Hàm Long sơn chí phụ lục đào trang tập

Tài liệu Hàm Long sơn chí phụ lục đào trang tập: 14 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 含龍山志附錄 陶莊集 無一行窩吟鈔 翰林院侍講洪〇(*)法名澄栔如如道人著 HÀM LONG SƠN CHÍ PHỤ LỤC ĐÀO TRANG TẬP [HAY] VÔ NHẤT HÀNH OA NGÂM SAO Hàn Lâm Viện Thị giảng Hồng Vịnh pháp danh Trừng Khế Như Như đạo nhân trứ PHẦN PHỤ LỤC SÁCH HÀM LONG SƠN CHÍ TẬP THƠ ĐÀO TRANG HAY VÔ NHẤT HÀNH OA NGÂM SAO Hàn Lâm Viện Thị giảng Hồng Vịnh, pháp danh Trừng Khế, [hiệu] Như Như đạo nhân sáng tác. Dịch và chú thích: Lê Nguyễn Lưu - Nguyễn Công Trí Phiên âm: Nguyễn Công Trí * Chữ trong vòng tròn là chữ Vịnh: Gồm chữ 永 Vĩnh + 舟 Chu. 15Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 ĐÀO TRANG TẬP Lời dẫn của người dịch: Trong tập này, sau bài Cố đệ Phong quốc công hành trạng, bỏ trống 1 trang, tiếp đến 3 tờ nhem nhuốc, ghi chép linh tinh chữ mất chữ còn, trang đầu có hai dòng: 桃裝詩集五十歲以前分為初集凡十卷五十一歲以後 為後集凡二卷續編于誌中曰附錄 Đào Trang thi tập ngũ thập tuế dĩ tiền phân vi sơ tập phàm thập quyển, ngũ thập nhất tuế dĩ hậu vi hậu tập phàm nhị (?) quyển tục ...

pdf95 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Hàm Long sơn chí phụ lục đào trang tập, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
14 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 含龍山志附錄 陶莊集 無一行窩吟鈔 翰林院侍講洪〇(*)法名澄栔如如道人著 HÀM LONG SƠN CHÍ PHỤ LỤC ĐÀO TRANG TẬP [HAY] VÔ NHẤT HÀNH OA NGÂM SAO Hàn Lâm Viện Thị giảng Hồng Vịnh pháp danh Trừng Khế Như Như đạo nhân trứ PHẦN PHỤ LỤC SÁCH HÀM LONG SƠN CHÍ TẬP THƠ ĐÀO TRANG HAY VÔ NHẤT HÀNH OA NGÂM SAO Hàn Lâm Viện Thị giảng Hồng Vịnh, pháp danh Trừng Khế, [hiệu] Như Như đạo nhân sáng tác. Dịch và chú thích: Lê Nguyễn Lưu - Nguyễn Công Trí Phiên âm: Nguyễn Công Trí * Chữ trong vòng tròn là chữ Vịnh: Gồm chữ 永 Vĩnh + 舟 Chu. 15Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 ĐÀO TRANG TẬP Lời dẫn của người dịch: Trong tập này, sau bài Cố đệ Phong quốc công hành trạng, bỏ trống 1 trang, tiếp đến 3 tờ nhem nhuốc, ghi chép linh tinh chữ mất chữ còn, trang đầu có hai dòng: 桃裝詩集五十歲以前分為初集凡十卷五十一歲以後 為後集凡二卷續編于誌中曰附錄 Đào Trang thi tập ngũ thập tuế dĩ tiền phân vi sơ tập phàm thập quyển, ngũ thập nhất tuế dĩ hậu vi hậu tập phàm nhị (?) quyển tục biên vu chí trung viết phụ lục (Đào Trang thi tập, năm mươi tuổi trở về trước chia làm tập đầu gồm 10 quyển, năm mươi mốt tuổi trở về sau là tập sau gồm 2 (?) quyển chép tiếp vào trong sách Hàm Long sơn chí, gọi là phụ lục). Lại ở một trang sau đó truy bổ mục lục thì ghi số lượng Đào Trang sơ tập và Đào Trang hậu tập đến 859 bài. Như vậy, phần phụ lục này chỉ là Đào Trang hậu tập, gồm thơ Như Như đạo nhân làm từ năm Canh Tý (1900) trở về sau, chép phụ vào sách Hàm Long sơn chí. BÀI SỐ 1(1) 庚子元日和福祉闍梨元韻 Canh Tý nguyên nhật họa Phúc Chỉ(2) xà lê(3) nguyên vận 井蝸自揣寸無長 何幸曹溪得望洋 此日遍參尊宿後 詢詢勸戒佩良方 Tỉnh oa tự sủy thốn vô trường, Hà hạnh Tào Khê(4) đắc vọng dương. (1) Mỗi bài thơ bát cú luật Đường gọi là một “thủ”; mỗi nhan đề có thể gồm một thủ hay nhiều thủ, chúng tôi đánh số theo thủ chứ không theo nhan đề. (2) Phúc Chỉ: thường đọc âm Huế là Phước Chỉ, vị sư trụ trì chùa Tường Vân. Thanh Thái Phước Chỉ (1858-1926) thế danh Nguyễn Huấn, người làng Đa Nghi (Quảng Trị), sinh ngày mồng 5 tháng Năm năm Mậu Ngọ Tự Đức 11 (15/6/1858), đồng niên nhập đạo lúc 14 tuổi, ở chùa Diệu Đế với sư Diệu Giác (Hải Thuận Lương Duyên, họ Đỗ), rồi được sai lên sơn am học chữ với sư Hải Toàn Linh Cơ, đến ngày mồng 8 tháng Tư năm Nhâm Ngọ, Tự Đức 35 (24/5/1882) thì được thế độ. Sư làm trị sự chùa Tường Vân. Năm 1894, sư được thầy phó pháp pháp danh Thanh Thái, pháp tự Phước Chỉ. Sau khi thầy viên tịch, sư kế thế trú trì chùa Tường Vân. Sư viên tịch ngày mồng 5 Tết Tân Dậu (13/1/1921). (3) Xà lê: đầy đủ là a xà lê, phiên âm tiếng Phạn Acàrya, Hán dịch là giáo thụ, một trong ba vị sư đứng đầu trong một giới đàn truyền pháp (đường đầu hòa thượng) của Phật giáo, có nhiệm vụ truyền dạy cho đệ tử có đủ tri thức và đức hạnh để tiếp nhận giáo vị. (4) Tào Khê: tên một con suối ở Thiều Châu, Trung Quốc, nơi Lục tổ Huệ Năng dựng chùa Nam Hoa để tu hành. Ngài là tổ thứ sáu của Thiền đông độ (Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma, nhị tổ Huệ Khả, tam tổ Tăng Xán, tứ tổ Đạo Tín, ngũ tổ Hoằng Nhẫn). Ngài đi về phương Nam, mở cảnh chùa ở Tào Khê, hình thành dòng 16 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Thử nhật biến tham tôn túc(1) hậu, Tuân tuân khuyến giới bội lương phương. Dịch nghĩa: Ngày mồng một Tết Canh Tý [1900], họa nguyên vần thơ ngài A xà lê Phước Chỉ Như con ếch trong giếng tự đo mình một tấc chẳng dài, Làm sao tới Tào Khê được trông thấy biển. Ngày hôm ấy, sau khi gặp khắp các bậc tôn túc, Được chỉ dạy đầy đủ những phép tu hành tốt đẹp. Tạm dịch thơ: Ếch ngồi đáy giếng nửa gang tay, May tới Tào Khê thấy biển đây. Hôm ấy được nhiều tôn túc gặp, Ân cần chỉ bảo phép tu hay. BÀI SỐ 2-4 新年樓居試筆三首 Tân niên lâu cư thí bút tam thủ 五十平頭一介僧 Ngũ thập bình đầu nhất cá tăng, 兀然危坐小樓層 Ngột nhiên nguy tọa tiểu lâu tằng. 嚴身潔似南山豹 Nghiêm thân khiết tự Nam sơn báo, 聳思飄如北海鵬 Tủng tứ phiêu như Bắc hải bằng. 倒影蘭苕浮茗碗 Đảo ảnh lan thiều phù mính uyển, 搖光榆柳映書縢 Diêu quang du liễu ánh thư đằng. 世間無若翁閒健 Thế gian vô nhược ông nhàn kiện, 盡日窮探到上乘 Tận nhật cùng tham đáo thượng thằng.(2) * * * * * * thiền Nam tông, trong lúc đồng đạo Thần Tú đi lên phương Bắc, lập ra Bắc tông (thiền Bắc tông chủ trương tiệm ngộ, thiền Nam tông chủ trương đốn ngộ). Lâu về sau, Nam tông lại chia làm hai phái Lâm Tế và Tào Động. (1) Tôn túc: những bậc tu hành đạo cao đức trọng. (2) Thượng thằng: đọc đúng là thượng thừa, nhưng phiên âm phải đọc thượng thằng để hiệp vần (chữ này có ba âm: thừa, thằng, thặng). Phép tu thuộc bậc cao nhất trong ba bậc (tam thừa), cũng gọi là tam xa (ba xe): tiểu thừa, trung thừa và đại thừa. Tiểu thừa là cái xe nhỏ, chỉ chở được một người, như tu chỉ để độ cho chính mình thôi. Trung thừa là cái xe vừa, chở được vài người, như tu để độ cho mình và thêm một ít người khác. Đại thừa là cái xe lớn chở được vô số, như tu để độ cho tất cả chúng sinh. 17Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 絕愛江山似會稽 Tuyệt ái giang sơn tự Cối Kê,(1) 吟樓高與御屏齊 Ngâm lâu cao dữ Ngự Bình tề. 白雲拂檻花梢近 Bạch vân phất hạm hoa sao cận, 錄竹侵檐鳥道低 Lục trúc xâm thiềm điểu đạo đê. 淨室清談懷小阮 Tĩnh thất thanh đàm hoài Tiểu Nguyễn,(2) 明窗妙畫憶迂倪 Minh song diệu họa ức Vu Nghê.(3) 謪仙雅有參軍逸 Trích Tiên(4) nhã hữu Tham Quân(5) dật, 詩句飄然日品題 Thi cú phiêu nhiên nhật phẩm đề. * * * * * * 炘烟飛過綠楊陰 Hân yên phi quá lục dương âm, 山果堆盤薦爛金 Sơn quả đôi bàn tiến lạn câm. 冷炬數枝擎樺蠟 Lãnh cự sổ chi kình hoa lạp, 暗香半穗裊檀沉 Ám hương bán huệ niễu đàn trầm. 朱朱祝祝喧棲桀 Chu chu chúc chúc huyên thê kiệt, 策策堂堂牣躍涔 Sách sách đường đường nhận dược sầm. 一捻數珠終日坐 Nhất nẫm sổ châu chung nhật tọa, 暮天著水見橫參 Mộ thiên trứ thủy kiến hoành sâm. (1) Cối Kê: tên một vùng có nhiều danh lam thắng tích cổ, nơi đặt kinh đô nước Việt thời Xuân thu - Chiến quốc, nay ở gần cửa sông Trường Giang, thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. (2) Tiểu Nguyễn: Chỉ Nguyễn Hàm. Trong Trúc Lâm thất hiền, hai chú cháu Nguyễn Tịch và Nguyễn Hàm nổi danh ngang nhau. Người đời gọi chú là Đại Nguyễn, cháu là Tiểu Nguyễn. Cũng có thể chỉ Nguyễn Thuật (1842-1911) hiệu Hà Đình, người xã Hà Lam, huyện Lễ Dương, tỉnh Quảng Nam (nay thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam); đỗ phó bảng khoa Mậu Thìn, Tự Đức 21 (1868); làm quan dần đến hàm Thái tử thiếu bảo, Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Binh Bộ Thượng thư sung Kinh Diên giảng quan, tước An Trường tử, giữ chức Quốc Sử Quán phó tổng tài, tham gia biên soạn sách Đại Nam thực lục chính biên đệ tứ kỷ và đệ ngũ kỷ. Dưới triều Duy Tân, ông về hưu và mất năm 1911 tại quê nhà. Bài văn bia chùa Linh Quang ở Huế do ông viết ít lâu sau khi trí sĩ, vào năm 1902. Tác phẩm của ông còn có Hà Đình ứng chế thi sao, Hà Đình văn sao, Hà Đình văn tập, Mỗi hoài ngâm thảo. (3) Vu Nghê: chưa rõ là ai. (4) Trích Tiên: biệt hiệu của nhà thơ Lý Bạch (701-762) thời Đường. Ông “say thơ” cũng như “say rượu”, mà luôn luôn phóng túng; lần đầu tiên vào cung yết kiến Đường Minh Hoàng, vua thấy ông bước đi nhẹ nhàng, phơi phới, bất giác vua quên mình là thiên tử, bước xuống ngai vàng giơ tay đón. Từ đó, người ta gọi ông là Trích Tiên (vị tiên ở thượng giới bị đày xuống cõi trần). (5) Tham Quân: 1. Tức Vương Hy Chi, người đất Cối Kê thời Tấn, làm đến chức Hữu quân tướng quân, là một nhà thư pháp nổi tiếng với bài tựa Lan Đình hội tập (tập thơ chung của nhiều danh sĩ họp nhau tại Lan Đình). 2. Tạ An (325-385), hiệu An Thạch, người đất Dương Hạ, thời nhà Tấn, ở ẩn và ngao du trong vùng Cối Kê, được mời làm tham mưu đánh giặc Bồ Kiên, vừa ngồi đánh cờ vừa điều binh khiển tướng mà phá tan quân địch. 18 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Dịch nghĩa: Ở trên lầu, năm mới thử bút (ba bài) Chỉ là một ông sư đầu trọc năm mươi tuổi, Ngồi ngất ngưỡng trên tầng lầu nhỏ nhoi. Thân thể nghiêm chỉnh trong sạch như con báo ở núi Nam, Ý nghĩ chót vót tung bay như con chim bằng ở biển Bắc. Bóng bông lan dọi ngược trong chén trà, Cây dương liễu hắt ánh sáng lung lay vào những chồng sách. Trong đời không gì bằng một ông già khỏe an nhàn, Suốt ngày xem ngẫm đến nơi đến chốn đạo thượng thừa. * * * Hết lòng yêu mến núi sông như cảnh ở Cối Kê, Lầu thơ cao ngang với núi Ngự Bình. Mây trắng phảng phất ngoài cửa, cành hoa gần gũi, Tre biếc che phủ bên thềm, đường chim bay phía dưới. Trong nhà tu bàn chuyện hão, nhớ ông Tiểu Nguyễn, Bên cửa sổ sáng, vẽ bức tranh đẹp, nhớ đến Vu Nghê. Vị Trích Tiên thanh nhã có cái vẻ cao hứng của Tham Quân, Ngày ngày viết những câu thơ tự nhiên siêu thoát. * * * Khói nóng hừng hực bay qua bóng râm dương liễu xanh, Mâm sắp đầy trái trên núi dâng lên với vàng sáng chói. Vài cây nến lạnh lẽo chập chờn ngọn lửa trên đầu, Những cây hương cháy dở hắt hiu trên đàn lặng lẽ. Tiếng đóng cọc gỗ chan chát ồn ào, Tiếng tát nước ào ào vang động. Suốt ngày ngồi lần tràng hạt, Đến chiều tối nước dâng thấy chiếc đò ngang. Tạm dịch thơ: Một sư đầu trọc tuổi năm mươi, Tầng nhỏ lầu cao ngất ngưỡng ngồi. Tựa báo non Nam thân sạch sẽ, 19Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Như bằng biển Bắc ý khơi vơi. Chén trà soi bóng lan tươi thắm, Chồng sách in hình liễu rạng ngời. Một lão thanh nhàn ai sánh kịp, Thượng thừa tu học suốt ngày trời. * * * Sông núi thân yêu tự Cối Kê, Lầu thơ cao sánh Ngự Bình kề. Cành hoa bên cửa mây dăng mắc, Chim liệng dưới thềm trúc phủ che. Chuyện vãn phòng thiền mơ Tiểu Nguyễn, Vẽ tranh cửa kính nhớ Vu Nghê. Trích Tiên nhã có Tham Quân dật, Suốt buổi thơ ca mặc phẩm đề. * * * Bóng dương im mát khói mênh mang, Hoa quả đầy mâm kính lễ vàng. Đèn sáp mấy cây làn sáng hắt, Nén nhang nửa bó khói vờn ngang. Gần xa đóng cọc rìu chan chát, Đâu đó be bờ nước rộn ràng. Tràng hạt ngồi lần mai đến tối, Trời chiều nước đổ thấy đò sang. BÀI SỐ 5 誌喜 Chí hỷ 參差人事若鉤繩 Sâm si nhân sự nhược câu thằng, 好語朝來報我應 Hảo ngữ triêu lai báo ngã ưng. 土木經營應自悔 Thổ mộc kinh doanh ưng tự hối, 田園涉趣遂吾仍 Điền viên thiệp thú toại ngô nhưng. 試茶泉冽空清頰 Thí trà tuyền liệt không thanh giáp, 攤飯花香滿襯肱 Than phạn hoa hương mãn sấn quăng. 20 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 小小臺池無恙在 Tiểu tiểu đài trì vô dạng tại, 東鄰削屢任憑憑 Đông lân tước lũ nhậm bằng bằng. Dịch nghĩa: Ghi lại niềm mừng vui Việc người đời giống như sợi dây câu ràng buộc, Tin tốt buổi sáng sớm đưa lại báo ta việc ưng ý. Chạy vạy về nhà cửa khiến ta phải ăn năn, Vui thú về ruộng vườn khiến cho ta thỏa lòng. Thử uống trà pha nước suối trong miệng sạch không, Cứ ăn chay mùi hoa thơm lan khắp mình mẩy. Những đài ao nhỏ nhặt không còn tồn tại hình dáng nữa, Gạt bỏ hết chuyện hàng xóm cứ mặc kệ họ. Tạm dịch thơ: Việc đời rối rắm buộc ràng nhau, Lời đẹp tin hay sớm đến mau. Nhà cửa lo toan thêm hối hận, Ruộng vườn vui thú khỏi lo âu. Trà pha nước suối mồm thơm ngát, Cơm với cây rau thể sạch làu. Nhỏ nhặt đài ao không bóng dáng, Xóm đông bỏ hết chuyện không đâu. BÀI SỐ 6-7 春日感憶二首 Xuân nhật cảm ức nhị thủ 池塘水碧湛流温 Trì đường thủy bích trạm lưu ôn, 一道浮萍鶴踏翻 Nhất đạo phù bình hạc đạp phiên. 駭鵲護花鈴索動 Hãi thước hộ hoa linh tác động, 馴魚洗硯墨波噴 Thuần ngư tẩy nghiễn mặc ba phun. 樓中烟霧衣常惹 Lâu trung yên vụ y thường nhạ, 屋角星辰手可捫 Ốc giác tinh thần thủ khả môn. 萬里臣心天以北 Vạn lý thần tâm thiên dĩ bắc, 孤忠夜夜拜三垣 Cô trung dạ dạ bái Tam Viên. * * * * * * 21Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 太平粉飭恥危冠 Thái bình phấn sức sỉ nguy quan, 課罷臨池試月團 Khóa bãi lâm trì thí nguyệt đoàn. 狼藉年花驚曰艾 Lang tạ niên hoa kinh nhật nghệ, 龍鍾晚節苦伊蘭 Long chung vãn tiết khổ y lan. 