Tài liệu Hành động yêu cầu nhìn từ góc độ lợi - thiệt - Nguyễn Vân Khánh: 90 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v TRAO ĐỔI
NGUYỄN VÂN KHÁNH *
*Đại học Thăng Long, dklb.08@gmail.com
Ngày nhận bài: 09/8/2018; ngày sửa chữa: 11/9/2018; ngày duyệt đăng: 12/9/2018
1. MỞ ĐẦU
Lý thuyết hành động ngôn từ là lý thuyết về sự
hoạt động ngôn ngữ nghiên cứu mối quan hệ giữa
ký hiệu ngôn ngữ và việc dùng chúng vào mục
đích giao tiếp. John L. Austin (1962), nhà triết học
người Anh là người đầu tiên đặt nền móng cho
lý thuyết này với công trình nổi tiếng được công
bố sau khi ông qua đời được hai năm “How to do
things with words” (“Người ta dùng từ làm nên sự
vật như thế nào”).
Khi đề cập đến lý thuyết hành động ngôn từ
không thể không nhắc đến John Searle, với công
trình Speech Acts (Hành động ngôn từ) (1969).
Trong công trình này, ông cho rằng Austin đã
không nhận ra sự khác biệt giữa hành động ngôn
từ và động từ thể hiện hành động ngôn từ. Ông
HÀNH ĐỘNG YÊU CẦU
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LỢI - THIỆT
TÓM TẮT
Bài viết đề cập đến cách nhận ...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 557 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hành động yêu cầu nhìn từ góc độ lợi - thiệt - Nguyễn Vân Khánh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
90 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v TRAO ĐỔI
NGUYỄN VÂN KHÁNH *
*Đại học Thăng Long, dklb.08@gmail.com
Ngày nhận bài: 09/8/2018; ngày sửa chữa: 11/9/2018; ngày duyệt đăng: 12/9/2018
1. MỞ ĐẦU
Lý thuyết hành động ngôn từ là lý thuyết về sự
hoạt động ngôn ngữ nghiên cứu mối quan hệ giữa
ký hiệu ngôn ngữ và việc dùng chúng vào mục
đích giao tiếp. John L. Austin (1962), nhà triết học
người Anh là người đầu tiên đặt nền móng cho
lý thuyết này với công trình nổi tiếng được công
bố sau khi ông qua đời được hai năm “How to do
things with words” (“Người ta dùng từ làm nên sự
vật như thế nào”).
Khi đề cập đến lý thuyết hành động ngôn từ
không thể không nhắc đến John Searle, với công
trình Speech Acts (Hành động ngôn từ) (1969).
Trong công trình này, ông cho rằng Austin đã
không nhận ra sự khác biệt giữa hành động ngôn
từ và động từ thể hiện hành động ngôn từ. Ông
HÀNH ĐỘNG YÊU CẦU
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LỢI - THIỆT
TÓM TẮT
Bài viết đề cập đến cách nhận diện hành động yêu cầu (requests) dựa trên thang đo Lợi – Thiệt của
Leech. Có thể đưa ra nhận định rằng, mặc dù chưa thể xác định được ranh giới rõ ràng giữa hành
động yêu cầu với các hành động ngôn từ có quan hệ gần gũi khác như hành động ra lệnh/hạ lệnh
(orders/commands), hành động ngỏ lời (offers), hành động gợi ý (suggestions), hành động chỉ dẫn
(instructions), nhưng thang đo Lợi – Thiệt chứng tỏ có thể giúp chúng ta nhận diện được các hành
động yêu cầu trong giao tiếp. Để minh họa cho nhận định trên, 27 ví dụ liên quan đến hành động yêu
cầu rút ra từ các tác phẩm văn học song ngữ Anh – Việt được phân tích một cách chi tiết và cẩn trọng
dựa trên cách nhận diện lời yêu cầu nhìn từ góc độ Lợi – Thiệt. Kết quả bước đầu cho thấy, mô hình
của Leech là hữu dụng.
