Hệ thống hóa, đánh giá những vấn đề cơ bản, cấp bách về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc - Vũ Hồng Phong

Tài liệu Hệ thống hóa, đánh giá những vấn đề cơ bản, cấp bách về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc - Vũ Hồng Phong: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ngày nhận bài: 14/4/2018; Ngày phản biện: 10/5/2018; Ngày duyệt đăng: 23/5/2018 (1) Đại học Lao động - Xã hội; e-mail: phongvhulsa@gmail.com Số 22 - Tháng 6 năm 2018 1. Hệ thống hóa, đánh giá các nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc và có thể chia thành bốn nhóm công trình nghiên cứu theo các nội dung chủ yếu sau: Một là, các công trình nghiên cứu hợp tác với các quốc gia láng giềng về công tác dân tộc. Cùng với các công trình khoa học nghiên cứu về quan hệ tộc người ở nước ta với các nước láng giềng, thì cũng có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng về công tác dân tộc như: Nguyễn Văn Cường (2007), “Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với Lào và Campuchia (1991 - 2006)”; Lâm Ngọc Uyên Trân (2008), “Hợp tác du lịch giữa Việt Nam và Campuchia: Th...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 480 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hệ thống hóa, đánh giá những vấn đề cơ bản, cấp bách về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc - Vũ Hồng Phong, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ngày nhận bài: 14/4/2018; Ngày phản biện: 10/5/2018; Ngày duyệt đăng: 23/5/2018 (1) Đại học Lao động - Xã hội; e-mail: phongvhulsa@gmail.com Số 22 - Tháng 6 năm 2018 1. Hệ thống hóa, đánh giá các nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc và có thể chia thành bốn nhóm công trình nghiên cứu theo các nội dung chủ yếu sau: Một là, các công trình nghiên cứu hợp tác với các quốc gia láng giềng về công tác dân tộc. Cùng với các công trình khoa học nghiên cứu về quan hệ tộc người ở nước ta với các nước láng giềng, thì cũng có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng về công tác dân tộc như: Nguyễn Văn Cường (2007), “Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với Lào và Campuchia (1991 - 2006)”; Lâm Ngọc Uyên Trân (2008), “Hợp tác du lịch giữa Việt Nam và Campuchia: Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ; Nguyễn Sĩ Tuấn (2006) “Cơ sở lịch sử, chính trị, xã hội và pháp lý của vùng biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia và đề xuất giải pháp ổn định, phát triển vùng biên giới hai nước”, đề tài cấp Nhà nước; Lê Thị Trường An (2006), “Quan hệ Việt Nam - Campuchia trong giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ”, Luận văn thạc sĩ; Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (2009), “Vùng biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia: Cơ sở lịch sử, chính trị, xã hội, pháp lý và các giải pháp phát triển bền vững, hài hòa”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học; Lò Giàng Páo (2010), “Điều tra đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc”, Báo cáo tổng hợp dự án, ủy ban dân tộc; Hoàng Hữu Bình (2010), “Cơ sở khoa học của việc đổi mới xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hocá và hội nhập quốc tế”, đề tài cấp bộ của Ủy ban dân tộc; Các công trình nghiên cứu trong nhóm đã đánh giá toàn diện về công tác hợp tác quốc tế với các nước láng giềng trong đó có hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc. Hầu hết các công trình đã nghiên cứu làm rõ đường lối, chính sách quan hệ hợp tác với các nước láng giềng, đánh giá những thành tựu và những tồn tại trong công tác này, làm rõ nguyên nhân và đề xuất các giải pháp tăng cường hợp tác với các quốc gia. Trong đó, các công trình khoa học cũng đa quan tâm xem xét với nhiều hướng tiếp cận và nội dung khác nhau. Đặc biệt, các công trình đã nghiên cứu đã làm rõ cơ sở khoa học để tăng cường hợp tác giữa các quốc gia trong giải quyết vấn đề về công tác dân tộc như phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng các vùng dân tộc thiểu số sát biên giới các nước, tăng cường trao đổi kinh nghiệm giữa các nước để triển khai hiệu quả công tác dân tộc. Hai là, các công trình nghiên cứu hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc với các nước trong khu vực HỆ THỐNG HÓA, ĐÁNH GIÁ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN, CẤP BÁCH VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG CÔNG TÁC DÂN TỘC* Vũ Hồng Phong(1) Trong công cuộc đổi mới đất nước, Công tác dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, tạo điều kiện để vùng dân tộc thiểu số phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo. Một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong thời gian qua, đặc biệt là giai đoạn từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) là vấn đề hợp tác quốc tế về công tác dân tộc. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc. Các công trình nghiên cứu đã có những đóng góp tích cực về lý luận, tổng kết thực tiễn và đề xuất kiến nghị, giải pháp. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc vẫn còn nhiều “khoảng trống”. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung hệ thống những công trình nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc, trên cơ sở đó chỉ rõ những “khoảng trống”, những vấn đề cơ bản cấp bách trong các nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc cần được nghiên cứu trong thời gian tới. Từ khóa: Công tác dân tộc, Hợp tác quốc tế về công tác dân tộc, những vấn đề cấp bách về công tác dân tộc, vấn đề cấp bách về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 15Số 22 - Tháng 6 năm 2018 Cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu các nội dung có liên quan đến vấn đề này, tuy nhiên hầu hết các công trình đều nghiên cứu tổng thể về mối quan hệ giữa nước ta với các quốc gia trong khu vực, tiêu biểu như các công trình: Trương Hồ Tố (2002) “Về cơ quan làm công tác dân tộc của một số quốc gia”, báo cáo tại hội thảo - Thực trạng và giải pháp kiện toàn hệ thống bộ máy cơ quan làm công tác dân tộc và miền núi hiện nay ở nước ta; Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu thực hiện dự án (2002), “Ổn định dân cư các xã biên giới Việt – Trung”; Lê Kim Khôi (2003), “Cơ sở khoa học về phân cấp quản lý công tác dân tộc ở nước ta”, kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ; Trương Hồ Tố (2004), báo cáo hội thảo “Công tác đối ngoại của Ủy ban dân tộc, hợp tác hay quan hệ”; Lò Giàng Páo (2010), “Điều tra đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt – Trung, báo cáo đề tài cấp bộ, Ủy ban dân tộc; Viện Quan hệ quốc tế (Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh) (2010), “Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995 đến nay: Thành tựu, vấn đề đặt ra và trển vọng”, Đề tài cấp bộ; Dương Thị Huệ (2011), “Hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào về đào tạo cán bộ trong hệ thống chính trị từ 1986 đến 2006”, Luận án tiến sĩ lịch sử. Các công trình trong nhóm đã nghiên cứu hợp tác toàn diện giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực, làm rõ lịch sử, quá trình hình thành và phát triển, thành tựu, nguyên nhân và những hạn chế, đề xuất các chủ trương và giải pháp tăng cường hợp tác với các quốc gia trong khu vực. Các công trình đã nghiên cứu mối quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có đề cập đến hợp tác giải quyết vấn đề về công tác dân tộc và tăng cường quan hệ giữa các dân tộc, các điều kiện hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong khu vực. Các công trình nghiên cứu trong nhóm đã đánh giá được những thành tựu, hạn chế về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc của Việt Nam với các nước trong khu vực , từ đó đề xuất các mô hình hợp tác phù hợp trong thời gian tới. Ba là, các công trình nghiên cứu về hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế trong và ngoài Việt Nam Cùng với việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong việc giải quyết vấn đề về công tác dân tộc, trong những năm qua, nước ta còn thực hiện hiệu quả các thỏa thuận theo chương trình hợp tác, quan hệ với nhiều nhà tài trợ quốc tế song phương và đa phương, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Cơ quan Hợp tác Phát triển Australia (AusAID), Liên minh Châu Âu (EU), Chính phủ Phần Lan, Cơ quan Hợp tác Phát triển Ai Len (IrishAid), Các tổ chức phi chính phủ (NGO)... Tuy nhiên, cho đến này các công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này chưa nhiều, chủ yếu là một số công trình nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm về các vấn đề an sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số, một số nghiên cứu về các chương trình, dự án đầu tư và viện trợ phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai thực hiện với nhiều nguồn lực trong và ngoài nước, đặc biệt là sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ đối với công tác dân tộc. Nhóm các nghiên cứu hợp tác quốc tế giữa Việt Nam và các quốc gia, các