Tài liệu Hiệu quả bảo vệ tế bào gan của tiền thích nghi với sevoflurane trong phẫu thuật cắt gan: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
113
HIỆU QUẢ BẢO VỆ TẾ BÀO GAN CỦA TIỀN THÍCH NGHI
VỚI SEVOFLURANE TRONG PHẪU THUẬT CẮT GAN
Doanh Đức Long*, Nguyễn Thị Ngọc Đào*, Nguyễn Thị Thanh**
TÓM TẮT
Mở đầu: Kiểm soát mạch máu trong phẫu thuật cắt gan giúp giảm mất máu, nhưng lại gây ra tổn thương
thiếu máu – tái tưới máu ở nhu mô gan còn lại. Hiệu quả bảo vệ tế bào gan của sevoflurane đối với tổn thương
thiếu máu – tái tưới máu trong phẫu thuật cắt gan chưa rõ ràng. Tiền thích nghi với sevoflurane có thể đem lại
hiệu quả bảo vệ trong phẫu thuật cắt gan có kiểm soát mạch máu.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả bảo vệ tế bào gan của tiền thích nghi với sevoflurane trong phẫu thuật cắt gan
có kiểm soát mạch máu vào.
Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng, mù đơn trên 66 bệnh
nhân cắt gan do ung thư tế bào gan, có kẹp chọn lọc – ngắt quãng cuống Glissonean của phân thùy gan ở thì cắt
nhu mô gan, được chia làm hai nhó...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả bảo vệ tế bào gan của tiền thích nghi với sevoflurane trong phẫu thuật cắt gan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
113
HIỆU QUẢ BẢO VỆ TẾ BÀO GAN CỦA TIỀN THÍCH NGHI
VỚI SEVOFLURANE TRONG PHẪU THUẬT CẮT GAN
Doanh Đức Long*, Nguyễn Thị Ngọc Đào*, Nguyễn Thị Thanh**
TÓM TẮT
Mở đầu: Kiểm soát mạch máu trong phẫu thuật cắt gan giúp giảm mất máu, nhưng lại gây ra tổn thương
thiếu máu – tái tưới máu ở nhu mô gan còn lại. Hiệu quả bảo vệ tế bào gan của sevoflurane đối với tổn thương
thiếu máu – tái tưới máu trong phẫu thuật cắt gan chưa rõ ràng. Tiền thích nghi với sevoflurane có thể đem lại
hiệu quả bảo vệ trong phẫu thuật cắt gan có kiểm soát mạch máu.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả bảo vệ tế bào gan của tiền thích nghi với sevoflurane trong phẫu thuật cắt gan
có kiểm soát mạch máu vào.
Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng, mù đơn trên 66 bệnh
nhân cắt gan do ung thư tế bào gan, có kẹp chọn lọc – ngắt quãng cuống Glissonean của phân thùy gan ở thì cắt
nhu mô gan, được chia làm hai nhóm: tiền thích nghi với sevoflurane (n=32) hoặc nhóm chứng (n=34). So sánh
nồng độ đỉnh alanine aminotransferase (ALT) và aspartate aminotransferase (AST) huyết thanh trong vòng 7
ngày sau mổ và nồng độ ALT, AST tại các thời điểm ngày hậu phẫu 0, 1, 3, 5, 7 giữa hai nhóm.
Kết quả: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm về nồng độ đỉnh ALT, AST, nồng độ men
gan ALT, AST tại thời điểm ngày hậu phẫu 1, 3, 5, 7. Nồng độ men gan ALT, AST ở thời điểm ngày hậu phẫu 0
ở nhóm tiền thích nghi với sevoflurane cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng.
Kết luận: Tiền thích nghi với sevoflurane không giúp làm giảm tổn thương tế bào gan trong phẫu thuật cắt
gan có kiểm soát mạch máu vào chọn lọc – ngắt quãng.
Từ khóa: tiền thích nghi, sevoflurane, phẫu thuật cắt gan, tổn thương thiếu máu – tái tưới máu.
ABSTRACT
HEPATOPROTECTIVE EFFECT OF PRECONDITIONING WITH SEVOFLURANE
IN LIVER RESECTION
Doanh Duc Long, Nguyen Thi Ngoc Dao, Nguyen Thi Thanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 22 - No 3- 2018: 113 - 120
Background: Vascular control reduces blood loss during liver resection, but it induces the ischemic –
reperfusion injury in the remnant liver. Hepatoprotective effects of sevoflurance to the ischemic –reperfusion
injury in liver resection is unclear. Preconditioning with sevoflurane may have protective effects in liver resection.