Từ khoá: hành động ngôn từ, hành động yêu cầu, hành động chỉ dẫn, phát ngôn ra lệnh/hạ lệnh,
thang đo lợi – thiệt
cũng đã giới thiệu ba tiêu chí phân loại hành động
ngôn từ cơ bản: (1) Đích tại lời (Illocutionary
point); (2) Hướng khớp ghép (Direction of fit)
giữa từ ngữ và hiện thực; (3) Trạng thái tâm lý
được thể hiện. Searle đã phân loại hành động tại
lời thành 5 lớp lớn: (1) Lớp xác nhận (assertives);
(2) Lớp cầu khiến (directives); (3) Lớp cam kết
(commissives); (4) Lớp biểu cảm (expressives); và
(5) Lớp tuyên bố (declarations).
Trái ngược với cách phân loại của Searle dựa
trên 3 tiêu chí, Leech (1983) đã đưa ra cách phân
loại dựa trên chức năng của hành động ngôn từ
và chia chúng thành 4 phạm trù, dựa trên việc các
chức năng ngôn trung liên quan đến các đích xã
hội: (1) Cạnh tranh (Competitive): đích tại lời
cạnh tranh với đích xã hội, ví dụ: yêu cầu, hỏi, ra
lệnh, cầu xin. (2) Vui vẻ (Convivial): đích tại lời
91KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
TRAO ĐỔI v
trùng với đích xã hội, ví dụ: ngỏ lời, mời, chào,
cảm ơn, chúc mừng. (3) Cộng tác (Collaborative):
đích tại lời không liên quan gì tới đích xã hội, ví
dụ: khẳng định, báo cáo, thông báo, hướng dẫn. (4)
Mâu thuẫn (Conflictive): Đích tại lời mâu thuẫn
với đích xã hội, ví dụ: đe doạ, buộc tội, nguyền
rủa, khiển trách.
Có rất nhiều cách phân loại hành động ngôn
từ khác nhau, nhưng phần lớn các tác giả đều nhất
trí cho rằng có một sự khu biệt quan trọng giữa
hành động ngôn từ trực tiếp và ngôn từ gián tiếp.
Hành động trực tiếp là khi “người nói nói những gì
họ muốn”, còn hành động gián tiếp là khi “người
nói muốn nhiều hơn những gì anh ta nói” (Searle,
Kiefer và Bierwisch 1980). Blum-Kulka, House
và Kasper (1989) định nghĩa sự trực tiếp là “mức
độ mà ý định tại lời của người nói rõ ràng từ sự
tạo lời” (Blum-Kulka, House và Kasper 1989,
278), trong khi sự gián tiếp “được tính bằng độ
dài tương đối của con đường suy luận cần thiết để
đến được đích ngôn trung của phát ngôn” (Blum-
Kulka 1987, 133).
Tại Việt Nam, hành động ngôn từ yêu cầu đã
và đang được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Trước hết, trong luận án tiến sĩ Các phương tiện
ngôn ngữ biểu hiện hành động thỉnh cầu trong
tiếng Anh và tiếng Việt (2000), tác giả Nguyễn
Văn Độ đã xét hành động thỉnh cầu (requests) với
nghĩa là người nói mong muốn người nghe làm
cho mình việc gì đó và theo tác giả, người nói có
trách nhiệm làm cho ngôn từ trong lời nhờ thật lịch
sự sao cho người nghe cảm thấy hài lòng hoặc vui
lòng thực hiện điều mà người nói kỳ vọng. Tác giả
cho rằng hành động thỉnh cầu luôn gắn với lịch
sự. Nhà nghiên cứu Vũ Thị Thanh Hương, qua bài
viết của mình, Chiến lược lịch sự thay đổi mức
lợi – thiệt trong lời cầu khiến tiếng Việt (2000),
đã vận dụng có cải biến hai quy tắc lịch sự Khéo
léo (Tact) và Hào phóng (Generosity) của Leech
vào việc phân tích lời cầu khiến tiếng Việt và tìm
hiểu tính lịch sự trong những lời cầu khiến này
dưới hai góc độ: (1) phương thức biểu hiện và (2)
mối quan hệ giữa hình thức biểu đạt gián tiếp với
tính lịch sự trong lời cầu khiến của người Việt. Từ
đó, tác giả đưa ra 12 chiến lược thay đổi mức lợi
– thiệt cho các hành động cầu khiến cạnh tranh và
9 chiến lược thay đổi mức lợi – thiệt cho các hành
động cầu khiến hoà đồng. Nhà khoa học Hà Cẩm
Tâm (2005) trong nghiên cứu có tên là “Requests
by Vietnamese learners of English” đã khảo sát chi
tiết các chiến lược cầu khiến của ba nhóm người
khác nhau: (1) Úc bản địa, (2) người Việt Nam học
tiếng Anh và (3) người Việt Nam nói tiếng Việt.