viện nghiên cứu, các tổ chức quốc tế về công tác dân tộc tập trung vào việc trao đổi kinh nghiệm, xây dựng và thực hiện công tác dân tộc. Các công trình nghiên thuộc nhóm này có thể kể đến là: Ủy ban dân tộc phối hợp với UNDP thực hiện dự án (2003) “Tăng cường năng lực cho cơ quan và chia sẻ thông tin trong mạng lưới nghiên cứu về dân bản địa, dân miền núi”, dự án do UNDP tài trợ; Tổ chức bảo thiên nhiên quốc tế (IUCN) (2004) “Kế hoạch du lịch cộng đồng SaPa”; Ủy ban dân tộc phối hợp với cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên hiệp quốc (UNODC) thực hiện dự án (2005), “Phòng chống lạm dụng ma túy trong đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, Phan Văn Hùng là giám đốc dự án, dự án được tài trợ bởi ngân sách của các tổ chức quốc tế (Nhà tài trợ Đan Mạch, UNODC và các tổ chức quốc tế khác); Ủy ban dân tộc phối hợp với UNDP thực hiện dự án VIE02/001 – SEDEMA EMPCD (2009), “Tăng cường Năng lực cho Ủy ban Dân tộc Xây dựng Thực hiện và Giám sát Chính sách Dân tộc”; Trần Thị Hạnh (2009), “Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi”, dự án do UNDP tài trợ; World Bank (2009), Ethnicity and development in Viet Nam” (Dân tộc và phát triển ở Việt Nam); Nguyễn Cao Thịnh, Phan Văn Hùng, Trần Thị Hạnh nghiên cứu (2010), “Phân tích và đánh giá thực trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi”, dự án được UNDP tài trợ; Ủy ban Dân tộc, (2011), “Lịch sử 65 năm cơ quan công tác dân tộc, 1946-2011” Sách chuyên khảo; Nguyễn Thị Lan Hương làm chủ nhiệm, Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã hợp tác với Viện Hanns Seidel của CHLB Đức thực hiện dự án (2013), “Rà soát chính sách an sinh xã hội đối với dân tộc thiểu số”; Nguyễn Thị Lan Hương (2012), “Định hướng mở rộng độ bao phủ an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020”, Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã hợp tác với Viện Hanns Seidel của CHLB Đức xây dựng báo cáo (2014), “An sinh xã hội đối với dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Rosa Luxemburg Stiftung (RLS) (2014) đã nghiên cứu “Tác động của Biến đổi khí hậu đến sinh kế người DTTS ở vùng Tây Bắc”, đề tài do Ông Lý Quang Tuấn làm trưởng nhóm nghiên cứu Các đề tài nghiên cứu trong nhóm này tập trung Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 16 Số 22 - Tháng 6 năm 2018 vào việc hợp tác với viện nghiên cứu các nước, hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm về công tác dân tộc, hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số. Các hoạt động hợp tác quốc tế này đã giúp ủy ban dân tộc tăng cường được việc trao đổi kinh nghiệm về thực hiện công tác dân tộc, đồng thời làm cho các nước, các tổ chức quốc tế hiểu rõ quan điểm, đường lối chính sách dân tộc của của Đảng, Nhà nước ta. Từ đó, quan tâm và có thiện chí hỗ trợ nguồn lực góp phần phát triển nguồn nhân lực, thực hiện xóa đói, giảm nghèo cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các đề tài nghiên cứu trong nhóm này cũng đã chỉ ra được vai trò của các tổ chức quốc tế trong việc hỗ trợ vốn và các nguồn lực khác để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số, hỗ trợ thực hiện các chính sách an sinh xã hôi đối với vùng dân tộc thiểu số, hỗ trợ tài chính cho các nghiên cứu về công tác dân tộc. Bốn là, Nhóm các nghiên cứu về các chương trình, dự án đầu tư và viện trợ phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số của các tổ chức phi chính phủ. Trong nhóm này, có thể kể đến các công trình nghiên cứu như: Lê Văn Sơn, (2005), Vai trò của các tổ chức phi chính phủ trong việc hô trợ kỹ thuật tăng cường năng lực cho người dân và đối tác địa phương miền núi phía Bắc”, Luận văn thạc sĩ ĐHKHXH&NV Hà Nội; Hồ Thạch (2008), với bài viết “Các tổ chức phi chính phủ nước ngoài song hành cùng Việt Nam trong phát triển y tế”; Đỗ Sơn Hà (2009) “Thực trạng và giải pháp về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, tổ chức phi chính phủ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; Duy Anh (2010), “Tổ chức phi chính phủ cần được nhìn nhận bình đẳng với cơ quan nhà nước ”, Tạp chí Khoa học và tổ Quốc số 11 tr 32-34; Phạm Bảo Khánh (2010), “Các tổ chức phi chính phủ trong việc hoạch định và thực thi chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ; Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức hội thảo “Tăng cường hợp tác giữa các cơ quan Nhà nước và các tổ chức phi chính phủ”, Kỷ yếu Hội nghị quốc tế tổ chức ngày 14/12/2013; Giàng Seo Phử (2014), “Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn quản lý nhà nước về công tác dân tộc thời kỳ đổi mới, đề xuất quan điểm, định hướng, giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về công tác dân tộc trong thời gian tới, Báo cáo tổng hợp UBDT; Các công trình nghiên cứu trong nhóm này đều khẳng định, trong những năm gần đây, các tổ chức phi chính phủ hoạt động ở Việt Nam đã đóng góp đáng kể vào các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, phát triển cộng đồng, góp phần cải thiện đời sống cho người nghèo, đồng bào ở vùng sâu vùng xa. Ngoài ra, các tổ chức phi chính phủ còn đưa ra các phương pháp thúc đẩy sự phát triển toàn diện của trẻ em, tham gia phản biện xã hội và vận động chính sách và các chương trình có liên quan đến trẻ em, đóng góp đáng kể vào công cuộc chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em của nước ta; chống biến đổi khí hậu và phòng chống HIV/AIDS cũng là lĩnh vực được các tổ chức phi chính phủ tích cực tham gia. Tổ chức phi chính phủ là một trong những nguồn lực hỗ trợ tích cực góp phần nâng cao đời sống cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số của Việt Nam. Các công trình nghiên cứu nêu trên cũng đã khẳng định trong hơn hai thập kỷ qua, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là một trong những nguồn lực quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc thiểu số tại Việt Nam. 2. Những vấn đề cấp bách cần nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc thời gian tới Qua việc hệ thống hóa các công trình nghiên cứu có liên quan đến hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc cho thấy, các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung nghiên cứu về việc hợp tác giữa Việt Nam với các quốc gia trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh tại các tỉnh miền núi gần biên giới giữa nước ta và các nước láng giềng và trong khu vực, nghiên cứu hợp tác quốc tế giữa các tổ chức của Việt Nam với các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ để phát triển nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số, các hoạt động nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm nhằm triển khai hiệu quả công tác dân tộc, một số đề tài nghiên cứu về những hợp tác trên phương diện hỗ trợ, tài trợ của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ đối với các hoạt động của công tác dân tộc như thực hiện an sinh xã hội đối với người dân tộc thiểu số, xây dựng cơ sở hạ tầng vùng dân tộc thiểu số Như vậy, có thể thấy là các công trình nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc vẫn chủ yếu tập trung vào một số nội dung có tính lặp đi lặp lại trong nhiều năm, còn nhiều nội dung chuyên sâu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc chưa được nghiên cứu, đặc biệt là những vấn đề mang tính cấp bách trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng của nước ta và trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang tới gần. Cụ thể, một số khoảng trống trong các nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc và những vấn đề cấp bạch cần tập trung nghiên cứu trong thời gian tới là: Thứ nhất, so với các lĩnh vực khác, vấn đề hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc còn chưa được đầu tư nghiên cứu nhiều, đặc biệt là các đề tài chuyên sâu về các nội dung hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc. Cho đến nay, chưa có công tŕnh nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về công tác hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc. Hầu hết các công trình đều nghiên cứu về công tác đối ngoại, ngoại Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 17Số 22 - Tháng 6 năm 2018 giao trên các lĩnh vực của đời sống mà chưa có công trình đi sâu nghiên cứu về công tác hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc. Thứ hai, các công trình nghiên cứu chưa đưa ra được khung lý thuyết, các nội dung cũng như các hoạt động chủ yếu của công tác dân tộc và chưa có luận giải sâu sắc về các nội dung được đưa ra. Các công trình mới đề cập đến các nội dung cụ thể, thực tiễn, thiên về mô tả, trình bày tư liệu và sự phân tích, đánh giá, luận giải còn thiếu sức thuyết phục. Dẫn đến việc tổng kết đánh giá thực trạng còn thiếu khung lý thuyết dẫn dắt, thiếu nền tảng lý luận cho những nhận xét, đánh giá. Thứ ba, có rất ít những công trình nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành theo quy trình từ xây dựng lý thuyết đến áp dụng nghiên cứu và đề xuất giải pháp. Nhiều