Góp phần tìm hiểu lý thuyết cơ cấu - chức năng

Tài liệu Góp phần tìm hiểu lý thuyết cơ cấu - chức năng: Xã hội học số 4 (80), 2002 13 Góp phần tìm hiểu lý thuyết cơ cấu - chức năng Bùi Đình Thanh Tầm quan trọng của lý thuyết đối với sự phát triển của khoa học nói chung, khoa học xã hội nói riêng trong đó bao gồm cả xã hội học là điều đã đ−ợc giới nghiên cứu khoa học khẳng định, không còn gì phải bàn cãi. Max Weber đã có những nhận xét sâu sắc về quá trình hình thành và biến chuyển của các lý thuyết khoa học: "Bộ máy trí tuệ mà quá khứ đã phát triển bằng một sự xây dựng về ý t−ởng, nghĩa là bằng một sự biến đổi trong ý t−ởng thực tế đ−ợc cảm nhận ngay tức khắc và bằng việc đ−a sự biến đổi đó vào trong những khái niệm t−ơng ứng với trình độ các kiến thức và với ph−ơng h−ớng những lợi ích của thực tế đó. Bộ máy trí tuệ nh− thế luôn luôn ở vào trạng thái đấu tranh với những kiến thức mới mà chúng ta có thể và muốn có từ thực tế hiện tại. Chính là trong cuộc đấu tranh đó mà tiến bộ của các khoa học đ−ợc thực hiện. Lịch sử các khoa học về đời sống xã hội do đó v...

pdf7 trang | Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp phần tìm hiểu lý thuyết cơ cấu - chức năng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 4 (80), 2002 13 Góp phần tìm hiểu lý thuyết cơ cấu - chức năng Bùi Đình Thanh Tầm quan trọng của lý thuyết đối với sự phát triển của khoa học nói chung, khoa học xã hội nói riêng trong đó bao gồm cả xã hội học là điều đã đ−ợc giới nghiên cứu khoa học khẳng định, không còn gì phải bàn cãi. Max Weber đã có những nhận xét sâu sắc về quá trình hình thành và biến chuyển của các lý thuyết khoa học: "Bộ máy trí tuệ mà quá khứ đã phát triển bằng một sự xây dựng về ý t−ởng, nghĩa là bằng một sự biến đổi trong ý t−ởng thực tế đ−ợc cảm nhận ngay tức khắc và bằng việc đ−a sự biến đổi đó vào trong những khái niệm t−ơng ứng với trình độ các kiến thức và với ph−ơng h−ớng những lợi ích của thực tế đó. Bộ máy trí tuệ nh− thế luôn luôn ở vào trạng thái đấu tranh với những kiến thức mới mà chúng ta có thể và muốn có từ thực tế hiện tại. Chính là trong cuộc đấu tranh đó mà tiến bộ của các khoa học đ−ợc thực hiện. Lịch sử các khoa học về đời sống xã hội do đó vẫn sẽ là một sự quá độ tiếp tục của ý định sắp đặt về mặt ý t−ởng những hiện t−ợng với việc khái niệm hóa sự giải thể những hình t−ợng trí tuệ đã đạt đ−ợc bằng sự mở rộng và di chuyển của chân trời khoa học, rồi sau đó lại xây dựng những khái niệm mới trên cơ sở đ−ợc thay đổi đó1. Lịch sử xã hội học, nếu chỉ tính từ Auguste Comte và Karl Marx đến nay mới chỉ hơn 150 năm, nh−ng trong thời gian đó, khi đã đ−ợc thừa nhận là một môn khoa học, nó đã phát triển mạnh mẽ với nhiều lý thuyết nhằm cố gắng giải đáp các vấn đề xã hội đ−ợc đặt ra trong đời sống hiện đại. Trong bài viết này, tôi muốn góp phần tìm hiểu một trong những lý thuyết đó, lý thuyết cơ cấu (hoặc cấu trúc) chức năng. Tại cuộc Hội thảo quốc gia về Xã hội học lần thứ nhất tại Hà Nội trong tháng 4.2001, đã có nhiều bản tham luận nhấn mạnh cần tăng c−ờng nghiên cứu lý luận trong nhiệm vụ xây dựng sự phát triển bền vững của Xã hội học Việt Nam. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của n−ớc ta hiện nay, thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội vận động trong một bối cảnh lịch sử có thể tạm gọi là một quá trình 1 Méthodologie de Max Weber (Ph−ơng pháp luận của M.Weber). Nxb Des temps modernes. Paris. 