2. HÀNH ĐỘNG YÊU CẦU NHÌN TỪ
GÓC ĐỘ LỢI – THIỆT
2.1. Hành động yêu cầu và các hành động
liên quan theo quan điểm của Searle
Searle (1990, tr. 359-360) trong phần giải thích
của mình về lớp cầu khiến khẳng định rằng:
Đích ngôn trung của những hành động này bao
gồm thực tế là chúng là những nỗ lực (đa dạng
về mức độ, và do vậy, chính xác hơn là, chúng là
những yếu tố quyết định bao gồm cả sự nỗ lực) bởi
người nói nhằm thuyết phục người nghe làm một
việc gì đó. Chúng có thể là những “nỗ lực” khiêm
tốn như khi tôi mời hoặc gợi ý rằng bạn làm điều
đó, nhưng chúng cũng có thể là những cố gắng
quyết liệt như khi tôi cương quyết yêu cầu bạn làm
điều đó
Hướng khớp ghép là từ thế giới đến từ và điều
kiện chân thành là sự mong muốn (hay sự mong
ước, hặc niềm khát vọng). Nội dung mệnh đề luôn
luôn là người nghe H sẽ thực hiện một hành động
A trong tương lai. Những động từ thuộc nhóm này
bao gồm: hỏi, ra lệnh, yêu cầu, van nài, cầu xin,
cầu nguyện, khẩn khoản, và cả mời, cho phép, và
khuyên răn.
Do cách định nghĩa hành động yêu cầu của
Searle có thể dễ dàng được áp dụng cho các hành
động ngôn từ liên quan khác nhau như ra lệnh
(orders/commands) (ví dụ Peel these potatoes!
– Gọt vỏ những củ khoai tây này đi!), cũng như
hành động yêu cầu (Could you peel these potatoes,
please? – Liệu anh có thể gọt vỏ những củ khoai
tây này được không?), ông đã khôn khéo bổ sung
92 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v TRAO ĐỔI
một lưu ý rất quan trọng rằng, những lời ra lệnh
phải “có thêm một quy tắc chuẩn mực là người
nói S phải ở vị trí quyền lực trên người nghe H.”
Các nhà nghiên cứu khác không xem nét khu biệt
này dưới góc nhìn như vậy. Tracy và các cộng sự
(1984) cho rằng trong trường hợp hành động yêu
cầu, người nghe H có quyền không thực thi hành
động mà người yêu cầu đã đưa ra. Nhưng đối với
mệnh lệnh, người nghe H không có quyền như
vậy, nghĩa là H phải thực thi điều được yêu cầu
bằng bất cứ giá nào.
2.2. Hành động yêu cầu và các hành động
liên quan theo quan điểm của Leech
Leech (1983), Blum-Kulka, House & Kasper
(1989), Blum-Kulka, House & Kasper (1989) định
nghĩa hành động yêu cầu là hành động mà ở đó
người nói cố gắng khiến người nghe làm điều gì
đó. “Điều gì đó” này thường được coi là “gây thiệt”
cho người nghe, ví dụ như đòi hỏi ở người nghe
thời gian, sức lực, hoặc các nguồn lực vật chất.