công trình nghiên cứu chủ yếu dựa vào tài liệu thống kê thứ cấp, hoặc có triển khai thực địa nhưng không được tuân theo quy trình mang tính thực nghiệm. Thứ tư, hợp tác quốc tế về công tác dân tộc được thực hiện ở nhiều cấp độ và hình thức khác nhau nhưng cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá tính hiệu quả của của từng chương trình, dự án để chỉ rõ mô hình hợp tác nào có hiệu quả cần phát huy, mô hình nào thiếu tính khả thi, thiếu cơ sở khoa học để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp và thiếu những công trình nghiên cứu làm rõ các mô hình hợp tác có hiệu quả trên thế giới để áp dụng ở Việt Nam. Thứ năm, còn nhiều nội dung về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc chưa được nghiên cứu, đi sâu, làm rõ và đặc biệt là chưa có các công trình khoa học đi sâu nghiên cứu các hình thức, nội dung hợp tác quốc tế có tính đặc thù trên lĩnh vực công tác dân tộc. Thứ sáu, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu về hợp tác quốc tế nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác dân tộc, chưa có công trình nghiên cứu tổng hợp kinh nghiệm nâng cao năng lực cán bộ làm công tác dân tộc giữa các nước. Thứ bảy, chưa có những công trình nghiên cứu về hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong việc quản lý các dòng người di cư, quản lý các nhóm dân tộc thiểu số di cư từ nước khác đến hình thành nhóm dân tộc thiểu số ở nước sở tại. Hiện nay sự di cư của các tộc người sang các nước láng giềng là rất phổ biến, hình thành nên nhóm dân tộc thiểu số ở nước mà họ di cư đến. Như ở Việt Nam hiện nay, từ sự di cư hình thành nên các dân tộc thiểu số như người hoa, người Khmer, người Chăm và gần đây người Thái, người Mã Lai cũng di cư sang nước ta khá nhiều hình thành nhóm dân tộc thiểu số ở nước ta. Đây là xu hướng tất yếu của sự di cư của người Việt ra các nước và các nước vào Việt Nam hình thành nhóm dân tộc thiểu số của nước sở tại. Tuy nhiên, việc quản lý những dòng di cư này như thế nào? Việc quản lý nhóm người này sinh sống tại Việt Nam ra sao? Giữa các nước cần có sự hợp tác trong quản lý các dòng di cư, quản lý các nhóm dân tộc thiểu số đến từ nước khác như thế nào? Đây là vấn đề đáng quan tâm đang đặt ra cho Việt Nam và các nước trên thế giới. Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu về vấn đề này. Thứ tám, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang được bàn luận rộng rãi, nhiều công trình nghiên cứu đánh giá về tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến mọi mặt của đời sống xã hội nước ta. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về công tác dân tộc, chưa có nhiều các cuộc hội thảo, các bài viết đề cập về vấn đề này. Đây là một khoảng trống lớn trong nghiên cứu về công tác dân tộc nói chung và nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc nói riêng. Bởi thực tế cho thấy, cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra những thách thức lớn đối với công tác dân tộc trong thời kỳ mới. 3. Kết luận Nghiên cứu về hợp tác quốc tế nói chung và hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc cũng đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu đã có những đóng góp nhất định về lý luận, tổng kết thực tiễn, đề xuất các kiến nghị, giải pháp về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, còn nhiều khoảng trống trong các nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc, nhiều vấn đề cấp bách trong hợp tác quốc tế về công tác dân tộc. Do đó, trong thời gian tới, các nghiên cứu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc cần tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách trong công tác dân tộc như nghiên cứu, lựa chọn mô hình hợp tác quốc tế phù hợp với những đặc thù của dân tộc thiểu số của Việt Nam, cần tập trung nghiên cứu và triển khai các dự án hợp tác quốc tế nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác dân tộc, tập trung nghiên cứu các đề tài về hợp tác quốc tế trong phát triển công nghệ thông tin, giúp người dân vùng dân tộc thiểu số tiếp cận với công nghệ thông tin trong đời sống, phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, cần có những đề tài nghiên cứu về việc hợp tác giữa các quốc gia trong việc quản lý các dòng di cư giữa các nước, quản lý nhóm người, tộc người của nước khác di cư sang nước sở tại, cần có đề tài tổng hợp chuyên sâu về hợp tác quốc tế trong công tác dân tộc. / * Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp Nhà nước; “Hệ thống hóa, đánh