
cơ thể; sau tiếp xúc với bề mặt đồ dùng, vật
dụng trong buồng bệnh và một số tình huống
đụng chạm khác. Quy định về Kỹ thuật vệ sinh
tay thường quy, dù VST bằng xà phòng và nước
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 412
hoặc chà tay bằng dung dịch VST chứa cồn cần
thực hiện theo kỹ thuật 6 bước.
Bộ Y tế cũng khuyến cáo các cơ sở y tế hàng
năm cần tăng cường tổ chức tập huấn, đào tạo
và truyền thông về VST cho nhân viên y tế. Theo
nghiên cứu Mona và cộng sự (2013), tỷ lệ tuân
thủ rửa tay của nhân viên y tế sau can thiệp tăng
từ 43% lên 61,4%(9). Tại bệnh viện Hùng Vương,
nghiên cứu Phan Thị Hằng (2014) cho thấy tỷ lệ
tuân thủ rửa tay tăng từ 29% năm 2010 lên 40%
năm 2011 và 53% năm 2012 và nhiễm khuẩn
bệnh viện cũng giảm rõ rệt(8). Mục tiêu của
nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả chương
trình can thiệp bằng phương pháp truyền thông
trực tiếp trên việc thay đổi thực hành vệ sinh tay
thường quy (VSTTQ) của điều dưỡng từ đó
cung cấp thông tin hữu ích cho phòng kiểm soát
nhiễm khuẩn cùng các phòng ban chức năng của
bệnh viện duy trì và tăng cường công tác tập
huấn, truyền thông cho NVYT về VSTTQ, góp
phần phòng chống NKBV, nâng cao chất lượng
chăm sóc và điều trị.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là nghiên cứu can thiệp trước – sau
không có nhóm chứng trên 251 điều dưỡng
đang công tác tại 15 khoa lâm sàng của bệnh
viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu theo cụm được áp
dụng. Nghiên cứu viên lập danh sách và đánh số
thứ tự các tổ tại các khoa lâm sàng, Bệnh viện
Thống Nhất. Mỗi tổ bao gồm từ 9 đến 11 điều
dưỡng viên. 25 tổ (251 điều dưỡng) sau đó được
chọn ngẫu nhiên với hệ số k = 3 từ 85 tổ trong
bệnh viện.
Thời gian nghiên cứu
Tháng 7 đến tháng 12 năm 2017.
Tiêu chí chọn mẫu
Điều dưỡng công tác tại các khoa lâm sàng,
trực tiếp chăm sóc bệnh nhân và đồng ý tham
gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại trừ
Điều dưỡng đang mang thai, điều dưỡng
vắng mặt trong thời gian nghiên cứu.
Công cụ và quy trình thu thập số liệu
Nghiên cứu được chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1
Khảo sát thực trạng thực hành VST của điều
dưỡng trước can thiệp và chuẩn bị can thiệp. Ở
giai đoạn này, đối tượng nghiên cứu được quan
sát về thực hành kỹ thuật VSTTQ gồm 6 bước
theo bảng kiểm được soạn sẵn theo hướng dẫn
của Bộ Y tế: Bước 1: chà 2 lòng bàn tay vào nhau;
Bước 2: chà lòng bàn tay này lên mu bàn tay kia
và ngược lại; Bước 3: chà 2 lòng bàn tay vào
nhau, miết mạnh các ngón tay vào các kẽ ngón;
Bước 4: chà mu các ngón tay này lên lòng bàn
tay kia và ngược lại (mu tay để khum khớp với
lòng bàn tay); Bước 5: chà ngón cái của bàn tay
này vào lòng bàn tay kia và ngược lại (lòng bàn
tay ôm lấy ngón cái); Bước 6: chà các đầu ngón
tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại.