Objectives: Evaluate the hepatoprotective effects of preconditioning with sevoflurane in liver resection
performed under inflow occlusion.
Methods: In a randomized controlled single-blind trial, 66 patients underwent liver resection for
hepatocellular carcinomas, performed under intermittent selective clamping of the segmental branches of the
Glissonean pedicle during the dissection, were divided into 2 groups: preconditioning with sevoflurane group
(n=32) and control group (n=34). Peak serum values of alanine aminotransferase (ALT) and aspartate
aminotransferase (AST) within 7 postoperative days; ALT and AST on postoperative day 0, 1, 3, 5 and 7 between
2 groups were compared.
* Bộ môn Gây mê Hồi sức – Khoa Y – Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh.
** Bộ môn Gây mê Hồi sức – Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.
Tác giả liên lạc: BS Doanh Đức Long ĐT: 01682699063 Email: doanhduclong@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
114
Results: There was no significant difference between two groups in peak ALT and AST within 7
postoperative days, ALT and AST on postoperative day 1, 3, 5, 7. ALT and AST on postoperative day 0 were
significant higher in the preconditioning group.
Conclusions: Preconditioning with sevoflurane does not reduce liver damage in liver resection performed
under intermittent selective inflow occlusion.
Keywords: preconditioning, sevoflurane, liver resection, ischemic – reperfusion injury.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sevoflurane là một loại thuốc mê hô hấp
được sử dụng rộng rãi trong việc duy trì mê ở
nhiều loại phẫu thuật, và có bằng chứng cho
thấy sevoflurane có hiệu quả bảo vệ cơ tim trong
phẫu thuật bắc cầu mạch vành (6). Trong phẫu
thuật cắt gan, sevoflurane được sử dụng theo
nhiều cách như: tiền thích nghi bằng cách sử
dụng sevoflurane trước khi sự thiếu máu xảy
ra(1), duy trì mê bằng sevoflurane trong suốt cuộc
mổ(3,14), hay hậu thích nghi bằng cách sử dụng
sevoflurane sau khi kết thúc giai đoạn thiếu
máu(2). Các phương pháp sử dụng sevoflurane
này đem lại kết quả khác nhau trong các nghiên
cứu. Chính vì vậy, hiệu quả bảo vệ gan của
sevoflurane trong phẫu thuật cắt gan còn chưa
rõ ràng và cần có thêm những nghiên cứu để
chứng minh hiệu quả bảo vệ tế bào gan khỏi tổn
thương thiếu máu – tái tưới máu.
Mục tiêu nghiên cứu
- So sánh nồng độ đỉnh của ALT, AST trong
vòng 7 ngày sau phẫu thuật cắt gan ở hai nhóm
bệnh nhân có và không có tiền thích nghi với
sevoflurane.
- So sánh nồng độ ALT, AST sau phẫu thuật
cắt gan ở hai nhóm bệnh nhân có và không có
tiền thích nghi với sevoflurane tại các thời điểm
ngày hậu phẫu 0, 1, 3, 5, 7.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm ngẫu nhiên, có nhóm chứng,
mù đơn.
Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư tế
bào gan có chỉ định phẫu thuật chương trình cắt
gan có kiểm soát mạch máu trong mổ ở BV Đại
học Y Dược TP Hồ Chí Minh từ tháng 9/2016
đến tháng 5/2017. Tiêu chí nhận vào: ASA I-II-III;
tuổi từ 18 trở lên; không có tiền sử bệnh lý sốt
cao ác tính hay nghi ngờ bệnh lý sốt cao ác tính;
đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chí loại trừ: xơ
gan Child B - C theo thang điểm Child-Pugh;
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính; suy tim; bệnh tim
thiếu máu cục bộ; suy thận mạn.
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu được tính dựa theo số liệu trong
nghiên cứu của tác giả Beck – Schimmer (2008),
trong đó ALT ở nhóm không có và có tiền thích
nghi với sevoflurane lần lượt là μ1=717,71 U/L,
μ2 = 463,53 U/L, với σ1= 497,47 và σ2= 287,95(1).
Lựa chọn α = 0,05 và β = 0,2. Tính được cỡ mẫu
cho mỗi nhóm n = 40,13. Vậy cỡ mẫu cần thiết tối
thiểu là 41 bệnh nhân cho mỗi nhóm.