閑庭且喜荊還紫 Nhàn đình thả hỷ kinh hoàn tử, 幽壑長拚桂正丹 U hác trường phan quế chính đan. 忽報天津烽火動 Hốt báo thiên tân phong hỏa động, 錦帆千里憶蕭灘 Cẩm phàm thiên lý ức tiêu than. Dịch nghĩa: Cảm nhớ ngày xuân (hai bài) Nước ao xanh biếc trong veo chảy êm đềm, Một dải bèo nổi, chim hạc xéo lên làm xáo trộn cả. Chim thước rụt rè che chở cho hoa, dây chuông rung; Cá hiền hòa rửa nghiên, song mực phun. Trong lầu, sương khói thấm vào áo quần; Bên góc nhà, tay có thể với sờ được sao. Lòng kẻ bề tôi hướng về bắc muôn dặm xa, Tấm cô trung đêm đêm lạy chốn Tam Viên. * * * Thời thái bình, bôi phấn trang sức, thẹn đội mũ cao; Học xong ra ngoài ao thử ngắm vầng trăng tròn. Năm tháng tươi đẹp tàn tạ dần, sợ ngày qua nhanh; Thời tiết muộn màng xơ xác, gầy guộc thân lan. Ngoài sân an nhàn, hãy vui vì cây kinh tía trở lại; Ở nơi thanh vắng, chăm sóc mãi cây quế đang đỏ thắm. Chợt nghe tin báo ngoài phương trời khói lửa rộn ràng, Buồm gấm ngoài muôn dặm nhớ ghềnh thác quạnh hiu. Tạm dịch thơ: Xanh rờn làn nước chảy trong ao. Hạc đạp bèo trôi mở lối xao. Thước sợ giữ hoa chuông động nhẹ, Cá thuần rửa nghiễn mực phun trào. 22 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Áo quần trên gác dầm hơi móc, Bàn ghế góc nhà loáng ánh sao. Muôn dặm lòng tôi trông cõi Bắc, Tấm trung lạy gởi đến nơi nao. * * * Sống yên thẹn đội mũ hoàng tôn, Xếp sách ra ao với nguyệt tròn. Héo hắt tuổi hoa ngày tháng mất, Xác xơ tiết muộn nụ lan buồn. Sân nhàn vui được cây kinh tía, Chốn vắng chăm cho gốc quế son. Chợt báo cõi ngoài tin khói lửa, Ngàn trùng buồm gấm nhớ ghềnh non. BÀI SỐ 8-15 仙城八景 Tiên Thành bát cảnh 1. 珠 江夜月 Châu Giang dạ nguyệt 四望江樓瀉鬱陶 Tứ vọng giang lâu tả uất đào, 一身輕似順風毛 Nhất thân khinh tự thuận phong mao. 光搖蟾窟開銀界 Quang diêu thiềm quật khai ngân giới, 色映龍宮湧雪濤 Sắc ánh long cung dũng tuyết đào. 石壁北臨羊驛近 Thạch bích bắc lâm Dương dịch cận, 炮臺西峙虎門高 Pháo đài tây trĩ Hổ môn cao. 海幢寺裡尋名勝 Hải Tràng tự lý tầm danh thắng, 佳句飄然憶我曹 Giai cú phiêu nhiên ức ngã tào. Dịch nghĩa: Tám cảnh ở Tiên Thành(1) 1. Đêm trăng trên Châu Giang Trông bốn phía lầu trên sông nước đổ mênh mông, Một thân nhẹ nhàng như chiếc lông bay theo chiều gió. (1) Tiên Thành: chúng tôi không biết Tiên Thành là ở đâu, cho nên tất cả các tên riêng trong bài này cũng không chú giải được. Độc giả ai biết xin chỉ giáo cho, rất cám ơn. 23Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Ánh sáng rung rinh thềm hang mở ra cõi bạc, Màu sắc chiếu dọi cung rồng vọt lên sóng tuyết. Vách đá hướng về bắc gần trạm Dương, Đài súng vươn lên phía tây cao ngang cửa Hổ. Vào trong chùa Hải Tràng tìm thăm danh thắng, Câu thơ đẹp phơi phới nhớ đến bạn bè ta. Tạm dịch thơ: Bốn phía lầu sông nước dạt dào, Thân như xuôi gió nhẹ hồng mao. Sáng ngời cửa hốc dòng ngân hiện, Màu nhuốm cung rồng sóng tuyết trào. Thạch Bích bắc ra Dương dịch cận, Pháo Đài tây ngất Hổ môn cao. Tìm vào Hải tự thăm danh thắng, Phơi phới thơ hay nhớ bạn sao. 2. 大通烟雨 Đại Thông yên vũ 莊嚴寶剎憶劉蕭 Trang nghiêm bửu sát ức Lưu Tiêu, 港口天開接惠潮 Cảng khẩu thiên khai tiếp huệ triều. 龍井朝霞帆影落 Long Tỉnh triêu hà phàm ảnh lạc, 鵝潭秋樹竅風驕 Nga Đàm thu thụ khiếu phong kiêu. 僧歸野寺雲雙屐 Tăng quy dã tự vân song kỷ, 人喚漁舟兩一簫 Nhân hoán ngư chu lưỡng nhất tiêu. 折葦渡江懷古意 Chiết vĩ độ giang hoài cổ ý, 茫茫煙水隔南韶 Mang mang yên thủy cách nam thiều. Dịch nghĩa: 2. Khói và mưa ở Đại Thông Ở ngôi chùa cổ trang nghiêm, nhớ đến chàng Lưu Tiêu; Trời mở đào cửa cảng tiếp liền với nước triều ơn nghĩa. Mây ráng sáng sớm nơi Long Tỉnh dọi xuống bóng cánh buồm, Cây mùa thu ở Nga Đàm gió lồng lộng thổi. Nhà sư đi về chùa quê với đôi dép mây, Người ta gọi thuyền chài bằng một hai tiếng sáo. 24 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Nhớ ý xưa bẻ cây lau làm bè qua sông, Khói nước mênh mang xa cách bờ nam. Tạm dịch thơ: Trang nghiêm chùa cổ nhớ Lưu Tiêu, Cửa cảng trời xây tiếp huệ triều. Long Tỉnh cánh buồm in ráng sớm, Nga Đàm ngọn gió lộng cây chiều. Sư về chùa nội mây nương guốc, Người gọi ghe chài tiếng thổi tiêu. Bẻ lách sang sông là ý cổ, Mênh mang khói nước cách nam thiều. 3. 白雲晚望 Bạch vân vãn vọng 夕陽滿壑未歸僧 Tịch dương mãn hác vị quy tăng, 得得行人興可乘 Đắc đắc hành nhân hứng khả thằng. 蘇尉菴前舒眺望 Tô Úy am tiền thư thiếu vọng, 鄭仙臺上憶飛昇 Trịnh Tiên đài thượng ức phi thăng. 至今井水甜於密 Chí kim tỉnh thủy điềm ư mật, 終古岩雲蔚若蒸 Chung cổ nham vân úy nhược chưng. 景泰當年留勝跡 Cảnh thái đương niên lưu thắng tích, 山頭卓錫寄吾曾 Sơn đầu trác tích ký ngô tằng. Dịch nghĩa: 3. Buổi chiều trông mây trắng Bóng chiều đã lan đầy hốc mà nhà sư chưa về, Người đi đường ai cũng tràn trề cảm hứng. Trước am của Tô Úy đưa mắt trông xa, Trên đài của Trịnh Tiên nhớ thủa bay lên trời. Đến nay nước giếng còn ngọt hơn mật, Suốt từ xưa mây núi ùn ùn như cỏ chưng. Cảnh trí đẹp đẽ năm ấy còn để lại thắng tích, Đầu núi còn ghi nơi cắm gậy gởi thân ta. 25Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Tạm dịch thơ: Bóng chiều đầy hốc thầy chưa lại, Nồng nã người đi hứng dẫy tràn. Trên gác Trịnh Tiên mơ cõi bụt, Trước am Tô Úy ngắm xa ngàn. Đến nay nước giếng càng thêm ngọt, Từ cổ mây non vẫn chửa tan. Cảnh đẹp năm nao lưu thắng tích, Đầu non cắm gậy gởi thân tàn. 4. 蒲澗簾泉 Bồ giản Liêm Tuyền 九曲溪流燕尾交 Cửu khúc khê lưu yến vĩ giao, 林門雲影遠僧敲 Lâm môn vân ảnh viễn tăng xao. 鴨池風雨鳴晴晝 Áp Trì phong vũ minh tình trú, 龍洞江河倒絕梢 Long Động giang hà đảo tuyệt sao. 匹練千尋懸石竇 Thất luyện thiên tầm huyền thạch đậu, 明珠萬斛落山凹 Minh châu vạn hộc lạc sơn ao. 菖蒲澗裡簾泉寺 Xương Bồ giản lý Liêm Tuyền tự, 一任詩人日美嘲 Nhất nhậm thi nhân nhật mỹ trào. Dịch nghĩa: 4. Chùa Liêm Tuyền ở khe Xương Bồ Khe chảy chín khúc như đuôi én giao nhau, Ông sư nơi xa đến dưới bóng mây gõ cửa [chùa] trong rừng. Gió mưa trên Áp Trì kêu ngày tạnh ráo, Sông ngòi ở Long Động hắt ngước bóng ngọn cây. Một tấm lụa dài nghìn tầm cống đá bắc ngang, Muôn hộc châu sáng rơi xuống vùng núi trũng. Chùa Liêm Tuyền trong vùng khe Xương Bồ, Mặc cho nhà thơ ngày ngày vui với cảnh đẹp. Tạm dịch thơ: Chín khúc khe quanh đuôi én giao, Dưới mây sư gõ cửa rừng vào. Gió mưa ao vịt kêu ngày tạnh, 26 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Sông nước hang rồng dọi ngọn cao. Dải lụa nghìn tầm treo cống đá, Hạt châu muôn hộc rải non ao. Xương Bồ bên suối Liêm Tuyền tự, Cảnh đẹp ngày ngày thi khách chào. 5. 景泰僧歸 Cảnh Thái tăng quy 池館玲瓏石作屏 Trì quán linh lung thạch tác bình, 騷人墨客品題經 Tao nhân mặc khách phẩm đề kinh. 溪山行李拼雙屐 Khê sơn hành lý phanh song kỹ, 烟月生涯足一瓶 Yên nguyệt sinh nhai túc nhất bình. 古樹半空盘涌水 Cổ thụ bán không bàn dũng thủy, 浮雲忽地護摩星 Phù vân hốt địa hộ ma tinh. 深懷客院粱居士 Thâm hoài khách viện Lương cư sĩ, 落落書聲裊枕聽 Lạc lạc thư thanh niễu chẩm thinh. Dịch nghĩa: 5. Sư về Cảnh Thái Quán bên ao sáng long lanh, đá dựng làm bình phong; Các nhà thơ nhà văn xưa nay đã đề vịnh. Đi lại trong khoảng núi khe mòn cả đôi dép (guốc), Kiếm sống giữa chốn khói trăng một bình bát đã đủ. Cây cổ thụ cao ngang lưng trời, ngăn dòng nước trào, Mây nổi trùm mặt đất che sát sao. Thiết tha nhớ đến Lương cư sĩ nơi viện khách, Tiếng đọc sách văng vẳng nghe bên gối. Tạm dịch thơ: Ao quán long lanh đá trấn phong, Nhà thơ đề vịnh trải bao đông. Núi khe đi lại đôi giày cỏ, Trăng khói no nê một bát đồng. Cây cổ lưng trời ngăn nước đổ, Mây trùm mặt đất chạm sao không. Nhớ nhung viện khách Lương cư sĩ, Văng vẳng lời thơ quyện gối chồng. 27Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 6. 石門返炤 Thạch môn phản chiếu 見說西花大寶坊 Kiến thuyết Tây Hoa Đại Bảo phường, 市墟樓閣海中央 Thị khư lâu các hải trung ương. 澗深石峭兩山夾 Giản thâm thạch tiễu lưỡng sơn giáp, 猛浪狂風千里長 Mãnh lãng cuồng phong thiên lý trường. 此地勵清曾酌水 Thử địa lệ thanh tằng chước thủy, 何人歸任剩沉香 Hà nhân quy nhậm thặng trầm hương. 寥寥萬古英靈在 Liêu liêu vạn cổ anh linh tại, 一片孤帆下夕陽 Nhất phiến cô phàm hạ tịch dương. Dịch nghĩa: 6. Ánh nắng dọi ngược cửa đá Nghe nói ở phường Tây Hoa Đại Bảo, Lầu gác chợ cồn nằm giữa biển khơi. Khe sâu đá dựng hai bên hẻm núi, Sóng mạnh gió cuồng dài nghìn dặm. Chốn này mát mẻ [tôi] đã từng uống nước, Ai đã về trấn nhậm để lại hương thơm. Hồn thiêng muôn thuở vẫn còn phảng phất, Một cánh buồm đơn chiếc dưới nắng chiều. Tạm dịch thơ: Nghe nói Tây Hoa Đại Bảo phường, Chợ cồn lầu gác biển trung ương. Khe sâu đá dựng hai bên núi, Sóng dữ gió tuôn mấy dặm trường. Chốn ấy mát lành trong sạch nước, Ai đâu đến nhậm ngát thơm hương. Hồn thiêng muôn thuở còn quanh quất, Một chiếc buồm đơn nắng xế vương. 7. 金山古寺 此去仙城一葦間 老僧行脚莫須慳 麻〇有感詩人梦 松檜無知倦客攀 積翠樓前花冉冉 飛雲潭上水潺潺 吾南從此添佳話 不數奚囊載雲還 28 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Kim Sơn cổ tự Thử khứ Tiên Thành nhất vĩ gian, Lão tăng hành cước(1) mạc tu khan. Ma tư(2) hữu cảm thi nhân mộng, Tùng cối vô tri quyện khách phan. Tích thúy lâu tiền hoa nhiễm nhiễm, Phi vân đàm thượng thủy sàn sàn. Ngô Nam tòng thử thiêm giai thoại, Bất sổ hề nang tải vân hoàn. Dịch nghĩa: 7. Ngôi chùa cổ Kim Sơn Lần này đến Tiên Thành trong một chiếc thuyền con, Vị sư già hành cước xin đừng hẹp hòi [keo kiệt, hà tiện]. Ma tư có cảm xúc, nhà thơ mơ mộng; Tùng cối chẳng biết gì, khách mệt mỏi vin vào. Màu xanh biếc um tùm trước lầu, hoa lốm đốm; Mây bay trên đầm, nước chảy róc rách. Nước Nam ta từ đó thêm bao chuyện hay, Trong túi đựng không biết bao nhiêu mây đem về. Tạm dịch thơ: Lần nữa Tiên Thành thuyền nhỏ ghé, Sư già hành cước chớ khiêm nhường. Ma tư có cảm nhà thơ mộng, Tùng cối không hay khách mỏi nương. (1) Hành cước: Theo Từ điển Phật học Hán Việt, là đi bộ, chỉ việc thiền tăng tu hành theo lối đi thiền hành đây đó. Tổ Định sự uyển, q. 8: “Hành cước là rời bỏ quê quán, chân đi khắp thiên hạ, thoát bỏ tình lụy, tìm kiếm thầy bạn cầu pháp chứng ngộ. Cho nên việc học của họ không theo một ông thầy cố định, chỉ chú trọng vào việc đi khắp đây đó” (TĐPHHV, tr. 476). Đây là lối tu hành của các nhà sư thuộc phái Tiểu thừa (Hina-yana), chứng quả Bích Chi Phật. (2) Chữ này cấu tạo gồm bộ Mễ + chữ Tư (米 + 茲), chúng tôi đoán âm “Tư” (theo phép hình thanh), nhưng không rõ nghĩa là gì (tra từ điển không thấy). Chúng tôi dùng một số tự điển và từ điển, nhưng chủ yếu là các bộ: 1. Văn thần triều Thanh, Khang Hy tự điển, Thương Vụ ấn thư quán, Trung Hoa Dân quốc nhị thập tứ / lục niên [1934-1936]; 2. Nguyễn Quốc Hùng, Hán Việt từ điển, Khai Trí, Sài Gòn, 1975; 3. Vĩnh Cao, Nguyễn Phố (2001), Từ lâm Hán Việt từ điển, Thuận Hóa, Huế; 4. Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Phân viện Nghiên cứu Phật học (2004), Từ điển Phật học Hán Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, (chúng tôi sẽ ghi tắt: TĐPHHV). 29Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Mây bủa trên đầm làn nước đổ, Lá xanh trước gác đám hoa vương. Nước Nam từ đó thêm giai thoại, Trong túi dồn mây lại trở đường. 8. 波羅浴日 Ba la dục nhật 海上重重古庙峨 Hải thượng trùng trùng cổ miếu nga, 遠方遺種貢波羅 Viễn phương di chủng cống ba la.(1) 司空立化英靈在 Tư không lập hóa anh linh tại, 佑客虔誠科擞過 Hựu khách kiền thành khoa tẩu qua. 浴日亭前金鏡爛 Dục nhật đình tiền kim kính lạn, 望江樓外火珠磨 Vọng giang lâu ngoại hỏa châu ma. 九流祀典欽加錫 Cửu lưu(2) tự điển khâm gia tích, 御笔豊碑盥手摩 Ngự bút phong bi quán thủ ma. Dịch nghĩa: 8. Ngày tắm cây ba la Ngoài biển khơi lớp lớp, ngôi miếu cổ nguy nga; Người phương xa đem giống cống vào cây ba la. Quan Tư không vừa qua đời, hồn thiêng vẫn còn; Khách giúp đỡ rất chân thành phấn chấn đi qua. Tắm nắng trước đình, tấm gương vàng sáng chói; Trông dòng sông ngoài lầu, những viên ngọc lửa mài. Chín phái vâng theo phép thờ do vua ban, Rửa tay khắc lên bia bài văn ngự chế. Tạm dịch thơ: Giữa biển trùng nguy nga miếu cổ, Giống này cống bởi khách phương xa. (1) Ba la: một loài cây lạ, do phương xa hay nước khác đem cống. Sách Tông môn tập lục có đoạn: “Phạm vương đến núi Linh Sơn dâng Phật một cành hoa Ba la vàng rồi xả thân làm sàng tọa, thỉnh Phật vì chúng sinh thuyết pháp. Đức Thế Tôn đăng tọa, giơ cành hoa cho đại chúng xem. Nhân thiên trăm vạn không ai hiểu gì, chỉ có một đầu đà nước da vàng óng rạng rỡ mỉm cười. Đức Thế Tôn bèn nói: Ta có chính pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, trao lại cho Ma-ha Ca-diếp” (TĐPHHV, tr. 931). Đó là nguồn gốc của Thiền tông. (2) Cửu lưu: chín hệ phái tư tưởng cổ ở Trung Quốc, gồm: Nho gia, Đạo gia, Âm Dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung Hoành gia, Tạp gia, Nông gia. 30 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Tư không thân hóa, anh linh tại, Hựu khách lòng thành, phấn chấn qua. Tắm nắng trước đình gương sáng chói, Ngắm sông ngoài gác lửa châu lòa. Phép thờ chín phái vâng vua sắc, Ngự bút lau tay kính khắc ra. BÀI SỐ 16-18 初夏三首 Sơ hạ tam thủ 燕忙鶯老柳如絲 Yến mang oanh lão liễu như ty, 陌上薰風拂面吹 Mạch thượng huân phong phất diện xuy. 