1967. pp.1836 Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Góp phần tìm hiểu lý thuyết cơ cấu - chức năng 14 vận động kép của một hiện t−ợng xã hội hình thành từ sự thẩm thấu qua lại giữa một bên là quá trình lịch sử tự nhiên từ một xã hội chậm phát triển sang một xã hội văn minh, hiện đại và một bên là quá trình chuyển từ một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị tr−ờng có sự quản lý của Nhà n−ớc theo định h−ớng xã hội chủ nghĩa. Sự vận động của quá trình kép đó là cực kỳ phức tạp vì các quan hệ xã hội gắn với cơ cấu xã hội không còn đơn giản nh− tr−ớc do sự thay đổi nhanh chóng về cơ cấu giai cấp xã hội, cơ cấu lao động, nghề nghiệp, do những chuyển dịch, di động xã hội với những quá trình thay đổi của những tác nhân xã hội, của những cộng đồng lớn hoặc nhỏ đi đôi với những chức năng t−ơng ứng làm cho các quan hệ xã hội phong phú hơn, phức tạp hơn tuy không làm thay đổi bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, ngày nay khi đi vào nghiên cứu những chủ đề xã hội học quan trọng ở n−ớc ta, dù trên cấp độ vĩ mô (ví nh− với chủ đề xã hội Việt Nam trong quá trình hội nhập toàn cầu hóa), hoặc trong từng lĩnh vực riêng biệt (ví nh− xã hội học về cơ cấu xã hội, về xóa đói giảm nghèo, về xã hội học gia đình, xã hội học văn hóa, xã hội học giáo dục, xã hội học quyền lực, về Nhà n−ớc...), không thể không hiểu biết, dù ở mức độ khái quát nhất các lý thuyết về cơ cấu - chức năng. Lý thuyết cơ cấu - chức năng là kết quả của một quá trình phát triển và tổng hợp của nhiều khái niệm trải dài qua nhiều thập kỷ. Tr−ớc hết, xin nhắc lại khái niệm về cơ cấu xã hội. Ng−ời ta ghi nhận là khái niệm đầu tiên về cơ cấu đ−ợc sử dụng trong khoa học tự nhiên ở thế kỷ 17 với nghĩa là tổ chức. Đến thế kỷ 19, khái niệm cơ cấu mới đ−ợc sử dụng trong khoa học xã hội với nghĩa một cơ thể sống, một cơ quan của xã hội, một hệ thống. Từ đó dẫn đến khái niệm của Auguste Comte là bất cứ một hiện t−ợng xã hội nào chỉ có thể đ−ợc giải thích bằng cách gắn nó với một cơ cấu đ−ợc xem nh− một tổng thể. Khái niệm cơ cấu cũng đ−ợc khoa học tâm lý (Kochler, Piaget), tâm lý học xã hội (Lewin) và ngôn ngữ học (de Saussure, Troubetjkoù) sử dụng. Trong lĩnh vực xã hội học, "cơ cấu đ−ợc xem là một tổng thể các yếu tố có những mối quan hệ giữa chúng với nhau theo kiểu bất cứ một sự thay đổi nào của một yếu tố hoặc một quan hệ tất yếu dẫn đến sự thay đổi của các yếu tố quan hệ khác2 . Vào đầu những năm 50 của thế kỷ 20, xuất hiện lý thuyết về cơ cấu xã hội mà ng−ời mở đầu là Claude Lévi Strauss, nhà nhân học với tác phẩm nổi tiếng: "Những cơ cấu sơ đẳng của hệ thân tộc" và sau đó đã có ảnh h−ởng sâu rộng trong nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (triết học, nhân học, sử học, ngôn ngữ học, xã hội học). Hệ thức (paradigme) của lý thuyết cơ cấu xác định mục đích nghiên cứu của nó là khám phá ra các cơ cấu, sự vận hành của chúng và những quy luật nội tại của chúng. 2 André Akoun: Từ điển xã hội học. Paris - 1999, Tr. 510. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Bùi Đình Thanh 15 Trong khi học thuyết Marx giải thích các hiện t−ợng xã hội dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phân tích sự tiến hóa của các quan hệ xã hội thông qua những mâu thuẫn, xung đột, đấu tranh cách mạng làm cho xã hội biến đổi, phát triển từ thấp đến cao thì lý thuyết cơ cấu xã hội chủ tr−ơng hoàn toàn ng−ợc lại, từ bỏ sự phân tích các hiện t−ợng xã hội theo cách tiếp cận lịch sử và coi trọng việc nghiên cứu các trạng thái xã hội ổn định. Theo nhà xã hội học Fougeyrollas, đó là sự khác biệt lớn nhất giữa chủ nghĩa Marx và lý thuyết cơ cấu xã hội. Nhà xã hội học Pháp Pierre Bourdieu đ−ợc xem là ng−ời có nhiều đóng góp vào sự phát triển lý thuyết cơ cấu xã hội d−ới tên gọi là lý thuyết "hậu cơ cấu". Đặc điểm quan trọng nhất của Pierre Bourdieu trong lĩnh vực này là ông đã kế thừa những luận điểm khoa học của Emile Durkheim, Max Weber, đặc biệt là của Marx để xây dựng những luận điểm khoa học của mình. Pierre Bourdieu muốn t− duy lại toàn bộ các quan hệ xã hội, vì qua toàn bộ các quan hệ này mà những bộ phận khác nhau của "không gian xã hội" đ−ợc xác định. Ông xem lý thuyết cơ cấu xã hội có một hiệu quả tạm thời do tính hiện thực của nó cho phép cắt đứt với cái đ−ợc ông gọi là "xã hội học tự phát" và phê phán mạnh mẽ tính máy móc của lý thuyết cơ cấu xã hội. Luận thuyết của Pierre Bourdieu rất coi trọng mối quan hệ biện chứng giữa các tác nhân và cơ cấu xã hội, không xem các tác nhân nh− những phản ánh đơn giản của các cơ cấu khách quan. Điều đó đã đ−ợc ông nói rất rõ trong tác phẩm nổi tiếng "Nghề nghiệp của xã hội học", "Sự mô tả những thái độ, những ý kiến và những nguyện vọng cá nhân không thể đem lại nguyên lý giải thích sự vận hành của một tổ chức, mà chính là sự hiểu đ−ợc lôgic khách quan của tổ chức mới đ−a tới nguyên lý giải thích những thái độ, những ý kiến và những nguyện vọng ấy" 3. Do hệ thống cơ cấu áp đặt một cách máy móc những chuẩn mực ứng xử cho các cá nhân, nên không thể hiểu đ−ợc những sáng tạo, những cách tân của các tác nhân xã hội. Do đó, vấn đề là phải giải thích tại sao những sự tập luyện xã hội tạo ra và khắc sâu những ph−ơng thức cảm nhận và ứng xử ở các tác nhân xã hội. Gia đình và hệ thống giáo dục cùng với kinh nghiệm xã hội góp phần quan trọng vào việc tạo ra những ph−ơng thức cảm nhận và ứng xử đó. Nh− vậy, những chủ thể nằm trong những điều kiện xã hội khác nhau sẽ đạt tới những t− thế khác nhau tùy theo thời điểm lịch sử và vị trí của họ trong một hệ thống cơ cấu xã hội nhất định. Một trong những khái niệm đáng chú ý của Pierre Bourdieu là tái sản xuất xã hội. Đó tr−ớc hết là tái sản xuất hệ thống liên hệ của các giai cấp đ−ợc xác nhận bởi những dự kiến về sự phân phối những tài sản kinh tế và văn hóa. Lý thuyết cơ cấu, khi nghiên cứu các xã hội gọi là truyền thống th−ờng có khuynh h−ớng xem các cơ cấu xã hội là bất biến và không phải bao giờ cũng tìm 3 Le Métier de Sociologue. Ed. Mouton. Bordas. Paris - 1968. pp. 41. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Góp phần tìm hiểu lý thuyết cơ cấu - chức năng 16 hiểu toàn bộ những điều kiện đẻ ra những sự lặp đi lặp lại đó. Theo Pierre Bourdieu, sự phân tích của Marx đã đem lại lời giải đáp chung cho vấn đề tái sản xuất của hệ thống cơ cấu xã hội bao gồm các giai cấp, nh−ng sự phân tích đó chủ yếu tập trung vào các quan hệ kinh tế và mối quan hệ có ý nghĩa quyết định nhất là sự chiếm hữu t− bản. Sự đóng góp của Pierre Bourdieu là nhằm tới cả kết quả của những sự kiện tái sản xuất văn hóa, đặc biệt chú trọng tới những chức năng của hệ thống tr−ờng học trong sự tái sản xuất ấy và trong sự phân biệt văn hóa. Về điểm này, Bourdieu đã đ−a ra những khái niệm mới về t− bản. Thuật ngữ t− bản, theo nghĩa truyền thống của từ này đ−ợc dùng để