Phân nhóm ngẫu nhiên
Các bệnh nhân đủ điều kiện chọn vào và
không có điều kiện loại trừ được chia thành hai
nhóm theo phương pháp chia nhóm ngẫu nhiên
theo từng block (Permuted Block
Randomization) với tổ hợp là 4. Nhóm A là
nhóm chứng, không có tiền thích nghi với
sevoflurane. Nhóm B là nhóm can thiệp, có tiền
thích nghi với sevoflurane.
Biến số nghiên cứu
Biến số độc lập
Tiền thích nghi với sevoflurane (có / không).
Biến số phụ thuộc
+ Nồng độ ALT, AST tại các thời điểm ngày
hậu phẫu 0, 1, 3, 5, 7 (U/L)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
115
+ Nồng độ đỉnh ALT, AST (U/L): nồng độ
ALT, AST cao nhất trong vòng 7 ngày hậu phẫu.
Biến số kiểm soát nhiễu
Tuổi (năm); giới (nam/nữ); BMI = (cân
nặng)/(chiều cao)2; nồng độ ALT, AST trước
phẫu thuật (U/L); thiếu máu: có (hemoglobin <12
g/dl ở nữ, < 13 g/dl ở nam) / không; giảm tiểu
cầu: có (số lượng tiểu cầu < 150000/mm3) /
không; phân loại ASA: ASA I (bệnh nhân khỏe
mạnh, không mắc bệnh kèm theo)/ASA II (bệnh
nhân mắc bệnh hệ thống nhẹ, không giới hạn
chức năng các cơ quan trong cơ thể)/ ASA III
(bệnh nhân mắc một hoặc nhiều bệnh hệ thống
nặng, gây giới hạn chức năng các cơ quan trong
cơ thể); viêm gan siêu vi B: có (HbsAg dương
tính)/ không; viêm gan siêu vi C: có (anti-HCV
dương tính) / không; gây tê ngoài màng cứng (có
/ không); thời gian phẫu thuật (phút), tính từ lúc
rạch da đến lúc đóng da; thời gian gây mê
(phút), tính từ lúc bắt đầu khởi mê đến lúc rút
ống NKQ; lượng máu mất (ml; Vmáu mất =
Vbình hút + Vgạc – Vdịch rửa ; trong đó Vmáu
mất là thể tích máu mất (ml), V bình hút (ml) là
tổng thể tích dịch trong bình hút vào cuối cuộc
mổ, Vgạc (ml) là thể tích dịch thấm trong gạc
được tính bằng cách lấy trọng lượng gạc ướt
(gram) trừ đi trọng lượng gạc khô (gram) và ước
tính 1 gram dịch có thể tích là 1ml, Vdịch rửa
(ml) là tổng thể tích dung dịch dùng để rửa ổ
bụng trong mổ); lượng hồng cầu lắng truyền
(đơn vị); lượng huyết tương đông lạnh truyền
(đơn vị); lượng tiểu cầu truyền (đơn vị); lượng
kết tủa lạnh truyền (đơn vị); loại phẫu thuật: cắt
gan lớn (cắt từ 3 hạ phân thùy trở lên)/ cắt gan
nhỏ (cắt ít hơn 3 hạ phân thùy).
Phác đồ gây mê
Đặt catheter ngoài màng cứng đoạn T7 - T10
nếu không có chống chỉ định. Dẫn mê bằng,
fentanyl (2-3 mcg/kg) hoặc sufentanil 0,2
(mcg/kg), propofol TCI với nồng độ đích 4-6
mcg/ml, rocuronium 0,6mg/kg. Thở máy kiểm
soát. Duy trì mê khác nhau ở hai nhóm. Nhóm
A: duy trì mê bằng propofol TCI, điều chỉnh
nồng độ đích từ 3-6 mcg/ml để đạt BIS 40-60.
Nhóm B: duy trì mê bằng propofol TCI, điều
chỉnh nồng độ đích từ 3-6 mcg/ml để đạt BIS 40-
60, trước khi kẹp mạch máu gan 30 phút ngưng
propofol và chuyển qua sử dụng sevoflurane,
trong 5 phút đầu điều chỉnh nồng độ
sevoflurane cuối thì thở ra đạt 1,5 MAC (đo bằng
monitor) và tiếp tục duy trì nồng độ này trong 10
phút, sau đó ngưng sevoflurane và chuyển sang
propofol TCI.