薄祭共誰朝荐麥 Bạc tế cộng thùy triêu tiến mạch, 清齋聊爾日烹葵 Thanh trai liêu nhĩ nhật phanh quỳ. 也能世上降龍虎 Dã năng thế thượng hàng long hổ, 箇是僧中仰象獅 Cá thị tăng trung ngưỡng tượng sư. 高舉何人雲路去 Cao cử hà nhân vân lộ khứ, 獨嫌豚犬景昇兒 Độc hiềm đồn khuyển cảnh thăng nhi. * * * * * * 清和天氣好臨池 Thanh hòa thiên khí hảo lâm trì, 小扇輕衫事事宜 Tiểu phiến khinh sam sự sự nghi. 紅日漸高初罷課 Hồng nhật tiệm cao sơ bãi khóa, 綠陰新長可安棋 Lục âm tân trưởng khả an kỳ. 故園春去鶯啼樹 Cố viên xuân khứ oanh đề thụ, 野徑香消蝶戀枝 Dã kính hương tiêu điệp luyến chi. 長敞小樓留客話 Trường xưởng tiểu lâu lưu khách thoại, 禪機不似世機危 Thiền cơ bất tự thế cơ nguy. * * * * * * 江城泊暮起鳴刁 Giang thành bạc mộ khởi minh điêu, 習習薰風屆秀葽 Tập tập huân phong giới tú yêu. 競渡何人飛畫鷁 Cạnh độ hà nhân phi họa nghịch, 行觴無〇(1)貰金貂 Hành thương vô độ thế kim điêu. (1) Chữ trong vòng tròn là chữ ĐỘ. Gồm bộ 氵 (thủy) + 度 (độ). 31Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 千秋筆為留芳著 Thiên thu bút vị lưu phương trứ, 半夜灯緣紀梦挑 Bán dạ đăng duyên ký mông thiêu. 兀兀坐禪枯樹下 Ngột ngột tọa thiền khô thụ hạ, 凝神若橛學承蜩 Ngưng thần nhược quyết học thừa điều. Dịch nghĩa: Đầu mùa hè (ba bài) Én rộn ràng, oanh già nua, liễu nẩy [lá non như] tơ; Trên đường gió mát thổi vào mặt. Lễ tế đơn sơ cùng ai dâng lúa mạch, Dùng chay thanh khiết với bạn ngày ngày nấu trà quỳ. Trên đời cũng có khả năng bắt rồng cọp phải chịu phục, Ấy là một trong số các nhà tu hành kính ngưỡng voi và sư tử. Người nào đỗ đạt cao đi theo đường mây, Chỉ hiềm nỗi là trẻ con lớn lên từ chỗ chó lợn. * * * Khí trời mát mẻ điều hòa, ra ao thì tốt; Cái quạt nhỏ, cái áo nhẹ, mọi việc đều thích hợp. Mặt trời lên cao dần, buổi học đã tan; Bóng lá xanh mới lớn có thể yên lòng chơi cờ. Vườn cũ xuân qua rồi, oanh hót trên cây; Lối quê mùi thơm đã vãn mà bướm còn lưu luyến cành. Lầu nhỏ thoáng đãng cầm giữ mãi khách cùng chuyện trò, Cơ thiền không nham hiểm như sự đời. * * * Trời về chiều, thành bên sông vang lên tiếng kẻng; Gió mát phần phật thổi đến hàng cỏ “yêu” tươi tốt. Người nào tranh nhau sang đò, chim nghịch vẽ bay, Nâng chén không ngừng, vay mượn điêu vàng. Nghìn thu bút viết để lưu giữ mùi thơm, Nửa đêm khêu đèn để ghi lại giấc mộng. Ngồi thiền sừng sững dưới cây khô, Tập trung tinh thần như cái cọc, học theo loài ve sầu. 32 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Tạm dịch thơ: Én rộn oanh già tơ liễu rũ, Trên đường mát mặt gió lùa qua. Cùng ai lễ mọn dâng cơm mới, Với bạn ngày chay chuốc chén trà . Phục hổ hàng long tài cái thế, Tôn sư kính tượng đức tăng già. Đường mây cho kẻ cao khoa cử, Chỉ nỗi con em chốn lợn gà. * * * Khí hòa mát mẻ dạo ao khơi, Quạt nhỏ áo manh cũng hợp thời. Bóng ác lên cao tan buổi học, Tán cây tỏa rộng đặt cờ chơi. Xuân qua vườn cũ oanh còn hót, Hương cạn đường quê bướm chẳng rời. Giữ khách gác cao trò chuyện mãi, Cơ thiền không hiểm, hiểm cơ đời. * * * Thành sông chiều tối kẻng kêu vang, Lồng lộng gió lùa đám cỏ hoang. Người lấn sang đò xua nghịch vẽ, Kẻ say uống rượu mượn điêu vàng. Khêu đèn nửa tối mà ghi mộng, Vẫy bút nghìn thu để giữ hương. Sừng sững ngồi thiền bên gốc cỗi, Ngưng thần như cọc học ve nương. 33Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 BÀI SỐ 19 溪嘯亭 Khê Khiếu đình 朝臨淮泗暮衡嵩 Triêu lâm Hoài Tứ(1) mộ Hành Tung,(2) 絕愛風亭四望通 Tuyệt ái phong đình tứ vọng thông. 買笑聯將碁作計 Mãi tiếu liên tương kỳ tác kế, 破愁何用酒為功 Phá sầu hà dụng tửu vi công. 沂雩道味津津後 Nghi Vu(3) đạo vị tân tân hậu, 陵谷人情咄咄中 Lăng Cốc(4) nhân tình đốt đốt trung. 承有虎溪相送好 Thừa hữu Hổ Khê(5) tương tống hảo, 遠公原不負陶公 Viễn công(6) nguyên bất phụ Đào công.(7) (1) Hoài Tứ: tên hai con sông nhỏ ở Trung Quốc. Sông Hoài, còn gọi là Tần Hoài, phát nguyên trên núi Đồng Bách, tỉnh Hà Nam, chảy về đông qua các tỉnh An Huy, Giang Tô, đổ vào hồ Hồng Trạch rồi ra biển ở phía nam Giao Châu Loan. Sông Tứ phát nguyên ở tỉnh Sơn Đông, chảy qua tỉnh Giang Tô, vào Sông Hoài, có một nhánh là Sông Thù; Sông Tứ và Sông Thù đều chảy qua Khúc Phụ, quê hương của Khổng Tử, nên lấy làm biểu trưng cho Đạo học (Nho học). (2) Hành Tung: hai trong năm ngọn núi nổi tiếng từ xưa của Trung Quốc (ngũ nhạc), được các triều đại phong kiến xếp vào điển phong thần và thờ cúng: Đông nhạc Thái Sơn, Tây nhạc Hoa Sơn, Nam nhạc Hành Sơn, Bắc nhạc Hằng Sơn, Trung nhạc Tung Sơn. Hành Sơn ở tây bắc huyện Hành Dương, tỉnh Hồ Nam, có nhiều đỉnh cao như Tử Cái, Thiên Trụ, Thạch Lẫm, Chúc Dung, Hồi Nhạn. Tung Sơn còn gọi là Tung Cao, ở phía bắc huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, cách huyện lỵ 5km, có rất nhiều danh thắng, nổi tiếng nhất là ngọn Thiếu Thất, nơi tổ sư Đạt Ma dựng chùa Thiếu Lâm, và về sau khai sinh võ phái Thiếu Lâm. (3) Nghi Vu: Trong sách Luận ngữ, chương thứ 11 Tiên tiến, đoạn 25. Đức Khổng Tử hỏi các học trò về cái chí của mỗi người. Tử Lộ, Nhiễm Hữu (Cầu), Công Tây Hóa (Xích) trình bày sở nguyện về chính trị, lễ nhạc, đến Tăng Tích (Điểm) thì nói: “暮春者春服既成冠者五六人童子六七人浴乎沂風乎舞雩詠而歸 Mộ xuân giả, xuân phục ký thành, quán giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi quy” (Về cuối xuân, áo xuân đã may xong, cùng năm sáu chàng trai, sáu bảy đứa trẻ, đi tắm ở Sông Nghi, hóng gió ở Vũ Vu, rồi ca hát mà về), ý thích tự do phóng khoáng với bạn bè. Khổng Tử nghe xong, ngậm ngùi than rằng: “吾與點也 Ngô dữ Điểm dã” (Ta cũng như trò Điểm vậy!). (4) Lăng Cốc: hang núi ở huyện Vũ Lăng (nay là huyện Thường Đức, tỉnh Hồ Nam). Trong bài Đào hoa nguyên ký, Đào Tiềm kể chuyện một người đánh cá ngược dòng suối vào núi xa, thấy hoa đào trôi theo dòng nước, ghé thuyền lên bờ thì thấy mình đứng giữa rừng đào, có động Đào Hoa, nhà cửa, làng xóm thấp thoáng trong cây xanh, cư dân ăn mặc theo lối cổ. Anh ta tiếp xúc hỏi thăm, thì biết tổ tiên họ lánh nạn nhà Tần vào đây đã mười mấy đời, con cháu không còn biết gì về thế giới bên ngoài. Anh ta về kể lại cho quan huyện Vũ Lăng nghe. Quan huyện lấy làm lạ, sai người đi tìm thì không thấy gì nữa (5) Hổ Khê: tên suối ở núi Lư, chảy quanh chùa Đông Lâm, nơi tu hành của sư Tuệ Viễn thời nhà Tấn. Sư không bao giờ ra khỏi cảnh chùa, mỗi lần tiễn khách, đi đến bờ suối thì từ giã quay lui. Một hôm, sau khi trò chuyện với Đào Nguyên Lượng và Lục Tu Tỉnh, sư đưa tiễn họ, vừa đi vừa tiếp tục nói chuyện mải mê, bỗng nghe tiếng cọp gầm, nhìn lại thì đã qua khỏi suối lúc nào không hay. Cả ba người nhìn nhau cười ha hả. Nhân đó, họ mới gọi tên suối là Hổ Khê. (6) Viễn công: tức sư Tuệ Viễn (Huệ Viễn), xem chú 3 ở trên. (7) Đào công: tức Đào Tiềm (365-427) thời Tấn, tự Uyên Minh, sau lấy tên Uyên Minh, tự Nguyên Lượng, hiệu Ngũ Liễu tiên sinh, quê ở Sài Tang, huyện Tầm Dương (nay huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây), nhà nghèo, nhưng tính phóng khoáng, có ra làm quan, đến chức huyện lệnh Bành Trạch thì bỏ về vì không chịu nổi sự câu thúc. 34 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Dịch nghĩa: Đình Khê Khiếu (khe kêu) Sáng đến sông Hoài, Tứ, chiều lại về núi Hành, Tung; Rất yêu thích ngôi đình hóng gió, ngắm suốt cả bốn phía. Muốn mua vui thì bày bàn cờ ra làm phương tiện, Để giải khuây cần chi phải mượn rượu làm công. Mùi đạo ở Sông Nghi và đền Vũ Vu đời sau vẫn thấm nhuần, Tình người chốn Lăng Cốc rất rõ rệt. Nay còn có Hổ Khê là nơi tiễn đưa nhau rất tốt lành, Ngài Tuệ Viễn chắc không phụ bạc với ông Đào Tiềm. Tạm dịch thơ: Sáng qua Hoài Tứ, tối Hành Tung, Thích quá phong đình bốn phía thông. Hễ muốn mua vui, cờ có thú, Còn như giải muộn, rượu không dùng. Nghi Vu mùi đạo đời đời vẫn, Lăng Cốc tình người chốn chốn chung. Nay có Hổ Khê nơi tiễn bạn, Viễn công không chút phụ Đào công. BÀI SỐ 20-21 圍棋二首 Vi kỳ nhị thủ 兩儀太極妙無涯 Lưỡng nghi thái cực(1) diệu vô nhai, 觸鬥蠻爭竞壁蝸 Xúc đấu man tranh cạnh bích oa. 數頃藍田拋玉子 Sổ khoảnh Lam Điền(2) phao ngọc tử, (1) Lưỡng nghi thái cực: theo Dịch kinh, vũ trụ tuần hành khởi đầu từ vô cực (cái không, cái hỗn độn) mà sinh ra thái cực (một khối tiềm ẩn mầm sống), thái cực phân hóa ra lưỡng nghi, gồm hai yếu tố âm và dương, mỗi yếu tố ấy lai tự phân chia làm hai mà có thái âm, thái dương, thiếu âm, thiếu dương, rồi phối hợp thành bát quái, lục thập tứ quái. (2) Lam Điền: Tên núi, ở phía đông huyện Lam Điền, nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, nơi có nhiều đá quý, ngọc tốt. Bài thơ Cẩm sắt của Lý Thương Ẩn thời Đường có câu: 滄海月明珠有淚/藍田日暖玉 生煙 Thương Hải nguyệt minh châu hữu lệ / Lam Điền nhật noãn ngọc sinh yên (Thương Hải trăng soi châu có lệ / Lam Điền nắng ấm ngọc xông hơi). 35Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 四邊階道著旛花 Tứ biên Giai Đạo(1) trứ phan hoa. 虛空常作摩醯眼 Hư không thường tác ma ê(2) nhãn, 黑暗辰張餓鬼牙 Hắc ám thời trương ngạ quỷ(3) nha. 死死生生心上造 Tử tử sinh sinh tâm thượng tạo, 別開世界等河沙 Biệt khai thế giới đẳng hà sa. * * * * * * 緯地經天三百六 Vĩ địa kinh thiên tam bách lục, 陰陽混沌正紛紛 Âm dương hỗn độn chính phân phân. 飛空日月龍爭窟 Phi không nhật nguyệt long tranh quật, 到處關河雁叫群 Đáo xứ quan hà nhạn khiếu quần. 星布幾重蛇勢陣 Tinh bố cơ trùng xà thế trận, 風吹不出獸形雲 Phong xuy bất xuất thú hình vân. 莫嫌鳥啄梅花落 Mạc hiềm điểu trác mai hoa lạc, 驟雪来辰掃暮氛 Sậu tuyết lai thời tảo mộ phân. Dịch nghĩa: Cờ vây (hai bài) Lưỡng nghi, thái cực vô cùng mầu nhiệm; Hai phe tranh đấu với ếch tường (?). Mấy khoảnh Lam Điền rải rác những hòn ngọc, Bốn bên Giai Đạo cắm cờ phan. Ở trên khoảng trống không, làm mắt lũ ma ê; Ở trong chỗ tối tăm nhe hàm răng ngạ quỷ. Sống sống chết chết đều do tâm tạo ra, Từ đó mà mở ra vô vàn thế giới. * * * Dọc trời ngang đất ba trăm sáu mươi ngày, Âm dương trộn lẫn với nhau rất rối rắm. Mặt trăng mặt trời bay trên không, rồng tranh hang hốc; (1) Giai Đạo: theo phép đối thì đây là tên riêng, nhưng cũng có thể là danh từ chung, chỉ phần hai bên đường đi, ta gọi là vỉa hè. Trường hợp đối như vậy cũng thường thấy. (2) Ma ê: Chưa rõ ý nghĩa, nhưng có lẽ cũng chỉ một loài ma quỷ. (3) Ngạ quỷ: quỷ đói (cũng đọc “ngã quỷ”), một trong “tam đồ”, ba chỗ địa ngục để hành hạ những kẻ gây ác nghiệp khác nhau: 1. Hỏa đồ (địa ngục): nơi thiêu đốt tội nhân làm việc tàn ác. 2. Huyết đồ (súc sinh): nơi trừng trị tội nhân ăn thịt lẫn nhau. 3. Đao đồ (ngạ quỷ): nơi xử phạt những kẻ vì đói mà làm việc chẳng lành. 36 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Cửa ải sông ngòi đến đâu, nhạn gọi bầy. Sao sắp hàng mấy lớp thành trận rắn, Gió thổi không ra được mây hình thú vật. Chớ hiềm chim mổ hoa mai rụng, Vào lúc tuyết rơi nhiều sẽ quét sạch làn khí ban tối. Tạm dịch thơ: Lưỡng nghi thái cực nhiệm mầu thay, Xúc đấu man tranh ếch vách bày. Mấy khoảnh Lam Điền hòn ngọc nổi, Bốn bên Giai Đạo dải hoa lay. Ma ê dương mắt trên không đó, Ngạ quỷ nhe răng giữa tối đây. Sinh tử tử sinh tâm tạo hết, Mở ra vô số thế gian này. * * * Dọc đất ngang trời ba sáu mươi, Âm dương trộn lẫn rối bời bời. Ải sông khắp chốn nhàn kêu bạn, Nhật nguyệt lừng không rồng náu hơi. Lớp lớp sao dăng bày trận rắn, Ào ào gió thổi lặng mây trời. Chớ hiềm chi một hoa mai rụng, Lúc tuyết rơi nhiều khí tối vơi. BÀI SỐ 22-23 夏雨二首 Hạ vũ nhị thủ 溪山如畫卷蝦鬚 Khê sơn như họa quyển hà tu, 雨後光風草木蘇 Vũ hậu quang phong thảo mộc tô. 岸竹到垂榣翠羽 Ngạn trúc đảo thùy dao thúy vũ, 渚荷傾破瀉明珠 Chữ hà khuynh phá tả minh châu. 白衣冉冉雲生閣 Bạch y nhiễm nhiễm vân sinh các, 宝鑑容容水滿湖 Bửu giám dung dung thủy mãn hồ. 37Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 地老天荒孤鶴唳 Địa lão thiên hoang cô hạc lệ, 旁人錯認雁啣蘆 Bàng nhân thác nhận nhạn hàm lô. * * * * * * 文殊禮罷雨霏霏 Văn Thù lễ bãi vũ phi phi, 曉望湖樓思欲飛 Hiểu vọng hồ lâu tứ dục phi. 荷乱翻風盤走汞 Hà loạn phiên phong bàn tẩu hống, 柳低炤水線懸璣 Liễu đê chiếu thủy tuyến huyền ky. 氣含筆硯呵偏潤 Khí hàm bút nghiễn hà thiên nhuận, 雲厭箏琵聽漸微 Vân yếm tranh tỳ thính tiệm vi. 狙詐世情君莫說 Thư trá thế tình quân mạc thuyết, 漢陰已息丈人機 Hán Âm dĩ tức trượng nhân ky. Dịch nghĩa: Mưa mùa hè (hai bài) Khe núi như tranh vẽ lớp lớp râu tôm cuộn, Sau cơn mưa, trời trong sáng, cây cỏ bóng loáng. Tre bên bờ lả ngọn rũ bóng lá xanh, Sen trong ao nghiêng nước đổ thành những hạt ngọc sáng. Gác tỏa mây như áo trắng phơ phất, Hồ đầy nước như gương sáng long lanh. Đất già trời hoang, chim hạc cô đơn cất tiếng kêu, Người bên ngoài nhận lầm là nhạn ngậm lau. * * * Làm lễ Văn Thù xong, mưa lâm thâm, Sáng sớm trông cảnh hồ, ý tứ muốn bay bổng. Gió thổi lá sen tơi bời như bạc chạy trong mâm, Liễu trên đê dọi xuống nước như ngọc treo trên dây. Khí dầm nghiên bút, hà hơi vào thì ướt ngay, Mây che đàn tranh đàn tỳ, nghe tiếng nhỏ. Bác đừng nói chi về tình đời gian dối, Nhà Hán tàn rồi, bậc trượng phu cũng đã hết. 38 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Tạm dịch thơ: Khe non như vẽ râu tôm cuộn, Mưa tạnh gió quang cây cỏ tươi. Trúc bến rũ nghiêng lay lá biếc, Sen đầm gãy ngã rụng châu ngời. Rỡ ràng áo trắng lầu mây phủ, Lấp lánh gương vàng vũng nước khơi. Đất cỗi trời hoang kêu tiếng hạc, Người ngoài tưởng nhạn ngậm lau rời. * * * Lễ Văn Thù dứt bỗng mưa rây, Sớm ngắm lầu hồ tứ muốn bay. Gió lật lá sen dòng bạc chảy, Nước soi bóng liễu sợi châu lay. Khí dầm nghiên bút hơi nhuần thế, Mây vẫn tranh tỳ tiếng nhỏ thay. Gian dối tình đời xin chớ nói, Hán tàn đã dứt bậc người hay. BÀI SỐ 24-27 小翠四首 Tiểu Thúy tứ thủ 占斷郊居一味閑 Chiêm đoán giao cư nhất vị nhàn, 荒村歸牧唱間關 Hoang thôn quy mục xướng gian quan. 