Giai đoạn 2
Giai đoạn thực hiện can thiệp. Ở giai đoạn
này, phương pháp truyền thông trực tiếp lồng
ghép tập huấn về VSTTQ được áp dụng. Lồng
ghép trong các buổi sinh hoạt điều dưỡng của
bệnh viện, các đối tượng nghiên cứu được mời
tham dự buổi truyền thông và tập huấn về
VSTTQ tại hội trường của Bệnh viện. Nội dung
truyền thông – giáo dục sức khỏe (GDSK) theo
hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới bao gồm
Tình hình và hậu quả NKBV; Lan truyền tác
nhân gây bệnh; Chiến lược phòng ngừa lan
truyền tác nhân gây bệnh; Chỉ định và đặc biệt
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ kỹ
thuật VSTTQ. Lồng ghép với lý thuyết là phần
hướng dẫn, tập huấn về thực hành VST theo kỹ
thuật 6 bước theo hướng dẫn của Bộ Y tế(12). Buổi
truyền thông trực tiếp và tập huấn kéo dài
khoảng 4 tiếng. Đối tượng nghiên cứu được
khuyến khích tương tác, tham gia thảo luận, chia
sẻ trong suốt buổi tập huấn. Ngoài truyền thông
nhóm lớn thì đối tượng nghiên cứu còn được
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 413
thảo luận theo nhóm nhỏ, mỗi nhóm khoảng 10
thành viên, và tư vấn trực tiếp cho các cá nhân
về vấn đề VSTTQ.
Việc truyền thông – Giáo dục sức khỏe
(GDSK), tập huấn và tư vấn được phụ trách bởi
các thành viên của nhóm nghiên cứu, là các
giảng viên của Khoa Điều dưỡng –Kỹ thuật Y
học, Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.
Để hạn chế sai lệch trong kết quả nghiên cứu, các
thành viên của nhóm nghiên cứu được tập huấn
kỹ và thống nhất quy trình thực hiện.
Giai đoạn 3
Giai đoạn đánh giá hiệu quả can thiệp. Một
tuần đến ba tháng sau chương trình can thiệp,
đối tượng nghiên cứu được quan sát việc thực
hành VSTTQ theo kỹ thuật 6 bước một cách
ngẫu nhiên trong thời gian đối tượng nghiên
cứu thực hành chăm sóc bệnh nhân theo bảng
kiểm được soạn sẵn theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
Sau đó, kết quả được so sánh giữa trước và sau
can thiệp nhằm đánh giá hiệu quả của chương
trình can thiệp.
Mỗi bước thực hiện VSTTQ của đối tượng
nghiên cứu được ghi nhận theo 3 mức độ từ
thấp đến cao: không thực hiện, có thực hiện
nhưng không đầy đủ hoặc không đúng, và thực
hiện đúng và đầy đủ. Không thực hiện hoặc có
thực hiện nhưng không đầy đủ hoặc không
đúng được 0 điểm, thực hiện đúng và đầy đủ
được 1 điểm. Tổng điểm tối thiểu thực hành kỹ
thuật VSTTQ là 0 điểm và tối đa là 6 điểm. Việc
tuân thủ kỹ thuật VSTTQ chung của điều dưỡng
được chia thành 2 nhóm Đạt và Không Đạt. Các
đối tượng nghiên cứu được 6 điểm được xếp vào
nhóm Đạt, < 6 điểm được xếp vào nhóm Không
Đạt. Trường hợp đối tượng nghiên cứu thực
hiện đủ 6 Bước trong kỹ thuật VSTTQ nhưng
không tuân thủ đúng về thời gian, lấy không đủ
dung dịch VST cho mỗi lần VST, không tháo đồ
trang sức (nếu có), để móng tay dài, hoặc làm
lộn trình tự các bước thì được xếp vào nhóm
không đạt.
Đạo đức trong nghiên cứu
Đề cương nghiên cứu được Hội đồng Khoa
học của Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc
Thạch và Hội đồng Đạo đức của Bệnh viện
Thống Nhất thông qua. Tên của đối tượng
nghiên cứu được mã hóa và tất cả thông tin liên
quan đến đối tượng nghiên cứu được bảo mật.
Việc tham gia vào nghiên cứu là hoàn toàn tự
nguyện và điều dưỡng được quyền dừng tham
gia bất cứ lúc nào, không cần thông báo lý do.
Xử lý và phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm thống kê SPSS 22.0 để
phân tích số liệu. Thống kê mô tả được sử
dụng để phân tích đặc điểm đối tượng nghiên
cứu, mô tả thực hành rửa tay đúng cách của
điều dưỡng (trước và sau khi can thiệp) theo
tần suất và tỷ lệ phần trăm. Sử dụng phép
kiểm Mc Nemar để đánh giá sự thay đổi về kỹ
thuật thực hành VSTTQ của điều dưỡng thông
qua chương trình can thiệp. Thống kê có ý
nghĩa khi giá trị p < 0,05.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu can thiệp trên 251 điều dưỡng
đang công tác tại các khoa lâm sàng của bệnh
viện Thống Nhất nhằm đánh giá hiệu quả
chương trình can thiệp truyền thông trực tiếp và
tập huấn về kỹ thuật vệ sinh tay thường quy của
điều dưỡng. Kết quả tại Biểu đồ 1 cho thấy phần
lớn điều dưỡng tham gia nghiên cứu là nữ,
chiếm 85,3%.