Cả 2 nhóm đều được đặt catheter động mạch
quay và theo dõi huyết áp liên tục; đặt catheter
tĩnh mạch trung tâm đường tĩnh mạch cảnh
trong bên phải và theo dõi áp lực tĩnh mạch
trung tâm; lặp lại thuốc dãn cơ rocuronium
0,2mg/kg khi TOF ≥ 2; duy trì giảm đau ngoài
màng cứng (nếu được đặt catheter ngoài màng
cứng) bằng hỗn hợp thuốc levobupivacaine 0,1
% và fentanyl 2mcg/ml, truyền liên tục 4-8
ml/giờ điều chỉnh theo mức độ đau và huyết
động; lặp lại liều fentanyl hoặc sufentanyl khi
cần. Kết thúc phẫu thuật bệnh nhân được hoá
giải giãn cơ để đạt TOF ≥ 90 % , rút nội khí quản
khi đủ điều kiện, chuyển phòng chăm sóc sau
phẫu thuật.
Trong suốt quá trình phẫu thuật duy trì
huyết áp động mạch trung bình ≥ 70 mmHg,
duy trì CVP < 5 mmHg ở giai đoạn cắt nhu mô
gan bằng phương pháp hạn chế dịch truyền
(4ml/kg/h) trong phẫu thuật hoặc sử dụng
thuốc lợi tiểu furosemide nếu phương pháp
hạn chế dịch truyền không hiệu quả, và duy
trì lưu lượng nước tiểu ≥ 0,5 ml/kg/h. Xử trí tất
cả các tai biến, biến chứng khi có theo phác đồ
của khoa Gây mê hồi sức, Bệnh viện Đại học Y
Dược TP.HCM.
Kiểm soát đau sau phẫu thuật theo phương
pháp điều trị giảm đau đa mô thức theo phác đồ
của bệnh viện. Các xét nghiệm được thực hiện
sau phẫu thuật theo phác đồ của bệnh viện,
trong đó men gan ALT, AST được lấy vào các
thời điểm: ngày hậu phẫu 0, 1, 3, 5, 7 và tại bất kỳ
thời điểm nào bác sĩ điều trị thấy cần thiết.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
116
Phương pháp kiểm soát mạch máu
Tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM,
tất cả các bệnh nhân phẫu thuật cắt gan điều
trị ung thư tế bào gan đều được cắt gan theo
giải phẫu, trong đó các nhánh của cuống
Glissonean phân bố cho thùy gan/ hạ phân
thùy gan cần cắt được kẹp liên tục, nhánh cho
phần nhu mô gan còn lại sẽ được kẹp ngắt
quãng theo chu kỳ 15 phút kẹp – 5 phút xả kẹp
cho đến khi cắt xong nhu mô gan(16).
Thu thập và xử lý số liệu
Thu thập số liệu theo phiếu thu thập số liệu
và được quản lý số liệu bằng phần mềm
EpiData. Sử dụng phần mềm Stata 13 để phân
tích số liệu và giá trị p < 0,05 được xem là sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê.
Biến số định lượng được kiểm định phân
phối chuẩn bằng kiểm định Shapiro – Wilk.
Những biến số nếu có phân phối chuẩn thì được
trình bày dưới dạng “trung bình ± độ lệch
chuẩn” và so sánh sự khác biệt giữa hai nhóm
bằng kiểm định student (t-test), nếu không có
phân phối chuẩn thì trình bày dưới dạng “trung
vị (khoảng tứ phân vị)” và so sánh sự khác biệt
giữa hai nhóm bằng kiểm định phi tham số
Mann- Whitney. Các biến số định tính được
trình bày bằng tần số và tỷ lệ phần trăm; so sánh
giữa hai nhóm bằng kiểm định chi bình phương
hoặc kiểm định chính xác Fisher).
Y đức trong nghiên cứu
Tất cả các thuốc và thiết bị được sử dụng
trong nghiên cứu đều an toàn, đã và đang được
sử dụng theo phác đồ của bệnh viện. Bệnh nhân
được chuẩn bị trước, trong và sau mổ theo phác
đồ của Bệnh viện Đại học Y Dược TP.Hồ Chí
Minh, dưới sự giám sát - hướng dẫn – đồng ý
của người hướng dẫn, lãnh đạo khoa và các bác
sĩ điều trị. Tất cả các bệnh nhân đều được giải
thích nội dung nghiên cứu, giải đáp thắc mắc và
kí tên vào biên bản đồng thuận tham gia nghiên
cứu một cách tự nguyện. Đề cương nghiên cứu
được thông qua và cho phép bởi Hội đồng duyệt
đề cương – Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh,
Hội đồng y đức của Đại học Y Dược TP. Hồ Chí
Minh, Ban giám đốc và hội đồng y đức của Bệnh
viện Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian từ tháng 9/2016 đến tháng
5/2017 tại bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, có
66 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu, sau đó
được chia ngẫu nhiên vào hai nhóm: nhóm
chứng có 34 bệnh nhân, nhóm tiền thích nghi với
sevoflurane có 32 bệnh nhân.