方壺員嶠雲霞爛 Phương Hồ, Viên Kiệu(1) vân hà lạn, 大海須弥日月環 Đại Hải, Tu Di(2) nhật nguyệt hoàn. 朝暮鐘魚閑事業 Triêu mộ chung ngư nhàn sự nghiệp, (1) Phương Hồ, Viên Kiệu: các xứ tiên trong truyện cổ Trung Quốc. Theo Sử ký: Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu là ba ngọn núi tiên trong Bột Hải; ở đấy, chim muông đều có lông trắng, cung điện đều bằng vàng bạc, các thần tiên bất tử sống thảnh thơi, sung sướng. Theo Liệt tử, ngoài Biển Đông có năm quả núi tiên Đại Dư, Viên Kiệu, Phương Hồ, Doanh Châu, Bồng Lai, cách nhau bảy vạn dặm (2) Đại Hải, Tu Di: núi và biển ở một tiểu thế giới. Thế giới này lấy núi Tu Di làm trung tâm, còn gọi là Diệu Cao Sơn, bốn chung quanh có bảy núi tám biển, ngoài cùng lại có núi Thiết Vi làm giới hạn rồi đến biển lớn (Đại Hải). Một nghìn tiểu thế giới hợp lại thành một tiểu thiên thế giới, một nghìn tiểu thiên thế giới hợp lại thành một trung thiên thế giới, một nghìn trung thiên thế giới hợp lại thành một đại thiên thế giới. Nói chung, đó là nơi cư trú của các loài hữu tình. 39Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 春秋花鳥剩江山 Xuân thu hoa điểu thặng giang san. 樹盘古石凉如洗 Thụ bàn cổ thạch lương như tẩy, 消夏堪稱第一湾 Tiêu hạ kham xưng đệ nhất loan. * * * * * * 安於緇素復何求 An ư truy tố phục hà cầu, 背世高風日練修 Bối thế cao phong nhật luyện tu. 花草斜分村外路 Hoa thảo tà phân thôn ngoại lộ, 雲霞低映水中樓 Vân hà đê ánh thủy trung lâu. 一聲長笛空山曼 Nhất thanh trường địch không sơn mạn, 數著殘棋古洞幽 Sổ trứ tàn kỳ cổ động u. 浪誦淮南招隱句 Lãng tụng Hoài Nam(1) chiêu ẩn cú. 滿庭清影蟋蛄啾 Mãn đình thanh ảnh tất cô thu. * * * * * * 深居長愛葛仙溪 Thâm cư trường ái Cát Tiên khê, 起視金烏爛玉雞 Khởi thị kim ô lạn Ngọc Kê.(2) 滿袖清風攜紫笋 Mãn tụ thanh phong huề tử duẩn, 一簑疎雨掇丹荑 Nhất soa sơ vũ xuyết đan đề. 山門有客呼鸚鵡 Sơn môn hữu khách hô anh vũ, 小艇無人坐〇鵜 Tiểu đĩnh vô nhân tọa phách(3) đề. 普率近聞龍詔下 Phổ suất cận văn long chiếu hạ, 陰崖寒谷振沉泥 Âm nhai hàn cốc chấn trầm nê. * * * * * * 海上何劳遠寄〇 Hải thượng hà lao viễn ký hàm(4), 無心鷹犬到秋毚 Vô tâm ưng khuyển đáo thu sàm. 小橋蟻渡山雞啄 Tiểu kiều nghị độ sơn kê trác, 曲木虫緣野鳥〇 Khúc mộc trùng duyên dã điểu kham.(5) 綠芰風翻紅舫陷 Lục kỵ phong phiên hồng phảng hãm, 黄梅雨著白衣〇 Hoàng mai vũ trứ bạch y am.(6) (1) Hoài Nam: tức Hoài Nam Tử, tên hiệu của Hoài Nam Vương Lưu An, một tôn thất nhà Hán, tác giả bộ sách Hoài Nam Tử. (2) Cát Tiên, Ngọc Kê: tên suối và núi gần nơi ở của tác giả. (3) Chữ trong vòng tròn là chữ PHÁCH, gồm: 辟 + 鳥. (4) Chữ trong vòng tròn là chữ HÀM, gồm: 虫 + 咸 (5) Chữ trong vòng tròn là chữ KHAM, gồm: 舀 + 鳥. (6) Chữ trong vòng tròn là chữ AM, gồm: 黑+ 咸. 40 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 禁中頗牧無人識 Cấm trung phả mục vô nhân thức, 憶我知音是畢諴 Ức ngã tri âm thị tất hàm. Dịch nghĩa: Nhà Tiểu Thúy (bốn bài) Ngẫm xem thử ở chốn đồng quê có cái thú vị an nhàn, Xóm vắng, người chăn trâu về hát vang không gian. Cõi tiên Phương Hồ, Viên Kiệu, mây rạng rỡ, Xứ Phật Đại Hải, Tu Di mặt trời mặt trăng xoay quanh. Sớm chiều câu cá, công việc thong thả, Chim hoa mùa xuân mùa thu, núi sông bát ngát. Tảng đá cổ bên gốc cây mát như được lau chùi, Tan hơi nồng nực đáng gọi là vũng ao bậc nhất. * * * Yên ổn với áo thâm, không cầu mong gì nữa; Quay lưng lại với cuộc đời, ngày ngày tu luyện bậc cao. Cây cỏ chia nghiêng với con đường ngoài xóm, Mây ráng dọi ánh sáng xuống ngôi lầu giữa nước. Tiếng sáo dài vang vang trên núi vắng vẻ, Vài cuộc cờ tàn trong động cổ thâm u. Sang sảng tụng câu thơ Chiêu ẩn của Hoài Nam, Bóng mát khắp sân, tiếng dế kêu ran. * * * Ở chốn thâm u, yêu mến mãi dòng khe Cát Tiên; Ngủ dậy thấy ác vàng rạng rỡ núi Ngọc Kê. Ống tay áo đầy gió mát, cầm búp măng tre màu tía; Một chiếc áo tơi che mưa nhỏ, với lá cỏ non màu đỏ. Cửa nhà trong núi có khách đến, chim vẹt gọi; Chiếc thuyền nhỏ không người, chim bồ nông đậu. Thiên hạ gần đây nghe chiếu rồng ban xuống, Chốn rừng sâu hang lạnh khuây động bùn chìm. * * * 41Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Sao lại vất vả gởi thân làm giống sò trên biển, Giống khuyển ưng nào có lòng nghĩ đến chú thỏ lúc thu tàn, Kiến đi qua chiếc cầu nhỏ thì bị gà rừng mổ, Sâu leo trong thân cây thì bị chim rừng ăn. Lá sen gió lật làm đỏ lối thuyền đi, Mai vàng dưới mưa làm trắng chiếc áo đen. Chốn cung cấm có người giữ gìn [đức hạnh] không ai biết, Nhớ kẻ tri âm quá hợp ý của ta. Tạm dịch thơ: Ở chốn đồng quê rất thảnh thơi, Mục đồng xóm vắng sáo vang trời. Phương Hồ Viên Kiệu vừng mây rạng, Đại Hải Tu Di nhật nguyệt ngời. Chài lưới sớm chiều nghề rảnh rỗi, Hoa chim xuân hạ cảnh xinh tươi. Gốc cây bàn đá lâng lâng mát, Tiêu hạ nơi đây thật tuyệt vời. * * * Yên sống đồ thâm chẳng thiết nào, Quên đời ngày tháng gắng tu cao. Cỏ hoa ngoài xóm ngăn chia lối, Mây ráng trên lầu dọi xuống ao. Tiếng sáo ngân dài vang núi vắng, Bàn cờ tàn cuộc lặng hang sâu. Hoài Nam Chiêu ẩn cao lời tụng, Bóng mát đầy sân tiếng dế xao. * * * Núi sâu yêu mãi Cát Tiên khê, Ngủ dậy ác vàng xế Ngọc Kê. Tay áo gió lồng măng tía dắt, Chiếc tơi mưa nhẹ cỏ son che. Cửa sài vẹt gọi khách vừa đến, 42 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Đò nhỏ chim “ngồi” người đã đi. Thiên hạ mới nghe vua xuống chiếu, Rừng sâu hang lạnh dẫy bùn nê. * * * Đem thân trên biển gởi loài sò, Ưng khuyển nhớ gì thỏ cuối thu. Kiến qua cầu nhỏ gà rừng mổ, Sâu nấp cây cao chim núi vồ. Sen biếc gió lùa hồng thuyền chạy, Mai vàng mưa đẫm trắng quần thô. Cung sâu dưỡng nết nào ai biết, Nhớ bạn tri âm hợp ý đồ. BÀI SỐ 28 山 中 Sơn trung 此身輕似鶴乘軒 Thử thân khinh tự hạc thừa hiên, 路引斜陽牧笛村 Lộ dẫn tà dương mục địch thôn. 一局漁樵歸梓澤 Nhất cục ngư tiều quy Tử trạch, 數家雞犬入桃源 Sổ gia kê khuyển nhập Đào nguyên. 馬衝嶺上雲盘野 Mã xung lãnh thượng vân bàn dã, 僧帶松間月叩門 Tăng đới tùng gian nguyệt khấu môn. 一自掛冠歸卧閣 Nhất tự quải quan quy ngọa các, 茯苓枉迓國深恩 Phục linh uổng nhạ quốc thâm ân. Dịch nghĩa: Trong núi Thân này nhẹ nhàng như chim hạc ngồi trên chiếc xe lớn, Con đường dẫn đến xóm sáo mục đồng thổi lúc chiều tà. Một cuộc người chài và người hái củi về đầm cây thị, Vài ngôi nhà gà và chó vào suối hoa đào. Ngựa xông lên trên đỉnh núi, mây thì sa xuống cánh đồng; Nhà sư ở trong đám cây thông, gõ cửa dưới trăng. 43Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Từ lúc treo mũ về nằm trên gác, Thuốc phục linh uổng chịu ơn nước sâu nặng. Tạm dịch thơ: Thân này nhẹ tựa hạc ngồi xe, Sáo mục bóng tà dọc lối quê. Một cuộc ngư tiều về Tử trạch, Vài nhà gà chó tới Đào khê. Ngựa xông lên đỉnh, mây đồng nội; Sư đội trong tùng nguyệt cửa tre. Treo mũ một lần về gác nghỉ, Uổng mang ơn nước thuốc thang xuê. BÀI SỐ 29 佛 日 Phật nhật 好是清和物候新 Hảo thị thanh hòa vật hậu tân, 無憂樹下摘花晨 Vô ưu thụ(1) hạ trích hoa thần. 宮開兜率天繒接 Cung khai Đâu Suất thiên(2) tằng tiếp, 園敞毘藍妓樂陳 Viên xưởng Tỳ Lam(3) kỹ lạc trần. 七寶蓮池移玉趾 Thất bảo liên trì di ngọc chỉ, 九龍香水洒金身 Cửu long hương thủy sái kim thân. 壹千年後南郊石 Nhất thiên niên hậu nam giao thạch, 象教流通萬國珍 Tượng giáo(4) lưu thông vạn quốc trân. (1) Vô ưu thụ: cây vô ưu, nơi Phật sinh ra, nguyên tên gọi là Asoka, dịch âm là A-thâu-ca, A-thuật-ca. (2) Đâu Suất thiên: tiếng Phạn Tusita, tên một cõi trời ở Dục giới. Đức Thích Ca Mâu Ni khi chưa thành Phật là Bồ tát Hộ Minh ngự ở đây cùng Đức Di Lặc dẫn dắt các bồ tát; ngài từng phóng hào quang ở gan bàn chân chiếu khắp mười phương thế giới, giúp chúng sinh ở địa ngục; khi ngài xuống trần thì phó chúc cho Đức Di Lặc tiếp tục giáo hóa chư bồ tát. Bốn nghìn năm ở nhân gian chỉ bằng một ngày đêm ở cõi trời Đâu Suất. (3) Tỳ Lam: tên vườn (Tỳ Lam viên), nguyên tự Lumbini (cũng dịch âm là Lam-tì-ni, Lưu-di-ni, Lâm-vi-ni, Lạp-phạn-ni, Lâm-phạn-ni, còn dịch nghĩa là Khả Ái viên), ở thành Ca-tì-la, nơi bà Ma-da sinh ra Đức Phật. Thời ấy, người giữ vườn có tên như thế, nên cũng lấy để đặt tên vườn. (4) Tượng giáo: tượng nghĩa đen là con voi, dùng thay chữ “像 tượng”, chỉ hình thể vật chất, ý nói đạo pháp không có hình thù nên khó diễn tả hết được, chỉ dùng “tâm” và “trí” mà cảm nhận thôi. Lại Đức Phật khi giảng kinh, thường lấy hình ảnh sự vật làm thí dụ cho chúng sinh hiểu, nên cũng gọi là Tượng giáo. Tượng cũng là tướng, hình ảnh, trạng thái của sự vật, của các pháp mà tri giác phân biệt được; phàm những gì có tướng đều là hư vọng; nếu thấy tướng trong phi tướng tức thấy Như Lai. 44 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Dịch nghĩa: Ngày Phật Tốt đẹp thay, khí hậu mát mẻ điều hòa, cảnh vật tươi mới; Dưới cây vô ưu, hái lấy hoa ban mai. Cung Đâu Suất mở ra, trời tiếp tấm lụa; Vườn Tỳ Lam rộng rãi, con hát bày ra cuộc vui. Hồ sen bảy thứ báu dời gót ngọc, Nước thơm chín con rồng rưới vào thân vàng. Một trăm năm sau, đá ở đồng phía nam; Đạo Phật truyền bá thành ra thứ quý trọng của muôn nước. Tạm dịch thơ: Khí hậu điều hòa khung cảnh mới, Hái nụ vô ưu dưới gốc mang. Cung bày Đâu Suất trời dâng lụa, Vườn rộng Tỳ Lam kỹ hát vang. Bảy báu hồ sen in gót ngọc, Chín rồng nước ngát tắm thân vàng. Một trăm năm nữa miền Giao Chỉ, Đạo Phật lưu thông khắp vạn bang. BÀI SỐ 30 浴 Dục 四月人間正蘊隆 江頭一浴失蟲蟲 六根輕利塵俱淨 四大安便觸是空 攀出尼河猶苦行 詠歸沂水剩遺風 不須袚禊蘭亭飲 草座粳縻自在翁 (1) Ni Hà: tên sông, không rõ ở đâu, hoặc chỉ nơi trần tục khổ ải. (2) Nghi Thủy: xem chú thích “Nghi Vu” ở bài số 19, Khê Khiếu đình. (3) Phất hễ: một lễ tục thời xưa, bạn bè họp nhau tắm rửa, bày tiệc rượu vui chơi. Vương Hy Chi (321-379), con của Vương Đạo đời Tấn, là một nhà thư pháp nổi tiếng. Một hôm, nhằm năm Vĩnh Hòa 9 (353) thời Tấn Mục Đế, nhân ngày lễ Phất hễ, ông cùng 24 danh sĩ tập trung tại Lan Đình thuộc huyện Sơn Âm, Cối Kê, vừa uống rượu, vừa làm thơ, ông viết bài tựa, nhan đề Lan Đình tập tự trên giấy kén, bút lông chuột, 28 dòng, 324 chữ bằng một thể đặc biệt, đẹp vô song, người ta gọi là “Lan Đình bút thiếp thức”. Đáng tiếc bản văn bị thất truyền. 45Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Tứ nguyệt nhân gian chính uẩn long, Giang đầu nhất dục thất trùng trùng. Lục căn khinh lỵ trần câu tĩnh, Tứ đại an tiên xúc thị không. Phan xuất Ni Hà(1) do khổ hạnh, Vịnh quy Nghi Thủy(2) thặng di phong. Bất tu Phất hễ Lan Đình(3) ẩm, Thảo tọa canh mi tự tại ông. Dịch nghĩa: Tắm Tháng Tư, chính là lúc người đời nhơ bẩn nhất; Đầu bến sông một lần tắm gột sạch hết mọi sâu bọ. Lục căn nhẹ nhỏm bụi bặm đều sạch sẽ, Tứ đại yên lành không bị va chạm gì. Vin níu ra khỏi Ni Hà vẫn còn hạnh khổ, Ngâm thơ về Nghi Thủy còn phong thái để lại. Không nên uống rượu Lan Đình ngày Phất hễ, Làm một ông già thoải mái với ghế cỏ cháo hoa. Tạm dịch thơ: Tháng Tư người thế bẩn vô cùng, Ra tắm đầu sông gột hết trùng. Nhẹ nhõm sáu căn nhơ thảy sạch, Yên lành bốn đại xúc đều không. Ngâm về Nghi Thủy di phong sót, Vin thoát Ni Hà khổ hạnh vòng. Đừng chuốc Lan Đình ngày Phất hễ, Cháo hoa giường cỏ tự nhiên ông. 46 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 BÀI SỐ 31-35 古翠齋五首 Cổ Thúy trai ngũ thủ 偏稱幽居足布綯 Thiên xứng u cư túc bố đào,(1) 不姑盛世作琼艘 Bất cô thịnh thế tác quỳnh sưu. 東鄰禴祭西鄰福 Đông lân dược tế tây lân phúc, 南院風流北院豪 Nam viện phong lưu, bắc viện(2) hào. 古寺獨参金粟去 Cổ tự độc tham Kim Túc(3) khứ, 深山誰共赤松敖 Thâm sơn thùy cộng Xích Tùng(4) ngao. 太平歌舞家家樂 Thái bình ca vũ gia gia lạc, 肯與東門世外逃 Khẳng dữ đông môn thế ngoại đào. * * * * * * 深壑平岡竹數椽 Thâm hác bình cương trúc sổ chuyên, 兩中小篋兩灯前 Lưỡng trung tiểu khiếp lưỡng đăng tiền, 泉香沁齒和琼屑 Tuyền hương thấm xỉ hòa quỳnh tiết.(5) 菜嫩沾脣餌玉延 Thái nộn triêm thần nhĩ ngọc diên. 說法承家長奉佛 Thuyết pháp thừa gia trường phụng Phật, 報恩何日可俱仙 Báo ân hà nhật khả câu tiên. 三年歸去偏知穩 Tam niên quy khứ thiên tri ổn, 卧着寒潭縮項鳊 Ngọa khán hàn đàm súc hạng biên.