chỉ t− bản kinh tế do chiếm hữu t− bản kinh tế, nguyên nhân cơ bản tạo ra những vị trí giai cấp và tầng lớp khác nhau trong cơ cấu xã hội. Bourdieu đã dành một phần quan trọng cho sự phân tích hình thức thứ hai của t− bản là "t− bản văn hóa" d−ới hai dạng: "t− bản học hành" đ−ợc tiếp thu qua nhà tr−ờng và "t− bản văn hóa thừa kế" do gia đình truyền thụ. Một hình thức thứ ba của t− bản đ−ợc phân tích là "t− bản xã hội" đ−ợc xác định chủ yếu bằng toàn bộ những liên hệ xã hội mà nó đặc biệt có thể nắm giữ do những nguồn gốc xã hội và sử dụng nh− một t− bản. Thuật ngữ "t− bản" nh− vậy có những định nghĩa khác so với từ vựng kinh tế và cho phép khám phá những xung đột khác với những xung đột thuộc loại kinh tế trong quan hệ giữa tổng thể các cơ cấu xã hội nói chung, cũng nh− trong từng cơ cấu xã hội nói riêng. Vận dụng những quan điểm của Bourdieu vào việc phân tích các hình thức t− bản nói trên dẫn đến sự hình thành và trao đổi các quyền lực trong xã hội Việt Nam hiện nay với những hiệu quả tiêu cực của nó (quan liêu, tham nhũng, lệch chuẩn xã hội, suy đồi kỷ c−ơng, đạo đức...) là điều rất có ý nghĩa. Về đại thể trong lịch sử môn xã hội học, các nhà nghiên cứu chia lý thuyết cơ cấu - chức năng thành ba biến thể: Lý thuyết chức năng cổ điển: lý thuyết này tìm thấy ở tr−ờng phái của Emile Durkheim nguồn cảm hứng lý thuyết với những ng−ời đầu tiên đặt nền móng là Malinowoki và Radeliffe-Brown. Vào những năm 30 của thế kỷ 20, lý thuyết này phát triển mạnh mẽ. Lý thuyết đó đã đánh giá qúa cao mức độ hội nhập và cố kết của những hệ thống xã hội và đề cao sự hài hòa của tổng thể xã hội, mà không chú trọng đến những mâu thuẫn, xung đột, những sự đảo lộn vẫn th−ờng xảy ra trong xã hội. Đó chính là điều mà nhà xã hội học Mỹ Robert Merton phê phán là một lý thuyết "chức năng tuyệt đối". Điều đó dẫn đến chỗ quy cơ cấu xã hội đơn giản chỉ còn là những nghề nghiệp và thái độ ứng xử của các cá nhân chỉ còn là sự sắp đặt của các vai trò đ−ợc quyết định bởi các quy chế nghề nghiệp của các đối t−ợng đ−ợc nghiên cứu mà các đối t−ợng này đều h−ởng thụ Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Bùi Đình Thanh 17 một nền văn hóa nh− nhau, trong khi sự phát triển của các hiện t−ợng xã hội, các cơ cấu xã hội lại phong phú, phức tạp hơn nhiều. Quan điểm đó của Merton đ−a ông đến chỗ đ−a ra khái niệm về một biến thể của lý thuyết chức năng, đó là "lý thuyết chức năng t−ơng đối". Với biến thể này, Merton nêu lên khái niệm về "hệ thức phân tích chức năng", đặt ra một số quy tắc đòi hỏi nhà nghiên cứu không đ−ợc bỏ qua những tính cách "không chức năng", "đa chức năng", thậm chí "trái chức năng" của một số yếu tố trong một hệ thống xã hội nhất định. Merton cũng đề nghị cần có sự phân biệt giữa những chức năng hiển hiện (tức là những hậu quả đ−ợc hiểu biết và mong muốn bởi những ng−ời tham dự trong hệ thống cơ cấu xã hội) và những chức năng tiềm ẩn (tức là những hậu quả không đ−ợc hiểu biết cũng nh− không đ−ợc mong muốn). Cách tiếp cận các vấn đề nghiên cứu theo hệ thức phân tích chức năng đã giúp cho Merton đ−a ra những điều đ−ợc ông gọi là "lý thuyết trung gian" để xử lý một loạt vấn đề nh− hiện t−ợng lệch chuẩn xã hội, vấn đề ảnh h−ởng trong các nhóm xã hội, vấn đề nhân cách, vấn đề những cách ứng xử quan liêu... Biến thể thứ ba của lý thuyết chức năng là lý thuyết cơ cấu - chức năng do nhà xã hội học Mỹ Talcott Parsons. Qua những công trình