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng trước phẫu thuật
Đặc điểm
Nhóm chứng
(n=34)
Nhóm tiền thích
nghi (n=32)
p
Giới, nam (%) 28(82,4) 25 (78,1) 0,67
*
Tuổi (TB ± ĐLC) 59,5 ± 8,7 58.9 ± 10,1 0,73
†
BMI (TB ± ĐLC) 22,4 ± 3,2 22,8 ± 2,7 0,59
†
Phân độ
ASA
II, n (%) 26 (76,5) 25 (78,1)
0,87
*
III, n (%) 8 (23,3) 7 (23,3)
*: So sánh bằng kiểm định chi bình phương; †: so sánh bằng
kiểm định student (t-test); BMI: chỉ số khối cơ thể (Body’s
Mass Index); ASA: American Society of Anesthesiologists
Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về các
đặc điểm: tuổi, giới tính, BMI, phân độ ASA, tỷ
lệ thiếu máu, tỷ lệ giảm tiểu cầu, tỷ lệ nhiễm
viêm gan siêu vi B, C và nồng độ men gan trước
phẫu thuật (Bảng 1, Bảng 2).
Bảng 2: Đặc điểm cận lâm sàng trước phẫu thuật
Đặc điểm Nhóm chứng (n = 34) Nhóm tiền thích nghi (n = 32) p
Có thiếu máu n (%) 5(14,7) 5 (15,6) 0,92
*
Có giảm tiểu cầu n (%) 9(26,5) 4 (12,5) 0,22
†
Có VGSV B, n (%) 17(50,0) 16 (50,0) 1,00
*
Có VGSV C, n (%) 8(23,5) 8 (25,0) 0,89
*
Men gan trước
phẫu thuật
AST trước mổ (U/L)
¶
40,0 (31-48) 41,5 (26-62,5) 0,85
‡
ALT trước mổ (U/L)
¶
37,0 (21-52) 39,0 (23-63) 0,37
‡
*: so sánh bằng kiểm định chi bình phương;
†: so sánh bằng kiểm định chính xác Fisher;
‡: so sánh bằng kiểm định Mann – Whitney;
¶: trung vị (khoảng tứ phân vị)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
117
Về đặc điểm của cuộc phẫu thuật, có sự
tương đồng giữa hai nhóm về loại phẫu thuật
cắt gan, tỷ lệ bệnh nhân có gây tê ngoài màng
cứng, lượng chế phẩm máu cần truyền, thời
gian phẫu thuật và thời gian gây mê (Bảng 3).
Bảng 3: Đặc điểm của cuộc phẫu thuật
Đặc điểm Nhóm chứng (n=34) Nhóm tiền thích nghi (n=32) p
PT cắt gan lớn n(%) 17 (50,0) 14 (43,8) 0,61
*
Có gây tê NMC n (%) 22 (64,7) 24 (75,0) 0,36
*
Lượng máu mất, trung vị (khoảng tứ phân vị), ml 200 (150-300) 275 (125-300) 0,14
†
Truyền máu/chế phẩm máu,
trung vị (khoảng tứ phân vị)
Hồng cầu lắng, (đơn vị) 0 (0-0) 0 (0-0) 0,26
†
Tiểu cầu, (đơn vị) 0 (0-0) 0 (0-0) 0,33
†
Thời gian gây mê, trung bình ± độ lệch chuẩn, phút 241 ± 66 239 ± 71 0,87
‡
Thời gian phẫu thuật, trung bình ± độ lệch chuẩn, phút 178 ± 61 176 ± 65 0,94
‡
*: so sánh bằng kiểm định chi bình phương; †: so sánh bằng
kiểm định Mann – Whitney; ‡: so sánh bằng kiểm định
student (t-test); NMC: ngoài màng cứng
Bảng 4: Nồng độ đỉnh men gan trong vòng 7 ngày
sau phẫu thuật
Nồng độ đỉnh
men gan
Nhóm chứng
(n = 34)
Nhóm tiền thích
nghi n (n = 32)
p
†
ALT, U/L
*
236 (141-383) 300 (210-519) 0,24
AST, U/L
*
277 (187-531) 416 (255-496) 0,30
*: trung vị (khoảng tứ phân vị);
†: so sánh bằng kiểm định Mann – Whitney
Về mục tiêu so sánh nồng độ đỉnh men gan
giữa hai nhóm: không có sự khác biệt về nồng độ
đỉnh men gan ALT, AST trong vòng 7 ngày sau
phẫu thuật giữa nhóm có tiền thích nghi với
sevoflurane và nhóm chứng (Bảng 4).