(6) * * * * * * 明月清風契夙因 Minh nuyệt thanh phong khế túc nhân, 飄然衲子淡無塵 Phiêu nhiên nạp tử đạm vô trần. (1) Đào là sợi dây, chỉ việc làm nhà cỏ, nhà tranh. Thi kinh, phần Quốc phong, Bân phong, thiên Thất nguyệt (詩經-國風-豳風-七月), chương VI, nói về công việc phải làm trong tháng Sáu, có câu: 晝爾于茅/宵爾 索綯/亟其乘屋/其始播百穀 Trú nhĩ vu mao / Tiêu nhĩ tác đào / Cức kỳ thừa ốc / Kỳ thủy bá bách cốc (Ngày ngươi bứt cỏ / Tối ngươi xe dây / Nóc nhà sửa lợp / Để lại cấy cày). (2) Nguyên bản chép nhầm thành chữ 阮 Nguyễn, chúng tôi hiệu đính. Nói Nam Nguyễn, Bắc Nguyễn tuy cũng có nghĩa, nhưng không được thông (họ Nguyễn ở Nam, họ Nguyễn ở Bắc là ai?). (3) Kim Túc: tức Kim Túc Như Lai, vị cổ Phật đã mượn thân cư sĩ Duy Ma để giáng sinh cùng thời với Phật Thích Ca để ủng hộ Phật pháp. Duy Ma (Vinalakirti), dịch âm Duy-ma-la-cật, là một cư sĩ ở thành Tỳ- da-li, phụ giúp Đức Phật giáo hóa. (4) Xích Tùng: Xích Tùng Tử, một vị tiên trong thời huyền sử Thần Nông, đồng thời là thần mưa. Thần đi mây về gió, vào lửa không cháy, thường tới núi Côn Luân, ở nhà đá của Tây Vương Mẫu. Con gái Viêm Đế theo thần học đạo cũng thành tiên. (5) Quỳnh tiết: ngọc vụn, chỉ cơm. (6) Biên: Khang Hy tự điển chú: Dân Giang Đông gọi cá phường là biên. Cá phường, ta gọi là cá mè. 47Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 重尋小翠参禪處 Trùng tầm Tiểu Thúy tham thiền xứ, 三度含龍結夏辰 Tam độ Hàm Long kết hạ thần. 啼鳥野花聊暫別 Đề điểu dã hoa liêu tạm biệt, 白雲流水漸相親 Bạch vân lưu thủy tiệm tương thân. 元山此去應無恙 Nguyên sơn thử khứ ưng vô dạng, 待我歸来作主人 Đãi ngã quy lai tác chủ nhân. 剝啄鐘魚信手撞 Bác trác chung ngư tín thủ tràng, * * * * * * 萬緣如絮望風降 Vạn duyên như nhứ vọng phong hàng. 僧初出定仙機悞 Tăng sơ xuất định tiên cơ ngộ, 客偶輸誠鬼語〇 Khách ngẫu thâu thành quỷ ngữ song.(1) 畟畟松風橫度壑 Tắc tắc tùng phong hoành độ hác, 團團桂月上臨窗 Đoàn đoàn quế nguyệt thướng lâm song. 神游世介三千外 Thần du thế giới tam thiên ngoại, 瓔珞莊嚴七寶幢 Anh lạc trang nghiêm thất bửu tràng. * * * * * * 眈書喜墨費吟哦 Đam thư hỷ mặc phí ngâm nga, 日著千言柰老何 Nhật trước thiên ngôn nại lão hà. 蛩語關懷僧語共 Cùng ngữ quan hoài tăng ngữ cộng, 蛙聲得意梵聲和 Oa thanh đắc ý Phạn thanh hòa. 去来數劫微言迥 Khứ lai sổ kiếp vi ngôn quýnh, 世界沙塵古畫多 Thế giới sa trần cổ họa đa. 檢點二家經卷在 Kiểm điểm nhị gia kinh quyển tại, 不妨八百附儒科 Bất phương bát bách phụ nho khoa. Dịch nghĩa: Nhà trai giới Cổ Thúy (năm bài) Mái nhà lợp cỏ tranh hợp với chỗ ở quạnh vắng, Trong thời hưng thịnh, làm chiếc thuyền quỳnh chẳng hại gì. Láng giềng phía đông tế mùa xuân, phía tây tế cầu phúc; (1) Chữ trong vòng tròn là chữ SONG, gồm: 忄+ 雙. Chữ này, Khang Hy tự điển cho mấy phiên thiết: 息拱 切/荀勇切/息勇切/並同悚/通作聳 Tức củng thiết, Tuân dũng thiết, Tức dũng thiết, tịnh đồng tủng, thông tác tủng. Lại có phiên thiết: 所江切/疏 江切/並音雙/筏同 Sở giang thiết, Sơ giang thiết, Tịnh âm song; Phiệt đồng. Như vậy, đây phải đọc song, nghĩa là cái bè, nghĩa này ở đây không hợp. Nhưng từ điển Hán Việt cũng như các phần mềm chữ Hán đều không thu nhận. 48 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Người ở viện nam thì phong lưu, viện bắc thì hào phóng. Ngôi chùa cổ chỉ một mình ông Kim Túc tu hành đã đi rồi, Trong núi sâu, ai cùng ông tiên Xích Tùng đi chơi; Đời thái bình nhà nhà vui vẻ hát múa, Cứ trốn ra ngoài cõi thế với cửa đông. * * * Hang sâu trên gò núi bằng phẳng, trồng mấy cây trúc; Hai cây trong hộp nhỏ, hai cây trước ngọn đèn. Hương suối thấm chân răng hòa với que quỳnh, Rau non ướt môi trộn lẫn những hạt ngọc vụn (cơm). Nối dòng nhà nói pháp và thờ Phật lâu dài, Báo đáp ơn một ngày nào đó sẽ thành tiên. Đã ba năm bỏ về, biết mình vẫn yên ổn, Nằm xem đầm lạnh, cá mè co rút lại. * * * Trăng sáng gió mát có nhân duyên kết làm bạn, Áo nhà tu phơi phới đạm bạc không chút bụi. Lại tìm đến nhà Tiểu Thúy là nơi tham thiền, Đã ba lần kết hạ ở chùa Hàm Long (Báo Quốc). Thôi thì tạm xa cách chim hót và hoa đồng nội, Mây trắng và nước chảy dần dần thân thiết với nhau. Nguyên ngọn núi lần ấy ra đi không còn tăm hơi, Hãy đợi ta trở về làm chủ nhân. * * * Gõ dộng, quen tay đánh chuông cá; Muôn duyên như tơ liễu trông theo gió mà bay. Nhà sư vừa ngồi thiền xong, lầm lẫn đạo Tiên; Người khách tình cờ chân thành, sợ lời nham hiểm. Gió thông vi vút thổi qua hang, Trăng quế tròn vành vạnh ló lên ngoài cửa sổ. Tinh thần rong ruổi ngoài ba nghìn thế giới, Bức màn thất bảo đầy châu ngọc trang nghiêm. * * * 49Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Mê sách vui mực cứ ngâm nga hoài, Mỗi ngày viết hàng ngàn lời, già sao được. Tiếng dế thiết tha chung với tiếng nhà sư, Tiếng ếch đắc ý hòa với tiếng tụng kinh. Qua lại mấy kiếp, lời lẽ tinh vi sâu xa; Thế giới cát bụi, đã nhiều bức tranh cổ. Kiểm điểm sách vở của hai nhà còn lại, Không kém tám trăm cuốn, giúp vào cái học nhà nho. Tạm dịch thơ: Một mái tranh mây nơi quạnh vắng, Thuyền quỳnh thời thịnh hại chi nào. Đông nhà xuân tế, tây nhà phúc, Nam viện phong lưu bắc viện hào. Kim Túc một thầy tu viện cổ, Xích Tùng ai bạn dạo non cao. Nhà nhà múa hát vui bình thái, Đến với Đông môn lánh ẩn vào. * * * Hang thẳm gò bằng trúc mấy cây, Đôi trong tráp nhỏ đôi đèn cầy. Suối thơm răng ngọc chan hòa thấm, Rau ngọt môi châu ướt át dây. Thờ Phật nếp nhà thường nói pháp, Lên tiên nào thủa báo ơn dày. Ba năm về ẩn đời yên ổn, Đầm lạnh nằm xem cá rút vây. * * * Gió mát trăng trong từng có hẹn, Áo lam phơi phới bụi không vương. Tìm về Tiểu Thúy tham thiền cũ, Lại tới Hàm Long kết hạ thường. Chim hót hoa đồng đành tạm biệt, 50 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Nước trôi mây trắng sẽ thân thương. Một đi núi cũ mù xa bóng, Đợi lúc ta về lại chủ trương. * * * Chuông kình gõ dộng đã quen tay, Duyên nghiệp như tơ gió thổi bay. Sư vừa xuất định cơ tiên lẫn, Khách chợt thâu thành tiếng quỷ hay. Vi vút gió thông qua cửa động, Tròn tròn trăng quế dọi song mây. Tinh thần rong ruổi ba nghìn cõi, Lấp lánh cờ châu thất bảo bày. * * * Vui mê sách mực cứ ngâm nga, Viết mấy nghìn câu khổ lão già. Dế nỉ quan hoài lời sãi hợp, Ếch kêu đắc ý tiếng kinh hòa. Đi về mấy kiếp câu văn diệu, Cát bụi nhiều đời bức họa xưa. Kiểm điểm hai nhà còn sách vở, Tám trăm có lẻ giúp nho khoa. BÀI SỐ 36 花圓銀聚 Hoa viên ngân tụ 園法周公九府泉 Viên pháp Chu công Cửu Phủ tuyền, 荷蘭新製鑄花圓 Hà lan tân chế chú hoa viên. 素龍敲雪堆三島 Tố long xao tuyết đôi tam đảo, 白兔凝冰印萬川 Bạch thố ngưng băng ấn vạn xuyên. 曉岫散群林鶴舞 Hiểu tụ tán quần lâm hạc vũ, 晴江逐隊野鷗翩 Tình giang trục đội dã âu phiên. 忽聞天樂鏗鏘處 Hốt văn thiên nhạc khanh thương xứ, 寶聚高標界大千 Bảo tụ cao tiêu giới đại thiên. 51Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Dịch nghĩa: Bạc tụ vườn hoa Vườn bắt chước Cửu Phủ tuyền của Chu công, Sen và lan theo kiểu mới chế tạo, đúc hoa tròn. Rồng trắng vẫy tuyết đắp thành ba đảo, Thỏ trắng làm đông băng in trên muôn con sông. Trên núi buổi sáng, hạc rừng tách đàn múa, Trên sông tạnh ráo, chim âu đồng nội đuổi nhau bay liệng. Chợt nghe chốn nhạc trời réo rắt, Báu tụ lại nêu cao thế giới đại thiên. Tạm dịch thơ: Vườn theo Cửu Phủ của Chu công, Kiểu mới sen lan tròn đúc bông. Vẫy tuyết rồng vun ba ngọn đảo, Đóng băng thỏ dọi vạn dòng sông. Núi sớm tách bầy rừng hạc múa, Sông quang nối cánh ruộng âu vòng. Chợt nghe réo rắt trời gieo nhạc, Giới đại thiên cao báu tụ đông. BÀI SỐ 37 光明燭 Quang minh chúc (得明字鄉試題 Đắc minh tự - Hương thí đề) 燭斯無跋又無檠 Chúc tư vô bạt hựu vô kình, 一寸靈臺分外明 Nhất thốn linh đài phân ngoại minh. 炯炯心燈臨萬類 Quýnh quýnh tâm đăng lâm vạn loại, 荧荧智炬洞群情 Huỳnh huỳnh trí cự đỗng quần tình. 無私日月同高炤 Vô tư nhật nguyệt đồng cao chiếu, 彼卓星河共遠莹 Bỉ trác tinh hà cộng viễn oanh. 此日九重開慧鑑 Thử nhật cửu trùng khai tuệ giám, 離明普炤到綖紘 Ly minh phổ chiếu đáo diên hoành. 52 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Dịch nghĩa: Cây đuốc sáng (Lấy chữ “minh” làm vần. Đề bài thi Hương) Cây đuốc không có bụng [đựng dầu] cũng không có đế, Một tấc linh đài chia ra phần bên ngoài tỏa sáng. Rạng rỡ đèn tâm ra đến muôn loài, Sáng trưng lửa trí soi thấu mọi tình. Không riêng tây như mặt trời mặt trăng dọi từ trên cao, Thứ kia cùng với sao và ngân hà hắt sáng ra xa. Ngày ấy đức vua mở tấm gương tuệ, Ánh sáng quẻ ly chiếu đến tận nơi tít mù. Tạm dịch thơ: Đuốc kia không bụng cũng không đế, Một tấc linh đài ngọn sáng ngời. Rực rỡ đèn tâm trùm cõi thế, Rõ ràng ánh trí sửa tình đời. Không riêng nhật nguyệt soi cao ngất, Có cả tinh vân sáng tít vời. Gương tuệ cửu trùng ngày ấy mở, Ly minh chiếu khắp đến muôn nơi. BÀI SỐ 38 曝 書 Bộc thư 浪說人間富五車 Lãng thuyết nhân gian phú ngũ xa, 琅函玉軸更何如 Lang hàm ngọc trục cánh hà như. 蠹魚三食神仙字 Đố ngư tam thực thần tiên tự, 龍馬重開卜筮書 Long mã trùng khai bốc phệ thư. 花影拖頭經展貝 Hoa ảnh tha đầu kinh triển bối, 芸香觸手墨翻猪 Vân hương(1) xúc thủ mặc phiên trư. (1) Vân hương: mùi thơm cỏ vân. Cỏ vân, từ hoa đến cành lá đều thơm, dùng làm hương liệu, người ta cũng giã lá lấy nước làm thuốc chống chất độc của côn trùng; cũng ép lá vào sách vở để chống mối mọt, cho nên sách vở gọi là vân biên, nhà đọc sách gọi là vân trai. 53Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 吾家長物應如此 Ngô gia trưởng vật ưng như thử, 白首摩挲莫笑渠 Bạch thủ ma sa mạc tiếu cừ. Dịch nghĩa: Phơi sách Nghe nói nhân gian giàu [sách vở] có đến năm xe, Hòm châu cuộn ngọc lại là như thế nào. Cá mối ba lần ăn hết chữ của thần tiên, Ngựa rồng hai lần mở ra sách bói toán. Bóng hoa dắt đầu, sách bằng lá bối chồng chất, Hương cỏ vân chạm vào tay, mực đổi làm heo (?) Nhà ta nuôi lớn vật nên như thế, Bạc đầu lau chùi cọ rửa(1) chớ chê cười. Tạm dịch thơ: Nghe nói nhân gian chất mấy xe, Hòm châu cuộn ngọc lại còn khoe. Chữ thần cá mối ăn mòn hết, Sách bói ngựa rồng mở bét be. Kinh bối đầu vương hoa bóng lả, Mực heo(2) tay nhuốm cỏ hương nhòe. Nhà ta nuôi vật nên làm thế, Đầu bạc lau chùi chớ có chê. BÀI SỐ 39-46 化臺八首 Hóa Đài bát thủ 麥黄梅熟節剛逢 Mạch hoàng mai thục tiết cương phùng, 聖代無才合退農 Thánh đại vô tài hợp thoái nông. 放牧山中三弄笛 Phóng mục sơn trung tam lộng địch, 偈僧樓上幾聲鐘 Kệ tăng lâu thượng kỷ thanh chung. (1) Lau chùi cọ rửa: nguyên văn “ma sa”, chữ Hán 摩挲, cũng viết 磨砂, nghĩa là vuốt ve, lau chùi, cọ rửa. Bài 石鼓歌 Thạch cổ ca (Bài hát trống đá) của Hàn Dũ có câu: 牧童敲火牛礪角 / 誰復著手為摩挲 Mục đồng xao hỏa ngưu lệ giác / Thùy phục trước thủ vi ma sa (Mục đồng đốt lửa sừng trâu cọ / Ai chịu ra tay rửa sạch a?). (2) Thơ của Như Như đạo nhân có khá nhiều điển tích, điển cố, nhiều chữ khó hiểu, đành tạm dịch cho xuôi câu thơ, chờ bổ cứu hoặc được các bậc cao minh chỉ giáo thêm. 54 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 雨絲風片縈愁緒 Vũ ty phong phiến oanh sầu tự, 剩水殘山了梦蹤 Thặng thủy tàn sơn liễu mộng tung. 高臥北窗誰得似 Cao ngọa bắc song thùy đắc tự, 羲皇傲殺老龍鍾 Hy hoàng ngạo sát lão long chung. * * * * * * 花木纍纍任意〇 Hoa mộc luy luy nhậm ý ham,(1) 薰風幾度長都咸 Huân phong kỷ độ trưởng đô hàm. 故園三載荒松菊 Cố viên tam tải hoang tùng cúc, 兆宅千章栱檟杉 Triệu trạch thiên chương củng giả sam. 晴柳綠多侵紙帳 Tình liễu lục đa xâm chỉ trướng, 曉荷香遠泛羅衫 Hiểu hà hương viễn phiếm la sam. 萬言課誦香三炷 Vạn ngôn khóa tụng hương tam chú, 他日猶傳摘𡮈岩 Tha nhật do truyền trích nhỏ(2) nham. * * * * * * 槐花辰節草初醒 Hòe hoa thần tiết thảo sơ tinh, 習習薰風長綠萍 Tập tập huân phong trưởng lục bình. 雨後池塘聞吠蛤 Vũ hậu trì đường văn phệ cáp, 水邊籬落著流螢 Thủy biên ly lạc trước lưu huỳnh. 日餐沆瀣和琼屑 Nhật xan hạng giới hòa quỳnh tiết, 月課瑯環紀瑞蓂 Nguyệt khóa lang hoàn kỷ thụy minh. 四海干戈旁午裡 Tứ hải can qua bàng ngọ lý, 樹巔和上一窠寧 Thụ điên hòa thượng nhất khoa ninh. * * * * * * 一卷金經一炷檀 Nhất quyển Kim kinh(3) nhất chú đàn, 定中結咒磬聲殘 Định trung kết chú khánh thanh tàn. 從頭世界三千起 Tòng đầu thế giới tam thiên khởi, 過眼光陰半百拚 Quá nhãn quang âm bán bách phàn(4) 織草為衣編雅稱 Chức thảo vi y biên nhã xứng, (1) Chữ trong vòng gồm MỘC + KHIẾM (木+欠). Theo Khang Hy tự điển, dạng cổ là Mộc + Liêm (木 + 奩) đọc: 虛嚴切 - 音薟 Hư nghiêm thiết, âm hiêm. Có thể đọc HAM hay HÀM, nghĩa: ham muốn; điều mong ước. (2) Chữ này là chữ Nôm, do người sao lục chép nhầm chăng? (3) Kim kinh: tức Kim cương kinh, tên đầy đủ là Kim cương bát nhã ba la mật kinh (Vajra-prajnaparamita-su tra). Bộ kinh này lấy không và tuệ làm thể, giải thích về cái lý nhất thiết pháp vô ngã (TĐPHHV, tr. 620). Có 6 bản Hán dịch, phổ biến nhất là bản dịch của nhà sư Cưu-ma-la-thập thời Tần Lục triều. (4) Chữ này đọc đúng là “biện”, nhưng đây theo vần phải đọc “bàn” hay “phàn”. Nghĩa: quét dọn. 55Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 嚼花作飯覺輕安 Tước hoa tác phạn giác khinh an. 雞窩自有神仙術 Kê oa tự hữu thần tiên thuật, 分付兒孫好探着 Phân phó nhi tôn hảo thám khan. * * * * * * 幸賴朝廷足一夔 Hạnh lại triều đình túc nhất quỳ,(1) 小臣不數買山貲 Tiểu thần bất sổ mãi sơn ty. 莫言盛世冠苴履 Mạc ngôn thịnh thế quan thư lý, 詎是閑身鏡蓋卮 Cự thị nhàn thân kính cái chi. 且學靈均偏衣荔 Thả học Linh Quân(2) thiên ý lệ, 欲尋李綺遠餐芝 Dục tầm Lý Ỷ(3) viễn xan chi. 金經課罷支頤坐 Kim kinh khóa bãi chi di tọa, 閱盡閻浮咏四雖 Duyệt tận diêm phù vịnh tứ tuy. * * * * * * 靜着橊子綴丹荣 Tĩnh khan lựu tử xuyết đan vinh, 幸免聲名世所縈 Hạnh miễn thanh danh thế sở oanh. 磨折一生埋腹劍 Ma chiết nhất sinh mai phúc kiếm, 摧殘五夜息心兵 Thôi tàn ngũ dạ tức tâm binh. 六通自可超三界 Lục thông(4) tự khả siêu tam giới, 萬卷何須假百城 Vạn quyển hà tu giả bách thành. 