2.2.1. Phân biệt hành động yêu cầu (requests)
với hành động ra lệnh (orders/commands)
Trong khi định nghĩa như trên về hành động
yêu cầu, Leech (1983) đã khẳng định rằng, không
có một ranh giới rõ ràng giữa các hành động ra
lệnh/hạ lệnh và yêu cầu. Trong thực tế, đó là một
thang bậc liên tục của sự tự chọn, dẫn từ ‘không có
sự tự chọn’ của một mệnh lệnh thuần tuý đến một
sự tự chọn ngày càng lớn dần dành cho người nghe
H. Một số hành động yêu cầu, trong khung của sự
công thức hoá này, rất gần với những mệnh lệnh
(Please eat up your dinner, Matthew – Làm ơn ăn
hết bữa tối đi con, Mathew) trong khi những hành
động yêu cầu khác lại cực kỳ trau chuốt (I wonder
if you’d mind terribly lending me £5 – Tôi tự hỏi
liệu bạn có thực sự phiền khi cho tôi mượn 5 bảng
không?), hoặc hành động yêu cầu ở mức độ trung
bình như Could you lend me a fiver, love? – Liệu
cậu có thể cho tôi mượn 5 bảng được không hả
cưng? Tiếng Anh có số lượng lớn các phương tiện
từ vựng ngữ pháp mà người nói S có thể khai thác,
nhờ đó có vô số cơ hội để người nghe H không cần
thực hiện hành động yêu cầu. Chẳng hạn những lời
yêu cầu dưới dạng câu hỏi Yes – No (Có – Không)
Could/Can/Would/Will you? (Liệu anh/Anh có
thể/Anh sẽ?) trên phương diện lý thuyết chúng
sẽ đem đến cho H hai cơ hội trả lời như nhau:
“Không” hay “Có”, cho dù mục đích thực sự của S
là yêu cầu đó phải được thực thi.
Trong khung làm việc về lịch sự của Leech
(Nguyễn Vân Khánh, 2018), một hành động yêu
cầu, thuộc lớp cầu khiến, có chức năng ngôn trung
mang tính cạnh tranh. Nó tìm kiếm một sự hòa hợp
giữa các đích cạnh tranh: mục đích làm lợi cho S
hoặc bên thứ ba, và mục đích xoa dịu O1. Trong
hành động yêu cầu này, âm-lịch sự (neg-politeness)
thường được nhận ra và nó là một phương tiện
chính mà nhờ đó Phương châm Khéo léo được
áp dụng. Thông thường nó mang tính hướng đến
người nghe là người thứ ba (O-oriented), ở đó sự
kiện lời nói đề xuất một hành động tương lai sẽ
được thực hiện bởi O.
Hình 1: Thang đo sự tự chọn và thang Lợi –
Thiệt để phân biệt hành động yêu cầu với hành
động ra lệnh
2.2.2. Phân biệt hành động yêu cầu (requests)
với hành động ngỏ lời (offers)
Leech có một nhận xét hết sức tinh tế rằng,
lãnh địa hành động yêu cầu (request territory) bao
phủ không chỉ các sự kiện lời nói (speech events)
mà chúng ta có thể mô tả chúng là “hành động
yêu cầu” (“requests”), trong các tình huống phù
hợp, chúng là các hành động ra lệnh, khẩn nài, cầu
93KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
TRAO ĐỔI v
xin, là những tương đương không khác xa nhiều
so với hành động yêu cầu. Những ranh giới không
rõ ràng của lãnh địa yêu cầu chính là các đường
biên mờ nhạt của nó không chỉ với các hành động
ra lệnh mà còn với đa dạng các sự kiện lời nói
khác, như hành động đề nghị, hành động chỉ dẫn,
và hành động ngỏ lời/hành động mời.