Biểu đồ 1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới
tính
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 414
Các bước thực hành kỹ thuật VSTTQ của điều
dưỡng trước và sau can thiệp
Bảng 1: Các bước thực hành kỹ thuật VSTTQ của
điều dưỡng trước và sau can thiệp (N = 251)
Trước can thiệp Sau can thiệp
VSTTQ Tần số (%) Tần số (%)
Bước 1
Không làm 9 3,6 1 0,4
Có làm 97 38,6 5 2,0
Làm tốt 145 57,8 145 97,6
Bước 2
Không làm 17 6,8 0 0,0
Có làm 97 38,6 10 4,0
Làm tốt 137 54,6 241 96,0
Bước 3
Không làm 15 6,0 3 1,2
Có làm 99 39,4 13 5,2
Làm tốt 137 54,6 235 93,6
Bước 4
Không làm 28 11,2 3 1,2
Có làm 93 37,1 19 7,6
Làm tốt 130 51,8 229 91,2
Bước 5
Không làm 29 11,6 3 1,2
Có làm 98 39,0 31 12,4
Làm tốt 124 49,4 217 86,5
Bước 6
Không làm 28 11,2 2 0,8
Có làm 107 42,6 42 16,7
Làm tốt 116 46,2 207 82,5
Bảng 1 cho thấy, trong tất cả 6 bước VSTTQ
trước can thiệp, tỉ lệ điều dưỡng không thực
hiện hoặc có thực hiện nhưng thực hiện không
đủ hoặc không đúng kỹ thuật VSTTQ chiếm
khoảng một nửa. Trong đó, bước 6 có tỉ lệ cao
nhất với 53,8%. Kết quả cũng cho thấy có sự thay
đổi rõ rệt từ không thực hiện hoặc có thực hiện
nhưng thực hiện không đủ hoặc không đúng kỹ
thuật giữa trước và sau khi can thiệp; tỉ lệ này
giảm mạnh sau can thiệp. Tỉ lệ điều dưỡng làm
đủ và đúng kỹ thuật ở tất cả các bước sau can
thiệp tăng cao so với trước can thiệp, trong đó
Bước 1 tỷ lệ làm tốt sau khi được truyền thông
và tập huấn đạt tới 97,6%, tỷ lệ này lúc chưa
được truyền thông và tập huấn chỉ đạt 57,8%.
Bảng 2 cho thấy tỷ lệ điều dưỡng đạt về thực
hành chung về kỹ thuật VSTTQ có sự thay đổi rõ
rệt giữa trước và sau khi được truyền thông –
GDSK, tập huấn và tư vấn. Trước khi được
truyền thông và tập huấn tỷ lệ này chỉ là 54,2%,
nhưng sau khi được truyền thông và tập huấn
thì đạt đến 96,4%.
Bảng 2: Thực hành chung kỹ thuật VSTTQ của điều
dưỡng trước và sau can thiệp (N = 251)
Trước can thiệp Sau can thiệp
VSTTQ Tần số (%) Tần số (%)
Đạt 136 54,2 242 96,4
Không đạt 115 45,8 9 3,6
Sự thay đổi thực hành VSTTQ trước và sau khi
can thiệp của điều dưỡng
Bảng 3: Thay đổi thực hành của điều dưỡng về kỹ
thuật VSTTQ (N = 251)
Trước
N (%)
Sau
N (%)
McNemar's
2
p –
value
Đạt 136(54,2) 242(96,4)
9,84 <0,001
Không đạt 115(45,8) 9(3,6)
Bảng 3 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về thực hành kỹ thuật VSTTQ của điều
dưỡng trước và sau can thiệp (p < 0,001).
BÀN LUẬN
Trước can thiệp, tỷ lệ điều dưỡng trong
nghiên cứu tuân thủ kỹ thuật VSTTQ đạt 54,2%.