未有乾坤先有物 Vị hữu càn khôn tiên hữu vật, 寥寥今古未安名 Liêu liêu kim cổ vị an danh. * * * * * * 南柯一枕倚高槐 Nam kha(5) nhất chẩm ỷ cao hòe, 身世思量日愈乖 Thân thế tư lường nhật dũ quai, (1) Túc nhất quỳ: một loài thú lạ ngày xưa, theo Sơn hải kinh, mình giống như trâu mà không có sừng, toàn thân màu xanh, chỉ có một chân. (2) Linh Quân: hiệu của nhà thơ Khuất Nguyên (phỏng chừng: 340-278 TCN), người nước Sở thời Chiến Quốc. (3) Lý Ỷ: Chưa rõ. Có lẽ là một nhà y dược học thời cổ. (4) Lục thông: hay lục thần thông, sáu phép biến hóa, thông suốt mầu nhiệm mà các bậc thánh giả tam thừa chứng được của quá trình thiền định gồm: 1. Thần cảnh tri chứng thông (phiêu diêu vãng lai hay biến hiện tự do tự tại). 2. Thiên nhãn tri chứng thông (nhìn tỏ tường không gì ngăn cản được). 3. Thiên nhĩ tri chứng thông (nghe rõ ràng không gì ngăn cản được). 4. Tha tâm tri chứng thông (hiểu biết tỏ tường tưởng niệm của người khác không gì ngăn cản được). 5. Túc mệnh tri chứng thông (biết rõ kiếp sống quá khứ của bản thân và người khác không gì ngăn cản được). 6. Lậu tận tri chứng thông (mọi phiền não đều trút sạch không). (TĐPHHV, tr 1290). (5) Nam kha: cành cây phía nam, chỉ cuộc đời giàu sang qua mau như một giấc mơ, không thực. Bài Nam kha ký của Lý Công Tá thời Đường kể chuyện: Thuần Vu Phần nằm ngủ dưới gốc cây hòe, chiêm bao 56 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 炤腑已無秦代鏡 Chiếu phủ dĩ vô Tần đại kính,(1) 稱心徒傚魯風鞋 Xứng tâm đồ hiệu Lỗ phong hài.(2) 山藤絡石旋龍帶 Sơn đằng lạc thạch toàn long đới, 水草臨池吐雀釵 Thủy thảo lâm trì thổ tước sai. 無事山童烹笋坐 Vô sự sơn đồng phanh duẩn tọa, 自將品字燒枯柴 Tự tương phẩm tự thiểu khô sài. * * * * * * 當年結綬慶登槐 Đương niên kết thụ khánh đăng hòe, 復旦光花紀玉杯 Phục đán quang hoa kỷ ngọc bôi. 康濟商舟資大用 Khang tế Thương chu tư đại dụng, 扶持舜杖得奇材 Phù trì Thuấn trượng đắc kỳ tài. 瑞圖長表羲龍德 Thụy đồ trường biểu Hy long đức, 亨運先呈漢驥才 Hanh vận tiên trình Hán ký tài. 江水不忘今古恨 Giang thủy bất vong kim cổ hận, 栖栖獨上問津臺 Tê tê độc thướng vấn tân đài. Dịch nghĩa: Hóa Đài (tám bài) Lúa vàng mai chín gặp tiết cứng cỏi, Đời thánh, mình không có tài, lui về làm ruộng là phù hợp. Thả trâu chăn trong núi, thổi chơi ba tiếng sáo; Đọc bài kệ nhà chùa trên lầu, gõ mấy tiếng chuông. Những sợi mưa, những cơn gió cuộn quanh mối sầu; Sông nước dấy, núi chiều dăng chấm dứt giấc mộng đời. Nằm cao ở cửa sổ phía bắc, mấy ai được như thế; Thời xa xưa ngao du cho đến khi già lỏng khỏng. * * * Hoa và cây rườm rà, thỏa ý ham muốn của ta; Mấy độ gió mát mẻ đều lớn lên cả. thấy mình đến nước Hòe An, được vua gả công chúa, phong phò mã, bổ làm thái thú quận Nam Kha, lập nhiều công trạng, phú quý vinh hoa tột bậc; sau bị quân địch đánh bại, công chúa mất, vua đuổi về. Ông tỉnh dậy, thấy mình đang nằm dưới gốc cây hòe, trên đầu cành phía nam có một tổ kiến; ông nghĩ chắc mình đã mơ vào đó. (1) Tần đại kính: gương thời Tần: Tần Thủy Hoàng đế có một cái gương thần, gọi là chiếu đảm cảnh, con gái nào có lòng tà dâm, soi vào thì mật tan, khí kiệt. (2) Lỗ phong hài: giày gió nước Lỗ, chưa rõ điển tích. 57Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150). 2018 Khu vườn cũ ba năm rồi thông và cúc bị bỏ hoang, Ngôi nhà xưa nghìn cột cây giả cây sam. Cây liễu màu xanh biếc rậm rà hắt vào màn giấy, Mùi sen buổi sáng sớm từ xa lộng vào áo lụa. Một buổi tụng nghìn lời, đốt ba nén hương, Ngày sau còn truyền chuyện “Trích nhỏ nham” (?) * * * Vào thời tiết hoa hòe, cỏ bắt đầu nẩy nở; Gió mát thổi dào dạt, bèo xanh lớn lên. Sau cơn mưa, nghe ếch nhái kêu ngoài ao; Bên mé nước, thấy đom đóm bay ở hàng rào. Ngày ngày ăn cơm với rau ráng, Tháng tháng lấy giấy bút chép thơ hay. Bốn biển binh đao (chiến tranh) không thôi, Một nhà sư yên ổn trong cái tổ trên ngọn cây. * * * Một quyển kinh vàng và một nén hương, Trong lúc ngồi thiền ta bắt quyết, tiếng khánh tan dần. Đầu tiên, ba nghìn thế giới nổi lên; Rồi đến thời gian năm mươi năm trôi qua trước mắt. Dệt cỏ làm áo chép bài thơ hay, Nhai hoa làm cơm biết được nhẹ nhàng yên ổn. Ở ổ gà mà tự có phép thuật thần tiên, Chia giao cho con cháu xem thấy điều tốt đẹp. * * * May nhờ ơn triều đình ban cho chức quan thừa, Chức quan nhỏ không đủ của nả để mua núi. Chớ bảo đời thịnh, mũ giày lót đay gai; Há rằng ấy là nhàn hạ tấm thân mang gương che dù. Hãy bắt chước Linh Quân mặc áo cỏ lệ, Muốn tìm Lý Ỷ lánh xa ăn cỏ chi. Tụng kinh Kim cương xong, ngồi nghỉ ngơi; Đọc sách âm phủ, vịnh thơ bốn bên. * * * 58 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Yên lặng xem những hạt lựu điểm son sáng, May thoát khỏi cái tiếng tăm ràng buộc cõi đời. Một đời vấp váp khó khăn, chôn gươm bụng; Đêm năm canh sắp tàn, nghỉ binh lòng. Sáu biến thông có thể tự vượt lên ba cõi, Vạn quyển sách sao hạ được trăm thành. Chưa có trời đất, trước đã có vật rồi, Xưa nay vắng vẻ chưa yên cái danh. * * * Một chiếc gối ở cành nam trên cây hòe cao, Thân thế suy nghĩ lo lắng ngày càng ngang trái. Đã không có tấm gương thời Tần để soi tạng phủ, Lại chẳng theo được chiếc giày gió nước Lỗ để xứng với lòng. Dây mây vấn vít hòn đá, đai rồng cuốn quanh; Cỏ nước lan ra bờ ao, thoa chim sẻ nhả ra. Chẳng có chuyện gì, chú bé núi ngồi nấu măng; Tự đem chữ “phẩm” đốt cháy củi khô. * * * Năm ấy được trao dây buộc ấn, làm lễ mừng lên chức quan; Lại vào ngày tươi sáng nâng chén rượu ngọc kỷ niệm. Thuyền Thương cứu vớt, có được tài lạ; Gậy Thuấn nâng đỡ, hết lòng làm việc lớn. Cơ đồ tốt đẹp nêu lâu dài đức rồng Hy (?) Vận hội may mắn trước đã hiện rõ tài năng ngựa Hán. Nước sông không quên mối hận xưa nay, Một mình bồn chồn lên đài Vấn Tân.(1) Tạm dịch thơ: Lúa vàng mai chín tiết, Đời thánh tài hèn thoái nghiệp nông. Trong núi thả trâu, chơi sáo trúc, Trên lầu đọc kệ, gõ chuông đồng. (1) Đài Vấn Tân: chỗ học tập. Vấn tân là hỏi bến, chỉ việc học hỏi một điều gì, như Y học vấn tân, sách chứa đựng những kiến thức về nghề thuốc. 59Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Mối sầu dăng mắc mưa rồi gió, Giấc mộng tàn phai núi với sông. Song bắc nằm cao ai được thế, Hy hoàng thong thả lão già ngông. * * * Rậm rạp hoa cây mặc ý ngơi, Lớn lên mấy độ gió thanh thơi. Cúc thông vườn cũ ba năm bỏ, Sam giả nhà xưa những cột tời. Liễu biếc màu in màn giấy ánh, Sen mai hương lộng áo là hơi. Ngày hương ba nén nghìn lời tụng, “Trích nhỏ nham” truyền mãi ở đời. * * * Tiết đến hoa hòe sinh cỏ mới, Dạt dào gió mát đám bèo dày. Sau mưa tiếng ếch ngoài ao vọng, Bên bến đèn huỳnh trước giậu bay. Ngày bữa rau xanh kèm ngọc vụn, Tháng cầm bút ngọc chép thơ hay. Can qua bốn biển nơi đấu đó, Hòa thượng yên hàn tổ ngọn cây. * * * Kinh vàng một quyển hương đôi nén, Ấn chú ngồi thiền tiếng khánh thâu. Thế giới ba nghìn vừa nổi dậy, Thời gian năm chục thoáng qua mau. Cỏ đan làm áo, ghi thơ nhã, Hoa nhá thay cơm, nhẹ bụng lâu. Nhà cỏ phép tiên rồi vẫn có, Chia cho xem rõ cháu con sau. * * * 60 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 May cậy triều đình chút chức danh, Quan hèn không của tậu non xanh. Đừng khen đời thịnh mũ giày tốt, Há bảo thân nhàn kính lọng tranh. Bắt chước Linh Quân mang áo cỏ, Tìm tòi Lý Ỷ nếm rau lành. Kim kinh tụng hết ngồi thong thả, Đọc sách Diêm Phù thơ vịnh quanh. * * * Lặng xem hạt lựu đỏ lung linh, May khỏi thanh danh vướng thế tình. Một kiếp dày vò chôn phúc kiếm, Năm canh tàn dứt nghỉ tâm binh. Lục thông vượt được lên tam giới, Vạn quyển làm sao hạ bách thành. Chưa có đất trời đà có vật, Cổ kim vắng vẻ chửa yên danh. * * * Cành nam một giấc cội hòe cao, Thân thế lo lường trắc trở sao. Đã chẳng gương Tần soi phủ tạng, Lại không giày Lỗ xứng tâm bào. Mây non vấn đá đai rồng cuộn, Cỏ nước dầm ao thoa sẻ trao. Thong thả sơn đồng ngồi nấu nước, Tự đem chữ “phẩm” đốt cây rào. * * * Năm nao nhận ấn mừng lên chức, Rạng rỡ ngày sau chén ngọc bày. Khang tế thuyền Thương nên việc lớn, Phù trì gậy Thuấn được tài hay. Rồng Hy đức lớn cơ đồ biểu, 61Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Ngựa Hán tài cao vận hội dày. Sông nước không quên kim cổ hận, Bồn chồn lên hỏi chốn Tân Đài. BÀI SỐ 47 采 蓮 Thái liên 西湖選勝足〇留 Tây hồ tuyển thắng túc nê(1) lưu, 正喜荷花托碧流 Chính hỷ hà hoa thác bích lưu. 葉底魚遊盘走汞 Diệp để ngư du bàn tẩu hống, 房中蜂探子塗髹 Phòng trung phong thám tử đồ hưu. 綠雲紅雨迷歸棹 Lục vân hồng vũ mê quy trạo, 水淨風香引去舟 Thủy tĩnh phong hương dẫn khứ chu. 萬頃琉璃開世界 Vạn khoảnh lưu ly khai thế giới, 金臺九品占從頭 Kim đài cửu phẩm chiếm tòng đầu. Dịch nghĩa: Hái sen Hồ Tây được chọn là cảnh đẹp nổi tiếng đã lâu, Vui nhất là lúc hoa sen nổi giữa dòng nước biếc chảy. Cá bơi giỡn dưới lá xòe ra thủy ngân lóng lánh, Trong gương sen ong vào thăm những hạt màu đỏ thắm. Mây biếc mưa hồng mờ mịt mái chèo trở về, Nước trong gió thơm dẫn thuyền đi qua. Muôn khoảnh long lanh mở ra một thế giới, Chín phẩm đài vàng đứng hàng đầu. Tạm dịch thơ: Tây Hồ danh thắng tiếng lâu nay, Vui lúc hoa sen nước biếc lay. Dưới lá cá bơi dòng bạc chảy, Trong gương ong ghé hạt hồng đầy. (1) Chữ này gồm chữ 辶 XƯỚC + 尼 NI, Khang Hy tự điển cho phiên thiết: 奴計切 Nô kế thiết; 乃計切 Nãi kế thiết, 並泥去聲 tịnh Nê khứ thanh, như thế phải đọc Nễ hay Nệ, nhưng đây phải đọc thanh bình. Nghĩa: gần (近 cận), chần chừ, chậm chạp (棲遲 thê trì). 62 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Chèo mê mưa thắm mây xanh biếc, Thuyền ruổi dòng trong gió ngát hây. Thế giới long lanh ngời vạn khoảnh, Đài vàng chín phẩm nhất là đây. BÀI SỐ 48 辟 穀 Tịch cốc 見說神仙有妙方 Kiến thuyết thần tiên hữu diệu phương, 茯苓桑椹禹餘糧 Phục linh tang thậm Vũ dư lương.(1) 雪山六載辭蘭弗 Tuyết Sơn lục tải từ Lan Phất,(2) 圯上三番約子房 Dĩ Thượng(3) tam phiên ước Tử Phòng. 石蜜黃精供法食 Thạch mật hoàng tinh cung pháp thực, 交梨火棗備天漿 Giao lê hỏa táo bị thiên tương. 采薇不是高風慕 Thái vi(4) bất thị cao phong mộ, 只要飛昇白日長 Chỉ yếu phi thăng bạch nhật trường. (1) Vũ dư lương: gạo ăn thừa của ông Vũ. Ông Vũ là bề tôi của vua Thuấn, sau khi trị thủy sông Hoàng Hà thành công, ông giúp ông Khí (làm chức Hậu tắc), lo việc trồng trọt để cứu nạn đói cho dân. Ông Khí phụ trách canh nông, trồng cây lúa, nhưng chỉ thóc gạo thì chưa đủ, nên ông Vũ khuyến khích, chỉ vẽ trồng những giống khác phụ vào. (2) Tuyết Sơn, Lan Phất: Tuyết Sơn tức là vùng núi Himalaya ở bắc Ấn Độ, ta dịch là Hy Mã Lạp Sơn, đỉnh cao nhất 8.848m, quanh năm tuyết phủ. Cũng gọi là Tuyết Lĩnh. Tương truyền ở vùng núi này có loài cỏ thiêng tên gọi sa ha, ai nhìn thấy nó thì trở thành bất tử, kinh Phật gọi là Tuyết Sơn bất tử dược. Thời Đức Như Lai quá khứ, có một vị sư gọi là Tuyết Sơn đại sĩ hay Tuyết Sơn đồng tử tu khổ hạnh ở núi Tuyết Sơn, chịu xả thân cho một la sát ăn thịt để được nghe nốt nửa bài kệ (la sát là loài quỷ dữ ăn thịt người, quỷ nam gọi là la sát ta, mình đen, tóc đỏ, mắt xanh, trông xấu xí; quỷ nữ gọi là la sát tư, rất xinh đẹp). Lan Phất không rõ, có lẽ là Tuyết Sơn đại sĩ. (3) Dĩ Thượng: tên cầu bắc ngang Sông Nghi ở Hạ Bì (nay ở tỉnh Giang Tô, Trung Quốc); Tử Phòng là hiệu của Trương Lương (? -186 TCN), mưu thần của Hán vương Lưu Bang trong cuộc chiến tranh ngôi thiên tử với Sở vương Hạng Vũ. Tương truyền sau khi nước Hàn bị nhà Tần kiêm tính, Trương Lương đi tìm cách báo thù, bỏ hết của nhà ra thuê tráng sĩ mưu sát Tần Thủy Hoàng đế, việc thất bại ở Bác Lãng Sa. Trương Lương phải trốn tránh, một hôm đến cầu Dĩ, gặp một cụ già. Cụ lóng ngóng thế nào mà rơi giày xuống nước. Ông thương cụ già nua ốm yếu, xuống nhặt lên đưa trả. Cụ lại đánh rơi. Cứ thế ba lần. Cụ bèn đưa cho ông một cuốn sách bảo về học kỹ, và dặn: “Mười ba năm sau thấy hòn đá vàng ở chân núi Cốc Thành, đó chính là ta đấy”. Ông về dỡ sách ra xem, thì là cuốn Lục thao tam lược, hay Thái Công binh pháp của danh tướng Khương Thượng đầu thời Chu. Sau, Trương Lương giúp Lưu Bang diệt Tần, phá Sở, lập nên nhà Hán, đúng mười ba năm. Ông từ bỏ danh lợi, tìm về núi Cốc Thành, quả nhiên thấy tảng đá vàng, bèn đem về thờ để nhớ ơn xưa, nhân đó gọi cụ già là Hoàng Thạch Công. (4) Thái vi: hái rau vi. Bá Di và Thúc Tề là hai anh em con vua nước Cô Trúc, một một quốc gia nhỏ bé thời nhà Thương. Vua cha sắp chết truyền ngôi cho Thúc Tề, đến khi cha chết, Thúc Tề lại nhường ngôi cho anh. Bá Di bảo: “Phải tuân theo di mệnh của cha”, rồi trốn đi. Thúc Tề cũng tìm theo anh. Người trong nước phải lập em út lên ngôi. Rồi Tây bá Phát diệt vua Trụ, lập nên nhà Chu. Hai anh em hổ thẹn, không chịu ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi Thú Dương, hái rau vi ăn. Có người phụ nữ bảo: “Các ông không ăn thóc lộc nhà Chu, nhưng cây cỏ này cũng là cây cỏ nhà Chu đấy”. Họ bèn nhịn ăn mà chết. 63Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Dịch xuôi: Nhịn ăn ngũ cốc Nghe nói thần tiên có phương pháp kỳ diệu, Phục linh, quả dâu là lương thực thừa của ông Vũ. Ở núi Tuyết sáu năm, từ biệt Lan Phất, Trên cầu Dĩ ba lần hẹn với Tử Phòng. Thạch mật và hoàng tinh cung cấp thức ăn cho nhà tu, Giao lê và hỏa táo đủ làm thức uống tự nhiên. Hái rau vi không vì mến phong thái cao (của Di Tề), Mà chỉ cốt cho được cao bay ngày tháng dài. Tạm dịch thơ: Nghe nói thần tiên lắm phép hay, Phục, tang ông Vũ thế lương ngày. Tuyết Sơn Lan Phất sáu năm biệt, Dĩ Thượng Tử Phòng ba dạo giày. Thạch mật hoàng tinh cơm đạo đó, Giao lê hỏa táo nước trời đây. Rau vi đâu bởi yêu phong thái, Chỉ cốt ngày dài được vút bay. BÀI SỐ 49 端陽有感 Đoan Dương(1) hữu cảm 鴈不成行鯉曠趨 Nhạn bất thành hàng lý khoáng xu, 翟公門户歲年殊 Địch công(2) môn hộ tuế niên thù. 