Đặc điểm minh định của hành động yêu cầu
và khái quát hơn là của lớp cầu khiến là chúng
đề xuất hành động do O thực hiện đi cùng với
thiệt và thông thường, đem lợi cho S. Hành động
ngỏ lời, mặt khác, thuộc về lớp hành động ngôn
từ mà Searle gọi là Lớp cam kết (commissives),
đề xuất một hành động sẽ được thực hiện bởi S vì
lợi ích của O và gây thiệt cho S. Lời yêu cầu và
ngỏ lời được xem là hai sự kiện lời nói (speech
event) hoàn toàn khác nhau, chúng lần lượt thuộc
về phạm vi của âm-lịch sự (neg-politeness)2 và
dương-lịch sự (pos-politeness)3. Tuy nhiên, không
hề ngạc nhiên khi có những sự kiện lời nói nằm ở
giữa lời yêu cầu và sự ngỏ lời. Cách dùng thông
thường Would you like? (Anh có muốn?) để
ngỏ lời, như trong câu Would you like a coffee?
(Liệu anh có muốn uống cà phê không?) Nhưng
trong trường hợp này nó không cố định:
Dorothy: Tim would you like to come and do
your teeth.
Please.
Tim: Not yet.
(Dorothy: Tim liệu con có muốn lại đây để
đánh răng không.
Nào con.
Tim: Không chưa.)
Dorothy, người mẹ, đang yêu cầu con trai đánh
răng, nhưng lại nói như đang đưa ra một hành
động ngỏ lời dành cho cậu bé một cơ hội làm việc
gì đó mà cậu có vẻ thích làm. Tuy nhiên, từ Please
được thêm vào khi không có kết quả hành động,
chỉ rõ rằng người mẹ dự định biến nó thành một
hành động ra lệnh.
Những lời yêu cầu được ngụy trang như những
lời ngỏ rất hay được những giáo viên hoặc những
người chăm sóc trẻ em sử dụng. Dưới đây là các ví
dụ tương tự của công thức Do you wanna ? điển
hình trong tiếng Anh Mỹ:
Leticia do you wanna open your book to page
sixty four and read the second paragraph?
(Leticia em có muốn mở sách đến trang 64 và đọc
đoạn 3 không?)
Eli do you wanna pick up your juice please?
Your juice see your juice pick it up please. (Eli con
có muốn bê cốc nước quả lên không nào? Nước
quả của con này, nào con bê lên đi.)
2.3. Hành động yêu cầu rút ra từ các tác
phẩm văn học
Chúng tôi chấp nhận tiêu chí nhận diện hành
động yêu cầu chính danh theo quan điểm của
Leech và thử nghiệm nhận diện hành động yêu
cầu từ hai tác phẩm văn học song ngữ Anh – Việt:
(i) Wuthering Heights của nữ văn sĩ người Anh,
Emily Bronte; bản dịch Tiếng Việt: Đồi gió hú
của dịch giả Dương Tường. (ii) Jane Eyre của nữ
văn sĩ người Anh, Charlotte Bronte; bản dịch tiếng
Việt: Jên Erơ của Trần Anh Kim.
Từ hai tác phẩm song ngữ, chúng tôi chọn
được 27 ví dụ hành động ngôn từ thuộc nhóm cầu
khiến (người nói đặt người tiếp nhận vào trách
nhiệm thực hiện hành động nào đó trong tương
lai – Searle, 1969). Sau đó, chúng tôi áp dụng hai
tiêu chí đánh giá: (i) dựa vào thang đo lợi – thiệt
(thiệt ít cho người nghe); (ii) để ngỏ sự lựa chọn/
quyền tự quyết của người nghe trong việc hồi đáp
tích cực hay tiêu cực đối với lời yêu cầu; đồng thời
xem xét ngữ cảnh giao tiếp để có thể phân loại 27
ví dụ đó thành bốn nhóm sau đây.