nghiên cứu của mình, Talcott Parsons khẳng định những hành động xã hội mang những đặc tính của một hệ thống xã hội. Để thực hiện đ−ợc điều đó, ông đề ra một ph−ơng thức phân tích gồm hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất nhằm phát hiện từ trong lòng hệ thống xã hội đ−ợc nghiên cứu những bộ phận cấu thành t−ơng đối ổn định, chúng tạo thành cơ cấu của hệ thống xã hội và do tính độc lập của chúng trong những biến động ngắn hạn đ−ợc xem là những "hằng số". Những "hằng số" đó là những cơ sở quy chiếu dễ tiến hành nghiên cứu. Giai đoạn thứ hai nhằm tìm ra một lời giải bằng các cơ chế tạo nên sự thích hợp của hệ thống xã hội đối với những điều kiện môi tr−ờng của nó, trong cơ cấu nội tại của nó. Đó là thời điểm năng động của sự phân tích đòi hỏi một sự quan tâm sâu sắc đến các quá trình và ý nghĩa của chúng theo quan điểm của lý thuyết cơ cấu - chức năng đối với sự duy trì của hệ thống xã hội đ−ợc xem xét. Nói một cách khác, Talcott Parsons đề ra cho lý thuyết cơ cấu chức năng của ông hai vấn đề phải giải quyết: vấn đề thứ nhất là những điều kiện để duy trì và thực hiện sự vận động của hệ thống xã hội, vấn đề thứ hai là những ph−ơng thức của bản thân hành động xã hội trong quá trình vận động của hệ thống xã hội. Để giải quyết vấn đề thứ nhất, Talcott Parsons đ−a ra những đòi hỏi về chức năng đối với mọi hệ thống hành động cũng nh− đối với các yếu tố cơ cấu t−ơng ứng với hệ thống đó. Những đòi hỏi về chức năng đó gồm có 4 yếu tố đ−ợc thể hiện thành một sơ đồ AGIL với những nội dung nh− sau: Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Góp phần tìm hiểu lý thuyết cơ cấu - chức năng 18 A (Adaptation): sự thích nghi với môi tr−ờng bên ngoài G (Goal): sự thực hiện các mục đích I (Integration): sự hội nhập và các hành động L (Latents): sự duy trì các mô hình tiềm ẩn Bốn sự đòi hỏi đó hợp thành bốn chức năng cơ bản Trên thực tế, bản thân hệ thống xã hội với những hệ thống cơ sở vật chất, sinh học, tinh thần, văn hóa làm thành cơ sở môi tr−ờng của nó cũng chỉ là một phân hệ hành động. Nó đ−ợc phân tích thành những yếu tố cơ cấu liên quan chặt chẽ với nhau: những "vai trò" làm cho hành động xã hội thích nghi với môi tr−ờng thông qua trung gian của các cơ thể sống, những "tập thể" xác định và kiểm sát các "vai trò" đó, những "chuẩn mực" là những th−ớc đo của sự hội nhập các tập thể đó. Theo quan điểm nói trên thì xã hội học cũng là một khoa học về hành động xã hội nh− kinh tế học, chính trị học, tâm lý xã hội học. Do đó, nó phải phối hợp nghiên cứu với các môn khoa học xã hội và nhân văn đó. Đối với vấn đề thứ hai (những ph−ơng thức của bản thân hành động xã hội trong quá trình vận động của hệ thống xã hội), hành động xã hội phải đối mặt với những sự lựa chọn liên quan đến sự đánh giá của tác nhân với đối t−ợng hành động của nó cũng nh− đến thái độ mà nó phải có đối với đối t−ợng hành động đó. Những cái đó đ−ợc xem nh− là các biến số của cơ cấu chức năng cho phép phân tích những hành động của các cá nhân cũng nh− của các tập thể (ví nh− các nghề nghiệp, các phân tầng xã hội, gia đình, các đảng phái chính trị, các loại hình xã hội tổng thể). Vận dụng 4 điều đòi hỏi về chức năng nói trên để nghiên cứu xã hội công nghiệp hiện đại, lý thuyết cơ cấu chức năng của Talcott Parsons đã đ−a ra những giải thích về những giá trị chủ yếu và có tính phổ quát trong xã hội đó, ví nh− sự nổi trội của các vấn đề kinh tế, giá trị