浴蘭令節人空在 Dục lan lệnh tiết nhân không tại, 采艾遺風事不拘 Thái ngãi di phong sự bất câu. (1) Đoan Dương: Tết Đoan Ngọ, nói trại từ Đoan Ngũ, mùng 5 tháng Năm. (2) Địch công: có lẽ chỉ Địch Nhân Kiệt thời nhà Đường. Ông làm chức Tướng quốc, tiến cử được nhiều nhân tài giữ các chức quan trọng trong triều đình, nên người ta khen: “天下桃李盡在公門 Thiên hạ đào lý tận tại công môn” (Hết thảy đào lý trong thiên hạ đều ở cửa nhà ông cả). Khi làm Tham quân ở Tinh Châu, một hôm lên núi Thái Hàng, ông trỏ đám mây trắng xa xa bảo thủ hạ:“吾親舍於其下 Ngô thân xá ư kỳ hạ” (Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây ấy). Đó là Hà Dương, quê hương của ông. Về sau, người ta dùng hình ảnh mây trắng, mây bạc để chỉ quê nhà. 64 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 投李無人供角黍 Đầu lý vô nhân cung giác thử, 烹茶有客當香蒲 Phanh trà hữu khách đáng hương bồ.(1) 蓮船儘可容吾泛 Liên thuyền tẫn khả dung ngô phiếm, 競渡何須問鷁鳧 Cạnh độ hà tu vấn nghịch phù. Dịch nghĩa: Tết Đoan Dương có cảm xúc Nhạn bay không thành hang lối, cá gáy bơi thung thăng; Cửa nhà ông Địch mỗi năm một khác. Tết lớn “tắm lan”, người ấy không còn nữa, Phong tục xưa hái lá ngãi chằng còn là việc bắt buộc. Không ai ném quả lý cho giống lúa thử nhọn đầu (?) Có khách nấu trà thơm như cây cỏ bồ. Thuyền sen đều có thể để cho ta dong chơi, Tranh nhau qua bến, sao cần hỏi lũ chim nghịch, chim phù. Tạm dịch thơ: Cá chép tung tăng, nhạn lạc bầy; Địch công nhà cửa mỗi năm thay. “Tắm lan” tết đẹp người đâu vắng, “Hái ngãi” lề xưa việc chẳng bày. Có khách đun trà bồ ngát vị, Không ai ném lý thử lên cây. Thuyền sen hẳn giúp ta dong ruổi, Qua bến sao nên hỏi vịt bay. (1) Hương bồ: Hán Việt tự điển của Thiều Chửu ghi “Bạch xương bồ”. Cỏ bồ 蒲 “lá non ăn được, lá già dùng làm chiếu, làm quạt hay làm cái bao bọc đồ, tục gọi là bồ bao - 包, bạch xương bồ 白 菖 - cây bạch xương bồ gọi tắt là bồ, Tết Đoan Ngọ dùng lá nó cắt như hình cái gươm để trừ tà gọi là bồ kiếm - 劍”. Chúng tôi chưa tận mắt thấy cây bồ, hay đây là loại cây lác, cây bàng mà có nơi trong huyện Quảng Điền xưa kia chuyên nghề làm chiếu và đan bị (chiếu lác, bị lác), nay vẫn còn 65Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 BÀI SỐ 50-57 無一行窩八首 Vô Nhất hành oa(1) bát thủ 十二頭陀做自家 水邊林下結香跏 優曇夜宿和香霧 巨勝朝餐併玉霞 彈屋金丸山果落 映窗碧玉竹枝斜 不嫌淡泊難供客 日日漁童喚倒茶 Thập nhị đầu đà(2) tố tự gia, Thủy biên lâm hạ kết hương gia.(3) Ưu đàm dạ túc hòa hương vụ, Cự thắng(4) triêu xan tính ngọc hà. Đàn ốc kim hoàn sơn quả lạc, Ánh song bích ngọc trúc chi tà. Bất hiềm đạm bạc nan cung khách, Nhật nhật ngư đồng hoán đảo trà. * * * * * * 雲樹蕭疏日影重 小亭高倚澗邊松 放參水檻魚揚鬣 入定香林鹿養茸 園果應辰甘苦進 瓶蓮晚日白紅供 空江日暮無人過 雷雨聲中長籜龍 Vân thụ tiêu sơ nhật ảnh trùng, Tiểu đình cao ỷ giản biên tùng. Phóng tham thủy hạm ngư dương liệp, Nhập định hương lâm lộc dưỡng nhung. Viên quả ứng thời cam khổ tiến, Bình liên vãn nhật bạch hồng cung. Không giang nhật mộ vô nhân quá, Lôi vũ thanh trung trưởng thác long. * * * * * * (1) Vô Nhất hành oa: Tức là Hành oa có tên Vô Nhất. Hành oa là ngôi nhà làm ngoài chỗ ở chính, xa cách chỗ ở chính để làm nơi nghỉ ngơi. (2) Thập nhị đầu đà: đầu đà tiếng Phạn dhùta, còn gọi là đỗ trà, đỗ đa, Hán dịch là đẩu tẩu, đẩu giản, Việt dịch là tẩy rửa, rũ sạch, nói về phép tu hành tẩy rửa, lau chùi, rũ sạch các thứ quần áo, đồ ăn, nhà cửa. Thế tục gọi các vị sư đi hành cước, khất thực là đầu đà hay hành giả. Thập nhị đầu đà là mười hai điều mà một vị sư hành cước phải giữ gồm: 1. Mặc nạp y (áo người bỏ đi, nay khâu vá lại mà dùng). 2. Chỉ mặc đãn tam y, tức ba loại áo: tăng-già-lê (samghàti: các mảnh cắt rời ra rồi khâu lại, mặc ngoài cùng), uất-đa-la-tăng (cũng là áo khâu nhiều mảnh, mặc giữa và mặc thường), an-đà-hội (áo năm nẹp, mặc trong cùng); gọi chung là áo cà sa). 3. Phải đi xin ăn (khất thực) chứ không nhận mời mọc, chiêu đãi. 4. Không bày biện ăn uống. 5. Nhất tọa thực, chỉ ăn một bữa đúng ngọ hay trước ngọ. 6. Nhất sủy thực, chỉ ăn cơm và thức ăn đựng trong một bát của mình, không thêm. 7. Ở chỗ quạnh vắng xa dân cư (a- la-nhã xứ). 8. Ở nơi mồ mả, nghĩa địa (trủng gian xứ). 9. Ở dưới gốc cây (thụ hạ tọa). 10. Ở nơi không có bóng cây che (lộ địa tọa). 11. Ở chỗ nào có cỏ mọc không cứ có bóng cây (tùy tọa). 12. Thường ngồi kiết già, không nằm (thường tọa bất ngọa). (3) Kết hương gia: hay gia phu, ngồi kết già (thường đọc kiết già), một cách ngồi thiền định của các hòa thượng, theo thế của Phật Thích Ca ngồi dưới cây bồ đề, ngồi xếp ngửa hai bàn chân bên trái bên phải, bàn tay trái đè lên bàn tay phải, gọi là kết già cát tường, để khỏi mỏi mệt (結跏趺座 kết già phu tọa). Kết già hàng ma thì bàn tay phải đè lên bàn tay trái. (4) Cự thắng: không rõ là gì, nhưng cũng là một thứ để ăn sáng của nhà tu hành. 66 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 滿天星斗挂寒江 Mãn thiên tinh đẩu quải hàn giang, 銕笛何人換別腔 Thiết địch hà nhân hoán biệt xoang. 暗壁圖書迷遠夢 Ám bích đồ thư mê viễn mộng, 小篷風雨耿殘釭 Tiểu bồng phong vũ cảnh tàn cang. 行持悟處龜藏六 Hành trì ngộ xứ quy tàng lục,(1) 言戒危辰雁去雙 Ngôn giới nguy thần nhạn khứ song. 忽憶故人吟社近 Hốt ức cố nhân ngâm xã cận, 箇中誰是笔堪扛 Cá trung thùy thị bút kham giang. * * * * * * 每聽鳴雞振樹巅 Mỗi thính minh kê chấn thụ điên, 咸池兀坐到虞淵 Hàm Trì ngột tọa đáo Ngu Uyên.(2) 自怜蝶夢蘧蘧去 Tự linh điệp mộng(3) cừ cừ khứ, 長笑蚊芒僕僕然 Trường tiếu văn mang(4) bộc bộc nhiên. 爛砌散花陀利地 Lạn thế tán hoa đà lợi địa,(5) 響檐落果鉢曇天 Hưởng thiềm lạc quả bát đàm thiên.(6) 鐘山從此無關世 Chung sơn tòng thử vô quan thế, 秋朮春芝數頃田 Thu truật xuân chi sổ khoảnh điền. * * * * * * 水禽啼徹候鐘鳴 Thủy cầm đề triệt hậu chung minh, 起視銀河傍玉衡 Khởi thị Ngân Hà bạng Ngọc Hành. (1) Quy tàng lục: Con rùa thu giấu sáu chi. Người có sáu thức (nhãn - sắc, nhĩ - thanh, tỵ - hương, thiệt - vị, thân - xúc, ý - pháp) như con rùa có sáu chi, gồm bốn chân, đầu và đuôi. Kinh Tạp a hàm, quyển 43: “Vào thời quá khứ, có một con rùa nằm ở đám cỏ ngoài sông. Bấy giờ có một con cáo bụng đói đang đi tìm ăn, nó từ xa nhìn thấy con rùa liền phóng tới vồ. Con rùa thấy vậy liền rụt cả sáu chi (bốn chân, đầu và đuôi) lại. Con cáo ngồi rình, chờ con rùa thò đầu thò chân ra thì sẽ bắt lấy ăn thịt. Đợi mãi chẳng thấy con rùa thò đầu, thò chân ra, đói quá nó đành tức giận bỏ đi. Này các tì khiêu! Các ngươi ngày nay cũng giống như vậy Bấy giờ đứcThế Tôn mới nói bài kệ rằng: Con rùa sợ con cáo, giấu sáu chi trong mai; tì khiêu giỏi nhiếp tâm, giấu kín các giác tướng” (TĐPHHV, tr. 1049). (2) Hàm Trì, Ngu Uyên: thời cổ, người Trung Quốc cho rằng buổi sáng sớm mặt trời từ Hàm Trì ngoài biển bay lên trời, chiều thì chui vào Ngu Uyên trong núi ngủ. (3) Điệp mộng: giấc mơ hóa bướm. Trong sách Nam hoa kinh, Trang Tử kể chuyện nằm ngủ mơ thấy mình là một con bướm bay lượn nhởn nhơ thỏa thích, khi tỉnh dậy bâng khuâng tự hỏi không biết mình là người đã mơ hóa bướm, hay chính là bướm đang mơ hóa người. Chỉ cuộc đời hư ảo, không biết đâu là mộng, đâu là thực. (4) Văn mang: Sách Trang Tử (Nam hoa kinh) có câu: 其於治天下 也 猶涉海鑿河而使蚊負山也 Kỳ ư trị thiên hạ dã do thiệp hải tạc hà nhi sử văn phụ sơn dã (Việc trị thiên hạ giống như vượt biển đào sông mà khiến con muỗi gánh núi vậy). Chỉ việc rất khó khăn không làm được. (5) Đà lợi địa: hay đà lý (ghâtu), cái tự thể vốn có của mỗi sự vật. Còn chỉ xá lợi (nhục thân) của đức Như Lai. (6) Bát đàm thiên: hay bát đà la, bất vu, dụng cụ đựng thức ăn của tăng nhân, bằng sành hay bằng sắt. 67Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 紅卸瓶花薰石硯 Hồng tá bình hoa huân thạch nghiễn, 黃敲窗葉響楸枰 Hoàng xao song diệp hưởng thu bình. 水清可匊如瓜蔓 Thủy thanh khả cúc như qua mạn, 菜嫩堪茹似菊英 Thái nộn kham như tự cúc anh. 木石深居何處好 Mộc thạch thâm cư hà xứ hảo, 羊裘擬學富春耕 Dương cừu nghĩ học Phú Xuân canh.(1) * * * * * * 長夏清江野興饒 Trường hạ thanh giang dã hứng nhiêu, 茶瓜草草度無聊 Trà qua thảo thảo độ vô liêu. 含龍齋慶傳金偈 Hàm Long trai khánh truyền kim kệ, 白虎漁歌答水樵 Bạch Hổ ngư ca đáp thủy tiều. 帶鳥還山帆入港 Đới điểu viễn sơn phàm nhập cảng, 得魚上巿客爭橋 Đắc ngư thướng thị khách tranh kiều. 閉門不管人間事 Bế môn bất quản nhân gian sự, 掃地焚香自暮朝 Tảo địa phần hương tự mộ triêu. * * * * * * 泰道栽成慶拔茹 Thái đạo tài thành khánh bạt như, 庙堂奔走盡璠璵 Miếu đường bôn tẩu(2) tận phiên dư. 社開新句傳奎聚 Xã khai tân cú truyền khuê tụ, 陣演初碁罷翼舒 Trận diễn sơ kỳ bãi dực thư. 法眼暝来彌空曠 Pháp nhãn minh lai di khống khoáng, 吟髭〇後更蕭疏 Ngâm tỳ niếp(3) hậu cánh tiêu sơ . 漁船飛上河橋市 Ngư thuyền phi thướng hà Kiều thị, 新得香江藿葉魚 Tân đắc Hương Giang hoắc diệp ngư. * * * * * * (1) Phú Xuân canh: cày ruộng ở Phú Xuân. Nghiêm Lăng người thời Hán. Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, Vương Lăng ở ẩn, kết bạn thân thiết với Lưu Tú. Khi Lưu Tú dấy binh đánh Vương Mãng để khôi phục cơ nghiệp, ông cũng hết lòng giúp đỡ. Sau khi Lưu Tú lên ngôi (Hán Quang Vũ đế), ông lui về ở ẩn tại vùng núi Phú Xuân cày ruộng, vua mời mãi ông đều từ chối, phong quan tước, ông không nhận, cuối cùng nể lời bạn, ông đến kinh đô. Vua mừng rỡ, đêm ấy cùng ngủ chung giường, chuyện trò đến sáng, ông lại từ biệt về (2) Miếu đường bôn tẩu: chỉ việc chạy vạy sắm sửa, lo toan phục vụ tế lễ. Thi kinh, phần Tụng, Chu tụng, thiên Thanh miếu, chương I: 於穆青廟/肅雍顯相/濟濟多士/秉文之德/對越在天/駿奔走在廟/不顯不承/ 無射於人斯 Ô mục Thanh miếu / Túc ung hiển tướng / Tế tế đa sĩ / Bỉnh Văn chi đức / Đối việt tại thiên / Tuấn bôn tẩu tại miếu / Bất hiển bất thừa / Vô dịch ư nhân tư (Ôi! Thanh miếu sâu xa / Nghiêm trang rạng rỡ / Người hầu đông đúc / Giữ đức Văn Vương / Đối ngài trên trời / Chạy vạy tại miếu / Đức sáng nên thờ / Không hề chán ghét). (3) Chữ trong vòng tròn là chữ NIẾP, gồm: bộ trúc + 爾. 68 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 水竹蒼凉曉日暹 Thủy trúc thương lương hiểu nhật tiêm, 江鄉六月失餘炎 Giang hương lục nguyệt thất dư viêm. 臨溪雲棧三間淨 Lâm khê vân sạn tam gian tĩnh, 赴海風帆一路恬 Phó hải phong phàm nhất lộ điềm. 次第李瓜滋味足 Thứ đệ lý qua tư vị túc, 尋常鬱薁野情兼 Tầm thường uất áo dã tình kiêm. 仙家數著殘棋在 Tiên gia sổ trứ tàn kỳ tại, 消受人間歲月淹 Tiêu thụ nhân gian tuế nguyệt yêm. Dịch nghĩa: Vô Nhất hành oa (tám bài) Mười hai đầu đà tự làm lấy trong nhà, Dưới rừng cây bên bờ sông, ngồi kết già. Hoa ưu đàm trong đêm ngủ dưới sương móc thơm, Cây cự thắng buổi sáng sớm ăn với mây ráng ngọc. Đầy nhà những trái cây hạt vàng rụng, Dọi vào cửa sổ những cành tre xanh như ngọc nghiêng thấp. Không ngại ngùng vì đãi khách sơ sài, Ngày ngày cậu bé nhà chài gọi thay trà. * * * Cây và mây xơ xác, bóng hoa trùng trùng; Ngôi đình nhỏ cao tựa vào gốc cây thông bên khe. Vọt lên chầu trước hiên nước, cá dương vây (râu); Nhập thiền định trong rừng hương, hươu nuôi sừng non. Trái trong vườn theo từng mùa ngọt đắng dâng lên, Sen trong bình vào buổi chiều trắng hồng đem cúng. Sông vắng tanh, sớm chiều không ai qua lại; Trong tiếng mưa tiếng sấm, măng tre lớn lên. * * * Sao đầy trời treo trên sông lạnh, Ai đó thổi sáo bài chia tay. Mờ mờ trên vách, sách vở, mịt mù giấc mộng đi xa; Chiếc thuyền nhỏ giữa gió mưa, rõ ràng cái chum tàn. (?) Thực hành giữ đúng [phép tu luyện] như con rùa giấu sáu chi, 69Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Nói năng răn giữ nghiêm túc như nhạn bay hai hàng. Bỗng nhớ bạn cũ trong hội thơ gần đây, Trong số ấy ai là người theo đuổi cây bút? * * * Mỗi khi nghe tiếng gà gáy vang trên đầu ngọn cây, Ngồi ngay thẳng từ khi mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn. Tự thương giấc bướm trôi qua chợt tỉnh dậy, Cười mãi con muỗi mà gánh vác việc nặng quá sức. Vách nhà hoa vung vải sáng, là đất đà lợi; Thềm nhà vang tiếng quả rụng, là trời bát đàm. Núi chuông từ đó không quan hệ gì đến thế gian nữa, Cây mùa thu, cỏ mùa xuân và vài khoảnh ruộng. * * * Chim nước gáy cho đến lúc tiếng chuông ngân vang, Thức dậy thấy sông Ngân Hà đã ở cạnh Ngọc Hành. Màu hồng ở hoa trong bình tỏa mát nghiên đá, Màu vàng ở lá ngoài cửa sổ xao động bàn cờ. Nước trong veo có thể vốc như dây dưa, Rau nõn ăn chay được cũng như hoa cúc. Vùng sâu nào đây có cây đá mà thích hợp thế, Bắt chước mặc áo da dê cày ruộng ở núi Phú Xuân. * * * Mùa hè dài, sông nước trong, hứng quê dồi dào; Trà, dưa, rau, cỏ, qua ngày chẳng bận bịu gì. Tiếng khánh chùa Hàm Long truyền đi bài kệ vàng, Tiếng hò chài ở cầu Bạch Hổ đáp lại tiếng hát người vớt củi. Mang chim [săn được] về núi, cánh