Tỷ lệ này tương đương với kết quả khảo sát của
Mona (2016)(9), cao hơn kết quả trong một số
nghiên cứu khác(1,6,7,10,11) và thấp hơn kết quả
trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hà
(2012) về tỷ lệ tuân thủ rửa tay chung của NVYT
ở bệnh viện Nhi Đồng 1 là 62%(5) và Chen (2016)
ở Đài Loan là 62,3%(3).
Từ kết quả điều tra ban đầu và kết thúc
chương trình can thiệp cho thấy có sự cải thiện
rõ rệt về tuân thủ kỹ thuật VSTTQ của điều
dưỡng. Hiệu số thay đổi tỷ lệ thực hành chung
đạt trước – sau can thiệp của nhóm nghiên cứu
là 42,2%, tăng từ 54,2% trước can thiệp lên 96,4%
sau can thiệp. Kết quả này phù hợp với kết quả
từ một số nghiên cứu khác trên thế giới và Việt
Nam(1,3,4,8,11). Kết quả cho thấy có sự thay đổi rõ
ràng từ không thực hiện hoặc có thực hiện
nhưng thực hiện không đủ hoặc không đúng kỹ
thuật VSTTQ, đặc biệt là ở Bước 1 tỷ lệ làm tốt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 415
sau khi được truyền thông - GDSK và tập huấn
đạt tới 97,6%, tỷ lệ này khi chưa được truyền
thông - GDSK và tập huấn chỉ đạt 57,8%.
Tỷ lệ điều dưỡng không thực hiện và thực
hiện không đúng hoặc không đầy đủ các bước
đều xuất hiện ở cả trước và sau can thiệp; tuy
nhiên, ở thời điểm trước can thiệp tỷ lệ này đều
cao hơn so với sau khi can thiệp. Như ở bước 4
(chà mu các ngón tay này lên lòng bàn tay kia và
ngược lại), tỷ lệ này trước can thiệp lần lượt là
11,2% và 37,1% và sau can thiệp giảm mạnh chỉ
còn 1,2% và 7,6. Đặc biệt ở Bước 2 (chà lòng bàn
tay này lên mu bàn tay kia và ngược lại) không
có trường hợp nào không thực hiện và chỉ có 4%
đối tượng nghiên cứu thực hiện không đúng kỹ
thuật hoặc số lần chà tay không đầy đủ theo yêu
cầu sau can thiệp (Bảng 1).
Cũng dùng phương pháp truyền thông để
thay đổi hành vi rửa tay trong nghiên cứu
Nguyễn Thị Kim Liên và cộng sự tại Bệnh viện
nhi đồng 2 về việc đánh giá thực hành rửa tay
cho thấy thực hành đúng vệ sinh bàn tay trong
nhóm khảo sát đạt đến 90% sau can thiệp (4).
Nghiên cứu can thiệp của Arntz và cộng sự năm
2016 cho thấy tỷ lệ điều dưỡng tuân thủ vệ sinh
tay sau can thiệp tăng cao (46%) so với trước can
thiệp (18%)(1). Biện pháp can thiệp đa mô thức
trong cải thiện tỷ lệ tuân thủ VST tay của nhân
viên y tế của tác giả Trương Ngọc Hải và cộng
sự tại bệnh viện chợ rẫy cũng ghi nhận hiệu quả
với tỷ lệ tuân thủ rửa tay chung của nhân viên y
tế trước can thiệp là 25,8%, tăng lên đến 60,2
(±19,9%) sau can thiệp. Trong đó, mức độ tuân
thủ của điều dưỡng là cao nhất sau ca thiệp
(77,3%)(11).
Điều này cho thấy việc duy trì và tăng
cường các biện pháp can thiệp, truyền thông,
GDSK và tập huấn cho NVYT về tuân thủ
VSTTQ là cần thiết.
Sự khác biệt giữa phương pháp can thiệp
trong nghiên cứu này so với các nghiên cứu khác
đó là trong nghiên cứu này chúng tôi đã áp
dụng phương pháp truyền thông trực tiếp tích
cực lồng ghép với tập huấn cho đối tượng
nghiên cứu về kỹ thuật VSTTQ. Trong suốt buổi
truyền thông – GDSK và tập huấn, đối tượng
nghiên cứu được khuyến khích chủ động tương
tác, tham gia thảo luận, chia sẻ ý kiến của mình.