Về mục tiêu so sánh nồng độ men gan ALT,
AST tại các thời điểm ngày hậu phẫu 0, 1, 3, 5, 7
giữa hai nhóm: kết quả cho thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ men
gan ALT, AST giữa hai nhóm tại các thời điểm
ngày hậu phẫu 1, 3, 5, 7. Ở nhóm tiền thích nghi
với sevoflurane, men gan ALT , AST tại thời
điểm ngày hậu phẫu 0 cao hơn có ý nghĩa thống
kê so với nhóm chứng (Biểu đồ 1, Biểu đồ 2); với
p = 0,047 đối với ALT và p = 0,0496 đối với AST.
Biểu đồ 1: Động học ALT sau phẫu thuật
*
*: p = 0,0496
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
118
Biểu đồ 2: Động học AST sau phẫu thuật
BÀN LUẬN
Trong phẫu thuật cắt gan, mất máu nhiều và
truyền máu là một trong các yếu tố làm tăng
biến chứng và tử vong sau mổ (5,7,13). Để làm giảm
lượng máu mất và giảm tỷ lệ truyền máu trong
phẫu thuật cắt gan, các phương pháp kiểm soát
mạch máu gan được áp dụng trong giai đoạn cắt
nhu mô gan(15). Tuy nhiên, việc kiểm soát mạch
máu gan gây ra tổn thương thiếu máu – tái tưới
máu cho phần nhu mô gan còn lại. Tổn thương
gan do thiếu máu - tái tưới máu cũng làm tăng tỷ
lệ biến chứng và tử vong sau mổ(12,17).
Tiền thích nghi là một hiện tượng mà trong
đó mô có biểu hiện đề kháng lại với tác hại của
thiếu máu - tái tưới máu, được tạo ra bằng cách
tiếp xúc trước với kẹp mạch máu hoặc sử dụng
những yếu tố hóa học xác định. Tiền thích nghi
tạo ra sự làm quen với stress cho tạng để gây ra
sự tăng cường hệ thống bảo vệ nội sinh, điều
này giúp tạng chịu đựng tốt hơn với tổn thương
tưới máu – tái tưới máu sau đó(8).
Nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục đích
xác định hiệu quả bảo vệ tế bào gan của phác đồ
tiền thích nghi với sevoflurane trong phẫu thuật
cắt gan bằng cách so sánh nồng độ đỉnh của men
gan (AST, ALT) trong vòng 7 ngày sau phẫu
thuật, so sánh nồng độ men gan tại các thời điểm
sau phẫu thuật giữa hai nhóm bệnh nhân có và
không có sử dụng phác đồ tiền thích nghi với
sevoflurane. Về mục tiêu so sánh nồng độ đỉnh
men gan, chúng tôi không tìm ra sự khác biệt về
nồng độ đỉnh men gan ALT, AST giữa hai nhóm
trong vòng 7 ngày sau mổ. Về mục tiêu so sánh
nồng độ men gan tại các thời điểm sau mổ,
chúng tôi nhận thấy động học men gan ALT,
AST giữa hai nhóm tương đồng với nhau. Men
gan ALT, AST tăng lên và đạt đỉnh vào ngày hậu
phẫu 0-1, giảm dần và trở về mức bình thường
vào khoảng ngày hậu phẫu thứ 5 – 7. Trong đó,
nồng độ men gan tại ngày hậu phẫu 0 cao hơn có
ý nghĩa thống kê ở nhóm tiền thích nghi. Các
thời điểm khác, nồng độ men gan ở hai nhóm là
tương đương nhau.