buồm vào bến; Đánh được cá lên chợ, khách tranh nhau qua cầu. Đóng cửa không màng đến việc nhân gian, Quét đất đốt hương một mình hai buổi sớm chiều. * * * Luyện được đạo hay thấu đến tận rễ, Miếu đường sắm sửa hết cả thứ ngọc quý phiên dư. 70 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Hội thơ mở ra câu mới truyền sách vở, Ván cờ bắt đầu diễn ra, dẹp việc nghỉ ngơi thong thả. Mắt pháp mờ đi trước khoảng không mênh mông, Ria (râu mép) bạc sau hàng trúc càng thưa thớt. Thuyền đánh cá [chạy như] bay trên sông tới chợ Cầu, Mới được ăn cá với rau hoắc trên sông Hương. * * * Tre nước xanh rờn, mặt trời buổi sáng lên cao; Làng xóm bên sông tháng sáu đã mất hơi nóng thừa. Bên khe, ba gian nhà mây sạch sẽ; Ra biển, cánh buồm theo gió một đường đi yên lành. Rau dưa lần lữa mùi vị đầy đủ, Rổ rá [dần, sàng] tầm thường đậm đà tình quê. Nhà tu tiên vẫn còn lại một vài ván cờ tàn, Tiêu hết những năm tháng lánh ẩn của nhân gian. Tạm dịch thơ: Thập nhị đầu đà nhà sẵn phép, Dười rừng bên bến kết hương già. Ưu đàm đêm ngủ trong sương ngát, Cự thắng mai ăn dưới ráng ngà. Quả núi hạt vàng rơi nóc mái, Cành tre lá ngọc lả song sa. Chớ hiềm đãi khách sơ sài thế, Thỉnh thoảng ngư đồng gọi đổi trà. * * * Cây mây xơ xác bóng hoa trùng, Đình nhỏ bên khe dựa cội tùng. Hiên nước cá tham mà vẩy vảy, Rừng hương hươu định để nuôi nhung. Vụ mùa vườn quả dâng cay đắng, Chiều muộn hoa bình cúng trắng hồng. Trời tối sông trơ không khách tới, Trong mưa sấm động nở măng rồng. * * * 71Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Sông lạnh đầy trời nhấp nhánh sao, Khúc tiêu ly biệt thổi nao nao. Gió mưa thuyền nhỏ vành chum hiện, Sách vở vách đầy giấc mộng xao. Giữ vững như rùa che sáu cánh, Răn nghiêm tựa nhạn ruổi hai tao. Hội thơ bỗng nhớ bao người cũ, Cầm bút còn ai giữ được nào. * * * Gà gáy trên cây mỗi sáng ngày, Từ mai đến tối cứ ngồi ngay. Thương mình giấc bướm mơ vừa tỉnh, Cười nó sức mòng việc lớn vay. Vách sáng hoa bay miền tự tính, Thềm vang trái rụng cõi trì chay. Núi chuông từ đấy xa nhân thế, Đám ruộng xuân thu cỏ với cây. * * * Chim nước kêu rồi chuông dóng canh, Dậy thấy Ngân Hà cạnh Ngọc Hành. Nghiên đá mát thơm hoa chậu thắm, Bàn cờ xao động lá song xanh. Nước trong vốc được như dây cuốn, Rau nõn ăn chay với cúc anh. Cây đá nương thân nơi tốt nhất, Phú Xuân cày ruộng áo tơi lành. * * * Hè tới sông trong quê hứng nhiều, Trà dưa rau cỏ sống cô liêu. Hàm Long khánh điểm truyền câu kệ, Bạch Hổ chài ca đáp tiếng tiều. Chim quảy về non, thuyền tới bến; Cá mang vào chợ, khách tranh kiều. 72 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Chuyện đời đóng cửa không màng đến, Quét đất thiêu hương sớm lại chiều. * * * Đàn lễ làm xong chay bạt độ, Cúng dường tấp nập ngọc vàng đưa. Hội khai câu mới truyền thơ đẹp, Ván đánh cờ đầu bãi nghỉ trưa. Mắt pháp đã mờ trông chếnh choáng, Hàm râu vừa bạc mọc lưa thưa. Chợ Cầu thuyền cá theo nhau tới, Cá diếc Sông Hương mới được ưa. * * * Tre nước xanh rờn ác sớm lên, Xóm sông tháng sáu nóng vơi liền. Nhà mây bên suối ba gian tịnh, Buồm gió ra khơi một lối yên. Lần lữa rau dưa mùi vị đủ, Tầm thường rổ rá thú quê quen. Tiêu dần ngày tháng quên nhân thế, Mấy ván cờ tàn ở cõi tiên. BÀI SỐ 58 夏 至 Hạ chí 曲徑臨湖細草芟 Khúc kính lâm hồ tế thảo sam, 深居門戶没機緘 Thâm cư môn hộ một cơ giam. 五夌初熟朝登豆 Ngũ lăng sơ thục triêu đăng đậu, 半夏方生晚試鑱 Bán hạ phương sinh vãn thí sàm. 柱礎濕餘添暑溽 Trụ sở thấp dư thiêm thử nhục, 江村雨後失潮鹹 Giang thôn vũ hậu thất triều hàm. 滿林啼鵙催詩思 Mãn lâm đề quyết thôi thi tứ, 快似并刀乍出函 Khoái tự tính đao sạ xuất hàm. 73Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 Dịch nghĩa: Tiết hạ chí Con đường quanh co ra đến hồ, cỏ mọc mượt mà; Ở mãi trong nhà, mất cả mọi thời cơ. Ngũ lăng mới chín, buổi sớm lên đậu; Nửa mùa hè vừa sinh, buổi chiều thử cuốc (xẻng). Nhà cửa đã ướt át nay thêm nóng và ẩm, Xóm bên sông sau khi mưa, lại bị nước triều nhiễm mặn. Đầy rừng, chim đề quyết giục giã tứ thơ; Sắc sảo nhanh chóng như dao gươm ra khỏi vỏ. Tạm dịch thơ: Đường lượn ra ao đầy cỏ mượt, Trong nhà ở mãi vận cơ sai. Đầu mùa mới chín mai lên đậu, Giữa hạ vừa sinh tối thử mai. Trụ sở ướt rồi thêm nóng ẩm, Giang thôn mưa tạnh lại hàm quai. Đầy rừng đề quyết cho thi tứ, Sắc tựa dao cau mới lấy mài. BÀI SỐ 59-66 江村夏日寄一二知己八首 Giang thôn hạ nhật ký nhất nhị tri kỷ bát thủ 曾聞閣下獨生麻 Tằng văn các hạ độc sinh ma, 溫似水條艷吐葩 Ôn tự thủy điều diễm thổ ba. 別墅琴樽饒勝賞 Biệt thự cầm tôn nhiêu thắng thưởng, 故山泉石足清華 Cố sơn tuyền thạch túc thanh hoa. 而孫何必移王屋 Nhi tôn hà tất di vương ốc, 臣子徒勞望帝車 Thần tử đồ lao vọng đế xa. 樗散即今同棄置 Sư(1) tán tức kim đồng khí trí, (1) Sư: một loài cây lớn nhưng gỗ xốp, không thể dùng làm gì cả, cũng như cây lịch. Vì vậy, người ta dùng từ lịch sư hay sư lịch để chỉ kẻ hèn kém vô dụng. 74 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 未妨共種邵平瓜 Vị phương cộng chủng Thiệu Bình qua.(1) (沙岩墨癡子) (Sa Nham Mặc Si Tử).(2) Dịch nghĩa: Ngày hè ở xóm sông, gởi cho một vài tri kỷ (tám bài) 1. [Gởi cho] Sa Nham Mặc Si Tử Từng nghe dưới gác chỉ có một loài cây gai mọc, Mềm mại êm ái như cành băng đẹp đẽ nhả hoa. Đàn và rượu trong ngôi nhà riêng rất nhiều vui thú, Suối và đá nơi núi cũ đầy đủ hoa tươi. Con cháu cần gì phải dời đến vương phủ, Bề tôi chớ nhọc lòng mong mỏi xe hoàng đế. Cây xư (sư) vô dụng đến nay cùn bị bỏ đi, Chưa có hại gì khi cùng trồng với cây dưa của Thiệu Bình. Tạm dịch thơ: Trồng gai dưới gác đã nghe qua, Êm tựa cành băng đẹp nhả hoa. Đàn rượu nhà riêng nhiều thú vị, Đá khe núi cũ đủ thanh ba. Cháu con đâu phải về vương ốc, Tôi tớ màng chi đến đế xa. Sư gỗ đến nay cùn vất bỏ, Trồng cùng dưa Thiệu hại gì ta. 禪房蔓絕一陳無 Thiền phòng mạn tuyệt nhất trần vô, 經卷茶鐺旦復晡 Kinh quyển trà sanh đán phục bô. 寶龕爛堆紅餖飣 Bảo khám lạn đôi hồng đậu đính,(3) 淨瓶香沁玉盤盂 Tĩnh bình hương thấm ngọc bàn vu. 半空返炤明簾押 Bán không phản chiếu minh liêm áp, 百丈殘虹拂罽〇 Bách trượng tàn hồng phất kế lâu.(4) (1) Thiệu Bình qua: cây dưa của Thiệu Bình. Chưa tra khảo được điển tích. (2) Những tri kỷ của tác giả hầu hết chúng tôi không được biết, nên xin miễn chú thích. (3) Đậu đính: Theo sách Thông nhã ẩm thực, đậu đính là loại bánh ngũ sắc xếp trong hộp thành chồng đặt trước bàn tiệc. Cũng chỉ văn chương chắp vá. (4) Chữ trong vòng tròn là chữ LÂU, gồm: 婁 + 毛. 75Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 寄語江西山谷道 Ký ngữ giang tây sơn cốc đạo, 社中二十五人俱 Xã trung nhị thập ngũ nhân câu. (波羅密字圓覺大師) (Ba La Mật tự Viên Giác đại sư).(1) Dịch nghĩa: 2. [Gởi cho] Đại sư Viên Giác chùa Ba La Mật Phòng thiền sạch sẽ một mảy bụi cũng không có, Sách kinh và chén trà từ sáng sớm đến trưa. Trên khám báu sáng rực những hộp bánh chồng màu hồng, Bình nước sạch mùi thơm tỏa đến các đĩa chén bát nhang. Ánh nắng lưng trời dọi xuống rèm hắt sáng vào, Mống cầu trăm trượng tàn phất trên chiếc thảm lông. Xin gởi lời nhắn tới đường hang núi ở phía tây sông, Cùng với hai mươi lăm người trong hội [thơ?]. Tạm dịch thơ: Sạch sẽ phòng thiền mảy bụi không, Sớm trưa kinh kệ với trà bông. Bánh bày khám báu từng chồng thắm, Hoa cắm bình thơm chén bát nồng. Ánh nắng lưng trời soi cửa sáng, Mống cầu trăm trượng phất màn lông. Sông tây xin nhắn đường hốc núi, Trong hội hai mươi lăm lẻ ông. 百尺飛樓四望開 Bách xích phi lâu tứ vọng khai, 倚欄無語思悠哉 Ỷ lan vô ngữ tứ du tai. 嶺頭散彩飛虹斷 Lĩnh đầu tán thể phi hồng đoạn, 水面成紋小雨纔 Thủy diện thành văn tiểu vũ tài. (1) Viên Giác đại sư: vị sư trú trì chùa Ba La Mật. Viên Giác đại sư thế danh Nguyễn Khoa Luận (1834- 1900), thuộc đời thứ chín họ Nguyễn Khoa, một họ có truyền thống lâu đời và nổi tiếng ở xứ Huế. Năm 1861, với chân giám sinh Quốc Tử Giám, ông đỗ cử nhân khoa Tân Dậu, Tự Đức 14, làm đến chức Bố chánh tỉnh Quảng Ngãi. Khi nghe tin vua Hàm Nghi ra chiến khu Hà Tĩnh và ban chiếu Cần Vương (1885), ông treo ấn từ quan, cắt tóc quy y với hòa thượng Hải Thiệu chùa Từ Hiếu. Phu nhân là Thanh Trất Từ Thiện Tôn Nữ Thị Tư (1839-1899) dựng ngôi chùa Ba La Mật để sư tu hành. Năm Canh Tý (1900), đại sư lâm bệnh, truyền y bát cho đệ tử Viên Thành, rồi thị tịch ngày 27 tháng Sáu năm Canh Tý, Thành Thái 12 (23/7/1900). 76 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 山字〇屏圍墨竹 Sơn tự chỉ(1) bình vi mặc trúc, 錦文石几寫疏梅 Cẩm văn thạch kỷ tả sơ mai. 聞鐘忽憶清光句 Văn chung hốt ức thanh quang cú, 月下搓珠定幾回 Nguyệt hạ tha châu định kỷ hồi. (淨齋道人) (Tịnh Trai đạo nhân). Dịch nghĩa: 3. [Gởi cho] Tịnh Trai đạo nhân Trên lầu cao trăm thước, trông ra bốn bề rộng rãi; Tựa vào lan can chẳng nói gì, ý tứ bay bổng xa xôi. Đầu núi cái mống cầu vồng ngắn màu tan tác, Trên mặt nước, cơn mưa nhỏ vừa qua còn ghi dấu ấn. Chữ núi ở bình phong bằng vải có hàng trúc mực bao quanh, Hình gấm ở ghế đá vẽ cây mai lưa thưa. Nghe tiếng chuông, chợt nhớ đến những câu thơ trong sáng; Dưới ánh trăng, lần tràng hạt mấy phen ngồi thiền định. Tạm dịch thơ: Lầu cao trăm thước bốn bề trông, Lặng tựa lan can tứ vút không. Mặt nước mưa tan còn dấu ấn, Đầu non màu tán dứt cầu vồng. Gấm thêu ghế đá mai thưa vẽ, Núi viết bình phong trúc mực lồng. Chuông vọng nhớ vần thơ thoát tục, Ngồi thiền lần hạt dưới trăng trong. 瓜架侵檐豆莢肥 Qua giá xâm thiềm đậu giáp phì, 山窗晴日着〇〇 Sơn song tình nhật khán y uy.(2) 多羅巧製遮塵扇 Đa la(3) xảo chế già trần phiến, 薜荔工栽隔汗衣 Bệ lệ(4) công tài cách hãn y. (1) Chữ trong vòng tròn là chữ CHỈ, gồm: trên 氏 + dưới 巾. Chữ chính thức là 紙. (2) Hai chữ trong vòng tròn là chữ Y, gồm: 虫 + 伊 và chữ UY, gồm: 虫 + 威. Hai chữ này nguyên viết 伊威 như thấy trong Thi kinh, sau người ta thêm vào bộ TRÙNG để phân biệt. Y uy còn gọi là thử phụ, loài côn trùng ở dưới đất ẩm thấp chân các góc tường, thường đùn đất lên như loài giun (phương ngữ miền Trung gọi là trùn). (3) Đa la: chưa hiểu là cây gì, nhưng để làm quạt thì phải là cây có lá xòe rộng như cây cọ. (3) Bệ lệ, cũng gọi mộc liên, cây mọc thành bụi, lá hình trứng, hoa nhỏ, trái dùng làm phấn thoa. 77Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 盛世箭芝誇並畜 Thịnh thế tiễn chi khoa tịnh súc, 君家跗萼正連輝 Quân gia phu ngạc chính liên huy. 山中能作知音客 Sơn trung năng tác tri âm khách, 為我攜琴試一揮 Vi ngã huề cầm thí nhất huy. (定慧道人) (Định Huệ đạo nhân). Dịch nghĩa: 4. [Gởi cho] Định Huệ đạo nhân Dàn dưa phủ đến thềm nhà, hạt đậu mập mạp, Ngày tạnh ráo, nhìn qua cửa sổ trên núi xem sâu đùn đất Lá cây đa la chế tạo khéo léo làm quạt che bụi, Cỏ bệ lệ trồng công phu để làm áo ngăn mồ hôi. Có tiễn chi được thời khoe mình được chăm sóc, Đài hoa nhà bạn đúng lúc nở rực rỡ. Trong núi, ông có thể làm người khách tri âm của ta, Vì ta mà đem đàn đến gảy một phen. Tạm dịch thơ: Dàn dưa đậu tốt phủ hiên nhà, Song tạnh xem sâu sủi đất ra. Áo mát thì trồng cây bệ lệ, Quạt trần ắt chế lá đa la. Tiễn chi lúc thịnh khoe chăm bón, Hoa nhụy nhà anh nở sáng lòa. Trong núi tri âm ta có bác, Vì ta xin tấu một bài ca. 新浴身輕似野翬 Tân dục thân khinh tự dã huy, 岸巾支笏傍書幃 Ngạn cân chi hốt bạng thư vi. 三閭傷楚朝餐菊 Tam Lư thương Sở triêu xan cúc,(1) 孤竹懷殷暮採薇 Cô Trúc(2) hoài Ân mộ thái vi. 雙璧自怜甘鏟釆 Song bích(3) tự linh cam sản thể, (1) Tam Lư xan cúc: Tam Lư tức nhà thơ Khuất Nguyên nước Sở. Trong bài Ly tao sáng tác thời kỳ bị lưu đày, ông viết: 老冉冉其將至兮恐脩名之不立/朝飲木蘭之墜露兮夕餐秋菊之落英 Lão nhiễm nhiễm kỳ tương chí hề, khủng tu danh chi bất lập / Triêu ẩm mộc lan chi trụy lộ hề, tịch xan thu cúc chi lạc anh (Đào Duy Anh dịch: Già sòng sọc sắp đến a, sợ danh hay chửa dựng được / Sớm uống nước rớt ở cây mộc lan a, tối ăn nhụy non của hoa cúc). (2) Cô Trúc: xem chú thích Di Tề bài số 48: Tịch cốc. (3) Song bích: chưa rõ ý nghĩa. 78 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7 (150) . 2018 二離猶强逞揚暉 Nhị ly(1) do cưỡng sính dương huy. 沉思古訓應緘口 Trầm tư cổ huấn ưng giam khẩu, 一串菩提凛佩韋 Nhất quán bồ đề lẫm bội vi. (洪益) (Hồng Ích). Dịch nghĩa: 5. [Gởi cho] Hồng Ích Mới tắm xong, thân thể nhẹ như lông trĩ đồng; Khăn đội đầu, hốt cầm tay bên cạnh màn sách. Ông Tam Lư [Khuất Nguyên] thương nước Sở, sớm ăn cúc; Người Cô Trúc [Di Tề] nhớ nhà Ân, hái rau vi. “Song bích” tự thương mình đành lánh ẩn, “Nhị ly” còn gắng gượng tỏ tài minh. Nghĩ ngợi sâu xa lời dạy xưa nên kín miệng, Một chuỗi hạt bồ đề cầm chặt bên mình. Tạm dịch thơ: Mới tắm mình như lông trĩ nhẹ, Đội khăn cầm hốt tựa thư vi. Tam Lư xót Sở mai ăn cúc, Cô Trúc hoài Ân tối hái rau. “Song bích” thương mình về ẩn quách, “Nhị ly” gắng sức trổ tài chi. Lời xưa ngẫm kỹ nên im miệng, Chuỗi hạt bồ đề chẳng bỏ đi. 金經卸誦倚重檐 Kim kinh tá tụng ỷ trùng thiềm, 鄰寺鳴鐘夕課嚴 Lân tự minh chung tịch khóa nghiêm. 三尺清風輕入幕 Tam xích thanh phong khinh nhập mạc, 一鉤明月淨窺簾 Nhất câu minh nguyệt tĩnh khuy liêm. 漫天星斗分棋局 Mạn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf43029_136072_2_pb_0057_2198452.pdf