Sau khi truyền thông nhóm lớn thì đối tượng
nghiên cứu được chia thành từng nhóm nhỏ để
thảo luận và thực hành kỹ thuật VSTTQ. Ngoài
ra, đối tượng nghiên cứu còn được tư vấn trực
tiếp về những vấn đề liên quan đến VST. Do đó,
điều dưỡng có cơ hội chia sẻ về những thuận lợi
và khó khăn khi thực hiện VSTTQ trong thực tế.
Trong quá trình quan sát trước can thiệp,
chúng tôi nhận thấy một số lỗi điều dưỡng hay
mắc phải khi thực hành kỹ thuật VSTTQ đó là
không chà đủ 5 lần cho các bước, thời gian VST
quá ngắn so với quy định, lấy chế phẩm VST
chứa cồn quá ít, mang đồ trang sức ở tay khi
thực hiện kỹ thuật VSTTQ. Một số điều dưỡng
còn để móng tay dài và đặc biệt, rất nhiều điều
dưỡng không sử dụng khăn lau tay để khóa vòi
nước theo như hướng dẫn của Bộ Y tế. Những
trường hợp này, chúng tôi đã tư vấn trực tiếp và
nhấn mạnh trong buổi truyền thông – GDSK và
tập huấn. Tỷ lệ điều dưỡng mắc phải các lỗi trên
sau can thiệp đều giảm mạnh.
VST không đúng quy trình sẽ không loại bỏ
hết được VSV trên tay. Một số vị trí như đầu
ngón tay, kẽ móng tay, kẽ ngón tay, mu ngón cái
và mu bàn tay là những vùng NVYT thường bỏ
quên không chà tay, do vậy đã không được tiếp
xúc với hóa chất VST và VSV không được loại bỏ
ở những nơi này. VST đúng quy trình giúp loại
bỏ VSV ở bàn tay hiệu quả hơn. Nghiên cứu tại
bệnh viện Bạch Mai (2007) cho thấy số lượng
VSV ở tay NVYT thực hiện đúng kỹ thuật VST
(0,2 log), thấp hơn so với NVYT thực hiện VST
không đúng kỹ thuật (1,0 log). Thời gian VST
cũng ảnh hưởng tới mức độ loại bỏ vi khuẩn
trên bàn tay. Thực tế nghiên cứu tại Bệnh viện
Bạch Mai, lượng vi khuẩn ở 5 đầu ngón tay
NVYT sau VST ≥ 20 giây (0,7 log), giảm hơn
nhóm VST < 20 giây (1,1 log)(2). Theo các khuyến
cáo hiện nay, thời gian chà tay với hóa chất trong
VST thường quy là 20 giây - 30 giây. Việc mang
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 416
đồ trang sức cũng ảnh hưởng tới mức độ loại bỏ
VSV trên bàn tay. Vùng da ngón tay dưới chỗ
mang nhẫn chứa nhiều VSV gây bệnh hơn vùng
da không mang nhẫn. Các hướng dẫn thực hành
VST hiện nay khuyến cáo NVYT không để móng
tay dài, không mang nhẫn và các đồ trang sức
khác khi VST(2).
Việc tư vấn trực tiếp và nêu ra các lỗi thường
mắc của điều dưỡng trong thực hành VSTTQ
của điều dưỡng do đó cần được chú trọng trong
các chương trình can thiệp nhằm nâng cao hiệu
quả của chương trình.
Hạn chế của đề tài
Mặc dù nghiên cứu can thiệp được thực hiện
tại nhiều khoa lâm sàng khác nhau trong bệnh
viện; tuy nhiên, chỉ có nhóm can thiệp mà không
có nhóm chứng. Đây là một hạn chế của đề tài,
vì chỉ cho phép so sánh việc tuân thủ VSTTQ của
điều dưỡng trước và sau chương trình can thiệp
chứ không so sánh được giữa nhóm can thiệp và
nhóm chứng. Bên cạnh đó, việc đánh giá hiệu
quả của chương trình cũng chỉ mới dừng lại ở
việc đánh giá thực hành VSTTQ theo kỹ thuật 6
bước theo hướng dẫn của Bộ Y tế chứ chưa đánh
giá được hiệu quả của chương trình can thiệp
trong VSTTQ theo các thời điểm.