giá các nghiên cứu về dân tộc và công tác dân tộc ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay”, Ủy ban Dân tộc. Tài liệu tham khảo [1] Lò Giàng Páo (2010), “Điều tra đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 18 Số 22 - Tháng 6 năm 2018 Nam – Trung Quốc”, Báo cáo tổng hợp dự án, ủy ban dân tộc; [2] Trương Hồ Tố (2002) “Về cơ quan làm công tác dân tộc của một số quốc gia”, báo cáo tại hội thảo - Thực trạng và giải pháp kiện toàn hệ thống bộ máy cơ quan làm công tác dân tộc và miền núi hiện nay ở nước ta; [3] Lò Giàng Páo (2010), “Điều tra đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt – Trung, báo cáo đề tài cấp bộ, Ủy ban dân tộc. [4] Lê Văn Sơn (2005), Vai trò của các tổ chức phi chính phủ trong việc hô trợ kỹ thuật tăng cường năng lực cho người dân và đối tác địa phương miền núi phía Bắc”, Luận văn thạc sĩ ĐHKHXH&NV Hà Nội; [5] Duy Anh (2010) đã viết bài, “Tổ chức phi chính phủ cần được nhìn nhận bình đẳng với cơ quan nhà nước ”, bài đăng trên tạp chí Khoa học và tổ Quốc số 11 tr 32-34; [6] Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức hội thảo “Tăng cường hợp tác giữa các cơ quan Nhà nước và các tổ chức phi chính phủ”, Kỷ yếu Hội nghị quốc tế tổ chức ngày 14/12/2013; [7] Ủy ban dân tộc phối hợp với UNDP thực hiện dự án (2003) “Tăng cường năng lực cho cơ quan và chia sẻ thông tin trong mạng lưới nghiên cứu về dân bản địa, dân miền núi”, dự án do UNDP tài trợ; [8] Ủy ban dân tộc phối hợp với cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên hiệp quốc (UNODC) thực hiện dự án (2005), “Phòng chống lạm dụng ma túy trong đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, Phan Văn Hùng là giám đốc dự án, dự án được tài trợ bởi ngân sách của các tổ chức quốc tế (Nhà tài trợ Đan Mạch, UNODC và các tổ chức quốc tế khác); [9] Ủy ban dân tộc phối hợp với UNDP thực hiện dự án VIE02/001 – SEDEMA EMPCD (2009), “Tăng cường Năng lực cho Ủy ban Dân tộc Xây dựng Thực hiện và Giám sát Chính sách Dân tộc”; [10] Trần Thị Hạnh (2009), “Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi”, dự án do UNDP tài trợ; [11] Nguyễn Cao Thịnh, Phan Văn Hùng, Trần Thị Hạnh nghiên cứu (2010), “Phân tích và đánh giá thực trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi”, dự án được UNDP tài trợ; [12] Nguyễn Thị Lan Hương làm chủ nhiệm, Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã hợp tác với Viện Hanns Seidel của CHLB Đức thực hiện dự án (2013), “Rà soát chính sách an sinh xã hội đối với dân tộc thiểu số”; [13] Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã hợp tác với Viện Hanns Seidel của CHLB Đức xây dựng báo cáo (2014), “An sinh xã hội đối với dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Rosa Luxemburg Stiftung (RLS) (2014) đã nghiên cứu “Tác động của Biến đổi khí hậu đến sinh kế người DTTS ở vùng Tây Bắc”, đề tài do Ông Lý Quang Tuấn làm trưởng nhóm nghiên cứu. [14] World Bank (2009), Ethnicity and development in Viet Nam” SYSTEMATIZATION AND EVALUATION OF URGENT AND BASIC ISSUES OF INTERNATIONAL COOPERATION IN ETHNIC AFFAIRS Vu Hong Phong Abstract: In innovate of the country, ethnic affairs has always been the Party and State have paid special attention to promote economic development - social, preserve and promote the cultural identity of peoples, created conditions for ethnic minority areas of sustainable development and hunger poverty reduce. One of the problems by the Party and State have paid special attention in the recent past, especially the period since Vietnam joined the World Trade Organization (WTO) is the issue of international cooperation on the ethnic affairs.. However, there have been many research projects on international cooperation in ethnic affairs. The research work has made positive contributions to theoretical, practical summaries and proposals and solutions. However, the study of international cooperation in ethnic affairs still exists, restrictions, and many “gaps” in the study of international cooperation in ethnic affairs. Within the scope of this article, the author focuses systematically study on international cooperation in ethnic affairs, on that basis, indicate the “gap”, the urgent issues in studies on international cooperation in ethnic affairs. Keywords: International Cooperation on ethnic affairs; the urgent issues of ethnic affairs; urgent issues of international cooperation in ethnic affairs

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf119_534_1_pb_2203_2151954.pdf