Nhóm 1. Những hành động ngôn từ trong
nhóm cầu khiến là hành động yêu cầu chính danh
do đáp ứng được cả hai tiêu chí và có ngữ cảnh
phù hợp với hành động yêu cầu
(1) “Why? Cannot you tell her who I am; eh,
Joseph?” (tr.6)
94 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v TRAO ĐỔI
(1’) “Tại sao? Này, Joseph, bác không thể nói
cho bà ấy biết tôi là ai hay sao?” (tr.17)
(Wuthering Heights – Đồi gió hú)
(2) “Well, you have been crying, Miss Jane
Eyre; can you tell me what about? Have you any
pain?” (tr.17)
(2’) “Kìa, cô đã lại khóc rồi, cô Jane Eyre, cô
có thể nói cho tôi biết tại sao không? Cô có bị đau
không?” (tr.48)
(Jane Eyre – Jên Erơ)
Trong ví dụ (1), ngữ cảnh giao tiếp là vị khách
yêu cầu gia nhân của chủ nhà giới thiệu mình với
bà chủ. Sự việc được yêu cầu sẽ khiến cho gia
nhân tiêu hao một chút công sức và thời gian,
tuy nhiên với cấu trúc lời yêu cầu bắt đầu bằng
“Cannot you” (“bác không thể ”) đã để ngỏ
sự tự chọn cách hồi đáp cho người nghe, tức là họ
có thể đồng ý hoặc từ chối thực hiện yêu cầu. Cho
nên, hành động ngôn từ là một hành động yêu cầu
chính danh.
Trong ví dụ (2), việc ông thầy thuốc yêu cầu cô
bé Jane nói lý cô bé khóc là một hành động yêu cầu
đích thực với cách giải thích tương tự như ví dụ (1).
Nhóm những hành động ngôn từ là hành động
yêu cầu chính danh đáp ứng cả hai tiêu chí (i) và
(ii), đồng thời phù hợp ngữ cảnh có tỷ lệ cao nhất
bao gồm16 trên tổng số 27 ví dụ.
Nhóm 2. Những hành động ngôn từ trong
nhóm cầu khiến không phải là hành động yêu cầu
chính danh do không hoàn toàn đáp ứng được tiêu
chí (ii) và ngữ cảnh không phù hợp với hành động
yêu cầu
(3) “Joseph, take Mr Lockwood’s horse; and
bring up some wine” (tr.)
(3’) “Joseph, ra dắt ngựa của ông Lockwood
và mang lên ít rượu vang nhé”. (tr.8)
(Wuthering Heights – Đồi gió hú)
Xét theo hai tiêu chí, (i) việc ra dắt ngựa và
mang rượu khiến người nghe hao tổn thời gian và
sức lực (gây thiệt cho người nghe); (ii) người nghe
không có quyền tự quyết làm hay không làm việc
này. Xét trong ngữ cảnh, đây là lời ông chủ nói
với gia nhân. Do đó, hành động ngôn từ trong (3)
không được xếp loại là hành động yêu cầu, mà nó
chính là hành động ra lệnh.
(4) “Monitors, collect the lesson-books and put
them away!” (tr.36)
(4’) “Các giảng tập viên, thu sách học và xếp
cả lại!” (tr.79)
(Jane Eyre – Jên Erơ)
Tương tự, trong ví dụ (4), theo tiêu chí (ii),
người nghe không được để ngỏ sự tự chọn cách
hồi đáp đối với mong muốn của người nói; về mặt
ngữ cảnh, người nói là cô hiệu trưởng và người
nghe là các giảng tập viên – học sinh lớn được giao
nhiệm vụ giữ kỷ luật trong lớp. Vì vậy, hành động
ngôn từ (4) là một hành động ra lệnh.
Trong số 27 ví dụ thu được, có 7 ví dụ thuộc
nhóm này.
Nhóm 3. Những hành động ngôn từ trong nhóm
cầu khiến là hành động yêu cầu chính danh do đáp
ứng hai tiêu chí nhưng khi xét trong ngữ cảnh lại
không phải là hành động yêu cầu.
(5) “Nelly, will you keep a secrete for me?”
she pursued, kneeling down by me. (tr.55)
(5’) “Nelly, liệu chị có giữ kín cho tôi một điều bí
mật không?” cô nói tiếp, quỳ xuống bên cạnh tôi .