*: p = 0,047
*
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
119
Clavien (2003) áp dụng phương pháp tiền
thích nghi thiếu máu trong phẫu thuật cắt gan có
kẹp cuống gan liên tục, kết quả cũng cho thấy
nhóm được tiền thích nghi thiếu máu trước khi
kẹp cuống gan liên tục có nồng độ đỉnh men gan
thấp hơn(4). Petrowsky (2006) so sánh phương
pháp việc kẹp cuống gan ngắt quãng và tiền
thích nghi thiếu máu trong phẫu thuật cắt gan,
kết qua cho thấy nồng độ đỉnh men gan trong
vòng 7 ngày sau mổ ở hai nhóm là tương đương
nhau(9). Beck – Schimmer (2008) so sánh nồng độ
đỉnh men gan giữa hai nhóm bệnh nhân được
kẹp cuống gan liên tục trong phẫu thuật cắt gan,
kết quả cho thấy nhóm được sử dụng phác đồ
tiền thích nghi với sevoflurane có nồng độ đỉnh
men gan ALT, AST thấp hơn nhóm không được
tiền thích nghi(1). Beck – Schimmer (2012) so sánh
3 nhóm bệnh nhân: nhóm được sử dụng phác đồ
hậu thích nghi với sevoflurane trước khi kẹp
cuống gan liên tục, nhóm được kẹp mạch máu
ngắt quãng và nhóm kẹp cuống gan liên tục(2).
Kết quả cho thấy nhóm hậu thích nghi với
sevoflurane và nhóm kẹp mạch máu ngắt quãng
có nồng độ đỉnh men gan AST, ALT tương
đương nhau và thấp hơn nhóm kẹp mạch máu
liên tục. Điểm chung của các nghiên cứu trên là
nhóm can thiệp chỉ được áp dụng một phương
pháp bảo vệ gan: bằng cách kiểm soát cuống gan
(tiền thích nghi thiếu máu hoặc kẹp cuống gan
ngắt quãng) hoặc bằng thuốc (tiền thích nghi với
sevoflurane, hậu thích nghi với sevoflurane).
Scatton (2011) đánh giá hiệu quả bảo vệ
gan trong phẫu thuật cắt gan có kiểm soát
mạch máu bằng cách kết hợp hai phương
pháp tiền thích nghi thiếu máu và kẹp cuống
gan ngắt quãng, kết quả cho thấy so với nhóm
chỉ sử dụng kẹp cuống gan ngắt quãng, nhóm
sử dụng kết hợp hai biện pháp không làm
tăng hiệu quả bảo vệ(11). Rodriguez (2015) so
sánh việc kết hợp phương pháp tiền thích nghi
thiếu máu hoặc tiền thích nghi với sevoflurane
với phương pháp kẹp cuống gan ngắt
quãng(10). Kết quả cho thấy, so với chỉ kẹp
cuống gan ngắt quãng, việc sử dụng thêm một
phương pháp bảo vệ gan khác không làm tăng
thêm hiệu quả bảo vệ. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, khi so sánh nhóm can thiệp được áp
dụng phác đồ tiền thích nghi kết hợp với kẹp
cuống gan ngắt quãng với nhóm chứng chỉ
được kẹp cuống gan ngắt quãng, không tìm
thấy sự khác biệt về nồng độ đỉnh men gan
giữa hai nhóm. Kết quả này cũng tương tự
như các kết quả của Scatton (2011)(11) và
Rodriguez (2015)(10). Như vậy, có thể lý do
không tìm thấy sự khác biệt giữa hai nhóm
trong nghiên cứu của chúng tôi đó là cả hai
nhóm bệnh nhân đều được áp dụng phương
pháp kẹp cuống gan ngắt quãng.
Hạn chế của nghiên cứu của chúng tôi là chỉ
đánh giá hiệu quả bảo vệ tế bào gan thông qua
kết quả xét nghiệm nồng độ men gan trong
huyết thanh mà không đánh giá qua các kết cục
lâm sàng như thời gian nằm viện, thời gian nằm
hồi sức, tỷ lệ biến chứng, tỷ lệ tử vong. Ngoài ra,
số lượng bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu
chưa đạt được cỡ mẫu như đã tính toán.
KẾT LUẬN
Trong phẫu thuật cắt gan có kiểm soát mạch
máu vào theo phương pháp chọn lọc - ngắt
quãng, tiền thích nghi với sevoflurane không
giúp làm giảm nồng độ đỉnh men gan ALT, AST
trong vòng 7 ngày sau mổ, hay không giúp làm
giảm tổn thương tế bào gan do thiếu máu – tái
tưới máu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Beck-Schimmer B, Breitenstein S, Urech S et al (2008),
"Randomized Controlled Trial on Pharmacological
Preconditioning in Liver Surgery Using a Volatile Anesthetic",
Ann Surg. 248 (6), pp. 909-918.