của các nghề nghiệp khoa học và kỹ thuật đ−ợc đề cao, sự thành đạt cá nhân đ−ợc coi trọng, sự phát triển của gia đình hạt nhân. Nhìn chung lại, lý thuyết cơ cấu, chức năng không chú trọng đi tìm những nguyên nhân xã hội hoặc ngoài xã hội để nghiên cứu và giải đáp những vấn đề xã hội, những hiện t−ợng xã hội mà là tìm những chức năng với sự cần thiết nằm ngay trong lòng mỗi trật tự xã hội. Do đó, điều quan trọng đối với lý thuyết đó không phải là sự ra đời, sự khởi đầu của hiện t−ợng xã hội mà là sự duy trì hiện t−ợng xã hội đó và lôgíc tất yếu là nó xem nhẹ, thậm chí gạt ra ngoài ph−ơng pháp tiếp cận lịch sử. Điểm yếu căn bản của lý thuyết cơ cấu chức năng là nó không kết hợp đ−ợc một cách hợp lý giữa lý luận và thực tiễn. Ph−ơng pháp của Talcott Parsons trong lý thuyết cơ cấu chức năng thiên về phân tích hơn là tổng hợp, chú trọng đồng đại hơn là lịch đại. Từ cuối những năm 50 của thế kỷ 20, lý thuyết cơ cấu - chức năng giảm dần tính hấp dẫn và bắt đầu nổi lên những ý kiến phê phán lý thuyết đó, mà ng−ời khởi x−ớng là Wright Mills, nhà xã hội học Mỹ. Sự phê phán đó diễn ra trong bối cảnh có Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Bùi Đình Thanh 19 nhiều sự biến kinh tế và chính trị làm tình hình thế giới chao đảo (sự thất bại của các ch−ơng trình chống đói nghèo trên toàn thế giới, sự phân biệt chủng tộc gia tăng, cách mạng Cuba, chiến tranh ở Việt Nam, cuộc khủng hoảng của xã hội Mỹ...) Những công trình nghiên cứu của Wright Mills phần nào có sự nối lại với dòng mạch lịch sử và phê phán của xã hội học châu Âu thời Marx và Weber. * * * Nhìn chung lại, có thể đánh giá khái quát lý thuyết chức năng (bao gồm các biến thể của nó) là nó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của t− duy xã hội học trong việc nghiên cứu, đi sâu vào những ph−ơng thức quan hệ giữa các thể chế trong xã hội, đặc biệt là giữa những tổ chức kinh tế, quan hệ thân tộc, những sự sắp xếp về chính trị, những quan hệ tôn giáo và những ý thức xã hội. Nh−ng, lý thuyết đó có những điểm yếu căn bản. Về thực chất, đó là một hệ thống khép kín nên nó đã bất lực khi phải giải thích một cách thuyết phục, có lý luận đ−ợc thực tiễn kiểm nghiệm vì sao những mô hình xã hội khác nhau tồn tại dai dẳng và biến đổi? Ph−ơng pháp t− duy của lý thuyết chức năng đã quy các quá trình xã hội vào những hệ thống xã hội hoặc hình thái xã hội khép kín và tự duy trì nh− những cơ cấu và thể chế xã hội không biến đổi. Xét đến cùng, lý thuyết chức năng đã thiếu ph−ơng pháp lôgíc biện chứng về các quá trình biến đổi và phát triển của xã hội. Ph−ơng pháp lôgíc đó chỉ có thể đ−ợc phân tích trên cơ sở các quá trình lịch sử, điểm mạnh cơ bản của học thuyết Marx. Lý thuyết chức năng, trái lại đã rất coi nhẹ, thậm chí còn bỏ qua lịch sử. Điều đó đã triệt tiêu khả năng của nó phân tích và giải thích sự quá độ từ một ph−ơng thức sản xuất này sang một ph−ơng thức sản xuất khác. Các tài liệu tham khảo 1. Stephen Mennell: Sociological Theory. England. 1980. 2. Gilles Ferreal. Histoire de la pensée sociologique. Ed.Armand Colin. Paris. 1994 3. Histoire de la Sociologie. Tome 2. Ed. La Découverte. Paris. 1996. 4. Pierre Ansart. Sociologies conteimporaines. Paris. 1999. 5. Dictionnaire de Sociologie. Ed. du Seuil Paris. 1999. 6. The Blackwell Dictionary of sociological. Oxford. England. 2000. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso4_2002_buidinhthanh_4425.pdf