(Wuthering Heights – Đồi gió hú)
Ví dụ (5) theo hai tiêu chí, đó là một hành động
yêu cầu chính danh (người nghe có quyền lựa chọn
hồi đáp tích cực hoặc tiêu cực), nhưng trong ngữ
cảnh cụ thể này, hành động yêu cầu của cô chủ với
chị hầu gái nghiêng nhiều về hành động cầu xin,
van vỉ.
(6) “Will you go in and bid Missis good-bye?”
(tr.33)
(6’) “Cô có muốn vào từ biệt bà Reed không?”
(tr.74)
(Jane Eyre – Jên Erơ)
95KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
TRAO ĐỔI v
Ví dụ (6) là hành động yêu cầu của chị giúp
việc đối với Jane trước khi cô đi học, nhưng trong
ngữ cảnh cụ thể chị giúp việc như khuyên nhủ và
gợi ý cho Jane.
Theo phân tích, có 3 trong tổng số 27 ví dụ
thuộc nhóm này.
Nhóm 4. Những hành động ngôn từ trong nhóm
cầu khiến về bản chất là hành động yêu cầu (theo
ngữ cảnh). Mặc dù phát ngôn (7) và (7’) dưới đây
nghe như là một câu hỏi thông thường để nhận
được thông tin cần biết. Nhưng xét trong ngữ cảnh
thực tế, đây là lời yêu cầu gián tiếp mà cô gia sư
Jane dành cho bà quản gia:
(7) “Shall I have the pleasure of seeing Miss
Fairfax tonight?” (tr.83)
(7’) “Liệu tôi có hân hạnh được gặp cô Fairfax
đêm nay không? (tr.162)
(Jane Eyre – Jên Erơ)
Đây là ví dụ duy nhất trong số 27 ví dụ được
thu thập không có cấu trúc thông thường của hành
động ngôn từ thuộc nhóm cầu khiến nên rất khó
xét theo hai tiêu chí mặc dù qua ngữ cảnh chúng
tôi có thể thấy hành động ngôn từ này hoàn toàn
đáp ứng các tiêu chí. Đây có thể là một minh chứng
cho ranh giới mờ giữa hành động yêu cầu và hành
động ngôn từ khác.
3. KẾT LUẬN
Kết lại, hành động yêu cầu là một hành động
ngôn từ thuộc nhóm cầu khiến và để phân biệt
hành động yêu cầu với các hành động liên quan
cần phải dựa vào hai tiêu chí cốt lõi: (1) mức độ
thiệt do hành động yêu cầu gây ra đối với H, (2) sự
lựa chọn giữa thực hiện hay không thực hiện hành
động của H. Yếu tố ngữ cảnh có một vai trò quan
trọng trong việc định loại các hành động ngôn từ
trong nhóm cầu khiến.
Dựa vào mô hình của Leech, chúng tôi đã phân
tích 27 ví dụ hành động ngôn từ thuộc nhóm cầu
khiến rút ra từ hai tác phẩm văn học song ngữ
Anh – Việt. Kết quả phân tích được phản ánh qua
những điểm chính sau đây:
Thứ nhất, có sự tương đương ở mức độ cao
trong lời yêu cầu giữa tiếng Anh và tiếng Việt
(16/27);
Thứ hai, có sự khác biệt (không nhiều) trong lời
yêu giữa tiếng Anh và tiếng Việt do không đáp ứng
được hai tiêu chí (khả năng tự lựa chọn dành H, và
ngữ cảnh không phù hợp với hành động yêu cầu;
Thứ ba, không có sự tương đương ở lời yêu
cầu trong tiếng Anh và tiếng Việt do đáp ứng hai
tiêu chí nhưng khi xét trong ngữ cảnh lại không
phải là hành động yêu cầu./.
Chú thích:
1. Chúng tôi dùng H = hearer để chỉ người
nghe trực tiếp và O = others để chỉ người nghe trực
tiếp hoặc một người thứ 3 mà lời yêu cầu hướng
tới (có thể không có mặt trong hội thoại).