KẾT LUẬN
Điều dưỡng giữ vai trò trụ cột trong hệ
thống y tế ở tất cả các quốc gia. Chất lượng chăm
sóc ĐD và là một trong những nhân tố quyết
định chất lượng dịch vụ chăm sóc y tế. Từ trước
đến nay, ngành Y tế nước ta đã rất nỗ lực đẩy
mạnh tuyên truyền giáo dục nâng cao kiến thức
và thực hành phòng chống nhiễm khuẩn bệnh
viện cho nhân viên y tế, nhất là những đối tượng
trực tiếp và thường xuyên tiếp với bệnh nhân.
Những biện pháp can thiệp đa mô thức cũng
được áp dụng và mang lại những hiệu quả nhất
định. Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu chuyên biệt về
hiệu quả của truyền thông trực tiếp, chủ động có
tương tác lồng ghép tập huấn VSTTQ trên đối
tượng điều dưỡng. Kết quả từ nghiên cứu này
cho thấy tính hiệu quả tích cực của phương pháp
can thiệp nêu trên, từ đó có thể cung cấp những
thông tin hữu ích giúp các cơ sở y tế xây dựng
những chiến lược can thiệp thích hợp, hiệu quả
nhằm nâng cao tỷ lệ tuân thủ VSTTQ ở nhân
viên y tế nói chung và điều dưỡng nói riêng góp
phần hạn chế tới mức thấp nhất nhiễm khuẩn
bệnh viện, nâng cao tối đa chất lượng điều trị và
chăm sóc.
TÀI LIỆU THAM KHAO
1. Arntz PR et al (2016). Effectiveness of a multimodal hand
hygiene improvement strategy in the emergency department.
American Journal of Infection Control, pp 1203-07.
2. Bộ Y tế (2017). Hướng dẫn thực hành vệ sinh tay trong các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh. Hà Nội.
3. Chen JK et al (2016). Impact of implementation of the World
Health Organization multimodal hand hygiene improvement
strategy in a teaching hospital in Taiwan. American Journal of
Infection Control, 44(2):pp.222-227.
4. Nguyễn Thị Kim Liên (2013). Đánh giá thực hành rửa tay của
nhân viên y tế bệnh viện Nhi Đồng 2 năm 2013. Tạp chí Y học
Thành phố Hồ Chí Minh, 17(4):pp.71 -75.
5. Nguyễn Thị Thanh Hà và cộng sự (2012). Đánh giá tuân thủ vệ
sinh tay của nhân viên y tế bệnh viện Nhi Đồng 1 năm 2012. Tạp
chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 16(2):pp.128.
6. Nguyễn Việt Hùng và CS (2008). Thực trạng phương tiện vệ
sinh tay, nhận thức và thực hành vệ sinh bàn tay của nhân viên
y tế tại một số bệnh viện khu vực phía Bắc, 2005. Y học Lâm sàng
Bệnh viện Bạch Mai, 6:pp.136-141.
7. Phan HT et al (2018). An educational intervention to improve
hand hygiene compliance in Vietnam. BMC Infectious Diseases,
18:pp.116.
8. Phan Thị Hằng (2014). Hiệu quả chiến dịch Bàn tay sạch trong
cải thiện sự tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế và giảm nhiễm
khuẩn bệnh viện tại BV Hùng Vương. Y học Thành phố Hồ Chí
Minh, tập 18(6):pp.634 – 638.
9. Salama MF et al (2016). The effect of hand hygiene compliance
on hospital-acquired infections in an ICU setting in a Kuwaiti
teaching hospital. Journal of Infection and Public Health, 6:pp.27-34.
10. Trần Thị Mỹ Hạnh và cộng sự (2014). Khảo sát kiến thức - thái
độ - các yếu tố ảnh hướng đến vệ sinh tay của nhân viên y tế tại
BV Hùng Vương. Y học Thực hành, 904:pp.96-99.
11. Trương Ngọc Hải và cộng sự (2013). Hiệu quả của biện pháp
can thiệp đa mô thức trong cải thiện tỷ lệ tuân thủ rửa tay của
nhân viên y tế tại khoa Nội Tổng Quát bệnh viện Chợ Rẫy. Y học
Thành phố Hồ Chí Minh, 17(1):pp.648 - 652.
12. World Health Organization (WHO) (2009). WHO Guidelines on
Hand Hygiene in Health Care. Geneva, Switzerland, pp.6.
Ngày nhận bài báo: 31/01/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/02/2019
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_can_thiep_truyen_thong_thay_doi_thuc_hanh_ve_sinh_t.pdf