2. Beck-Schimmer B, Breitenstein S, Bonvini J (2012), "Protection
of pharmacological postconditioning in liver surgery: results
of a prospective randomized controlled trial", Ann Surg. 256
(5), pp. 837-845.
3. Beck-Schimmer B, Bonvini JM, Schadde E et al. (2015),
"Conditioning with Sevoflurane in Liver Transplantation:
Results of a Multicenter Randomized Controlled Trial",
Transplantation. 99 (8), pp. 1606-1612.
4. Clavien PA, Selzner M, Rudiger HA et al. (2003), "A
prospective randomized study in 100 consecutive patients
undergoing major liver resection with versus without
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
120
ischemic preconditioning", Ann Surg. 238 (6), pp. 843-850;
discussion 851-842.
5. Gozzetti G, Mazziotti A, Grazi GL et al. (1995), "Liver
resection without blood transfusion", British Journal of Surgery.
82 (8), pp. 1105-1110.
6. Hồ Thị Xuân Nga, Nguyễn Thị Quý, Hoàng Anh Khôi. (2012),
"Hiệu quả bảo vệ cơ tim của sevoflurane trong phẫu thuật bắc
cầu động mạch vành", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. 16 (1),
pp. 277-283.
7. Kooby DA, Stockman J, Ben-Porat L et al (2003), "Influence of
transfusions on perioperative and long-term outcome in
patients following hepatic resection for colorectal metastases",
Ann Surg. 237 (6), pp. 860-869; discussion 869-870.
8. Pandey CK, Nath SS, Pandey VK et al (2013), "Perioperative
ischaemia-induced liver injury and protection strategies: An
expanding horizon for anaesthesiologists", Indian Journal of
Anaesthesia. 57 (3), pp. 223-229.
9. Petrowsky H, McCormack L, Trujillo M et al (2006), "A
Prospective, Randomized, Controlled Trial Comparing
Intermittent Portal Triad Clamping Versus Ischemic
Preconditioning with Continuous Clamping for Major Liver
Resection", Ann Surg. 244 (6), pp. 921-930.
10. Rodriguez A, Taura P, Garcia Domingo M I et al (2015),
"Hepatic cytoprotective effect of ischemic and anesthetic
preconditioning before liver resection when using intermittent
vascular inflow occlusion: a randomized clinical trial",
Surgery. 157 (2), pp. 249-259.
11. Scatton O, Zalinski S, Jegou D et al (2011), "Randomized
clinical trial of ischaemic preconditioning in major liver
resection with intermittent Pringle manoeuvre", Br J Surg. 98
(9), pp. 1236-1243.
12. Serracino-Inglott F, Habib N A, Mathie R T (2001), "Hepatic
ischemia-reperfusion injury", The American Journal of Surgery.
181 (2).
13. Shimada M, Matsumata T, Akazawa K et al (1994),
"Estimation of risk of major complications after hepatic
resection", Am J Surg. 167 (4), pp. 399-403.
14. Slankamenac K, Breitenstein S, Beck-Schimmer B et al (2012),
"Does pharmacological conditioning with the volatile
anaesthetic sevoflurane offer protection in liver surgery?",
HPB (Oxford). 14 (12), pp. 854-862.
15. Smyrniotis V, Farantos C, Kostopanagiotou G et al (2005),
"Vascular Control during Hepatectomy: Review of Methods
and Results", World Journal of Surgery. 29 (11), pp. 1384-1396.
16. Trần Công Duy Long, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Hoàng
Bắc và cs. (2013), "Áp dụng kỹ thuật phẫu tích cuống Glisson
ngã sau trong cắt gan theo giải phẫu điều trị ung thư tế bào
gan", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. 17 (1), pp. 48-53.
17. Weigand K, Brost S, Steinebrunner N et al (2012),
"Ischemia/Reperfusion injury in liver surgery and
transplantation: pathophysiology", HPB Surg. pp. 176723.
Ngày nhận bài báo: 17/01/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 09/02/2018
Ngày bài được đăng: 10/05/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_bao_ve_te_bao_gan_cua_tien_thich_nghi_voi_sevoflura.pdf