2. Âm-lịch sự có chức năng xoa dịu, giảm hoặc
làm bớt những nguyên nhân có thể gây ra sự xúc
phạm. Âm-lịch sự thường kéo theo sự gián tiếp,
rào đón và sự dịu hoá, đó là những tác tử chỉ báo
(indicators) được nghiên cứu nhiều nhất và biết
đến nhiều nhất về cách dùng lịch sự của ngôn ngữ.
3. Dương-lịch sự cung cấp hay quy gán một
giá trị tích cực nào đó cho người nghe. Sự ngỏ lời,
lời mời, lời khen và lời chúc mừng là các ví dụ của
dương-lịch sự. (Leech 2014)
Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Văn Độ (2000), Các phương tiện ngôn ngữ
biểu hiện hành động thỉnh cầu trong tiếng Anh và
tiếng Việt, Luận án tiến sĩ, Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn, Hà Nội.
Vũ Thị Thanh Hương (2000), “Chiến lược lịch sự thay
đổi mức lợi – thiệt trong lời cầu khiến tiếng Việt”,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 10, tr.39-48
Nguyễn Vân Khánh (2018), “Lịch sự nhìn từ quan điểm
của Leech”, Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ Quân sự,
số 14, tr.3-11
96 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v TRAO ĐỔI
Austin, J.L. (1962), How to Do Things with Words,
Oxford University Press, Oxford.
Blum-Kulka, S. (1987), “Indirectness and Poiteness
in Requests: Same or Different?” Journal of
Pragmatics 11(2): 131-146
Blum-Kulka, S., J. House, and G. Kasper, eds.
(1989), Cross-Cultural Pragmatics: Requests
and Apologies. Ablex Publishing Corporation,
Norwood, New Jersey.
Cẩm Tâm, Hà (2005), Requests by Vietnamese Learners
of English, Doctoral Dissertation, Vietnam National
University - College of Foreign Languages, Ha Noi.
Leech, G. (1983), Principles of Pragmatics. Longman,
London & NewYork
Leech, G. (2014), The Pragmatics of Politeness, Oxford
University Press, New York.
Searle, J. (1969), Speech Acts, Cambridge University
Press, Cambridge.
Searle, J. (1990), “Epilogue to the taxonomy of
illocutionary acts” trong D.Carbaugh (Ed.),
Cultural communication and intercultural contact.
Hillsdale, NewJersey, Hove and London: Lawrence
Erlbaum Associates Publishers.
Searle, J., Kiefer, F. & Bierwisch, M. (Eds). (1980),
“Speech act theory and pragmatics”, Texts and
studies in linguistics and philosophy. Vol. 10. USA,
England: D. Reidel Publishing Company.
Tracy, K., R. T. Craig, M. Smith, and F.Spisak,
(1984), “The discourse of requests: Assessment
of a compliance-gaining approach.” Human
Communication Research 10 (4): 513-538.
Tư liệu trích dẫn:
Emily Bronte (2015), Đồi gió hú, NXB Văn học, Hà Nội.
Charlotte Bronte (2012), Jane Eyre, NXB Văn học, Hà Nội.
Emily Brontie (1992), Wuthering Heights, Wordsworth
Editions Limited.
Charlotte Bronte (1992), Jane Eyre, Wordsworth
Editions Limited.
SPEECH ACTS OF REQUESTS FROM PERSPECTIVE OF COST – BENEFIT
NGUYEN VAN KHANH
Abstract: This article refers to recognition of requests based on Cost – Benefit scale developed by
Leech. It is possible to say that, although there is no clear-cut boundary between requests and other
speech acts like orders/commands, offers, suggestions, instructions, the Cost – Benefit scale seems
help to recognize requests in communication. To prove the above mentioned remark, 27 examples
of directives collected from bilingual English – Vietnamese works of literature based on the Cost –
Benefit scale distinction will be introduced to prove the effectiveness of this scale. The initial results
confirm the effectiveness of Leech’s model.
Keywords: speech acts, requests, instructions, orders/commands, cost – benefit scale
Received: 09/8/2018; Revised: 11/9/2018; Accepted for publication: 12/9/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tckhnnqs_15_9_2018_nguyen_van_khanh_90_96_0905_2136129.pdf