Tài liệu Giới thiệu phân tích chi phí và lợi ích: Giới Thiệu Phân Tích Chi Phí và Lợi Ích
Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe
1.1 Mục đích của cuốn sách
Mục đích của cuốn sách là nhằm đưa ra các chỉ dẫn rõ ràng và tương đối đơn giản
cho việc tiến hành một cách chuẩn xác các phân tích lợi ích-chi phí (Cost-Benefit
Analysis ~ CBA) đối với các dự án đã và đang được đề xuất triển khai. Hay nói
một cách khác, mục đích của cuốn sách là nhằm giúp độc giả có thể nhìn nhận một
cách phê phán các CBA họ gặp phải trong quá trình làm việc hay nghiên cứu.
Đúng là chúng ta nên tin tưởng rằng tất cả các nghiên cứu đều được tiến hành một
cách có trách nhiệm và chuẩn xác. Song những nghiên cứu hiện hành thể hiện
những khác biệt lớn về cấp độ chất lượng. Cuốn sách không đưa ra những thảo
luận thấu đáo về các khái niệm, kỹ thuật CBA mà chỉ tóm lược những điểm quan
trọng nhất của một nghiên cứu CBA. Tuy nhiên, những kỹ thuật được phác thảo ở
đây sẽ giúp các bạn thực hiện được những phân tích một cách chuẩn xác. Bất kỳ ai
có kiế...
120 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giới thiệu phân tích chi phí và lợi ích, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giới Thiệu Phân Tích Chi Phí và Lợi Ích
Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe
1.1 Mục đích của cuốn sách
Mục đích của cuốn sách là nhằm đưa ra các chỉ dẫn rõ ràng và tương đối đơn giản
cho việc tiến hành một cách chuẩn xác các phân tích lợi ích-chi phí (Cost-Benefit
Analysis ~ CBA) đối với các dự án đã và đang được đề xuất triển khai. Hay nói
một cách khác, mục đích của cuốn sách là nhằm giúp độc giả có thể nhìn nhận một
cách phê phán các CBA họ gặp phải trong quá trình làm việc hay nghiên cứu.
Đúng là chúng ta nên tin tưởng rằng tất cả các nghiên cứu đều được tiến hành một
cách có trách nhiệm và chuẩn xác. Song những nghiên cứu hiện hành thể hiện
những khác biệt lớn về cấp độ chất lượng. Cuốn sách không đưa ra những thảo
luận thấu đáo về các khái niệm, kỹ thuật CBA mà chỉ tóm lược những điểm quan
trọng nhất của một nghiên cứu CBA. Tuy nhiên, những kỹ thuật được phác thảo ở
đây sẽ giúp các bạn thực hiện được những phân tích một cách chuẩn xác. Bất kỳ ai
có kiến thức tốt về kinh tế học đều có thể tiếp cận được với cuốn sách này.
Một ưu điểm lớn của CBA là nó cung cấp cho ta một khung mục đích mà trong đó
chúng ta có thể thảo luận, sửa chữa và bổ sung. Rủi ro lớn nhất xảy ra khi dữ liệu
cứng lại có xu hướng bị coi là dữ liệu mềm. Cần phải lưu ý chú trọng đúng mức
đến các tác động chưa được số lượng hóa hay được số lượng hóa một cách thô sơ.
Để làm được điều này chúng ta nên coi CBA như một công cụ hỗ trợ cho quá trình
thương thuyết và đưa ra quyết định thay vì coi bản thân nó là quá trình ra quyết
định.
Không nên coi CBA là một quá trình bí hiểm. Một cách đơn giản, CBA là quá
trình chúng ta tính toán giá trị của tất cả các đầu vào và đầu ra của một dự án rồi
sau đó lấy hiệu số của đầu ra trừ đi đầu vào. Đôi lúc, chúng ta có thể sử dụng một
số quy trình phức tạp để xác định giá trị của một mặt hàng chưa được xác định
mức giá song các khái niệm cốt lõi của CBA thì tương đối đơn giản.
Độc giả nên nhận biết một điều rằng CBA không phải là công cụ duy nhất để đánh
giá một dự án. Một dự án có thể được đánh giá dựa trên một cơ sở nào đó khác
hơn là lợi ích ròng mà dự án đó đem lại. Đôi khi phương thức này lại được ưa
thích hơn. Có nhiều dự án vẫn được thông qua nhằm thúc đầy một quá trình chính
trị nào đó ngay cả khi phân tích lợi ích ròng của dự án đưa ra kết luận là không
nên tiến hành dự án. Trong phân tích CBA, có thể có những giá trị không được số
số lượng hóa hay không thể được số số lượng hóa. Điều này đồng nghĩa với việc
một dự án tuy không vượt qua được một cuộc kiểm tra CBA nghiêm ngặt song
vẫn có vẻ là đáng để triển khai. Tuy nhiên, xu hướng chung cho thấy các kết quả
thu được qua CBA dù sao cũng buộc những người muốn đưa ra quyết định trái
ngược có nghĩa vụ phải tìm cách biện chứng cho quyết định của mình. Vì lý do
này, các chính trị gia thường phản đối CBA vì họ cảm thấy rằng những phân tích
kiểu này có thể sẽ hạn chế các khả năng lựa chọn của họ. Dù sao thì ít nhất CBA
cũng cho phép ta tính toán chi phí rõ ràng cho những dự án không qua được kiểm
tra CBA hay các dự án mà các mục tiêu đề ra lớn hơn so với những gì mà theo
CBA dự án có thể đạt được.
1.2 CBA là gì
Phân tích lợi ích chi phí là một kỹ thuật phân tích để đi đến quyết định xem đây có
nên tiến hành các dự án đã triển khai hay không hay hiện tại có nên cho triển khai
các dự án được đề xuất hay không. Phân tích lợi ích chi phí cũng được dùng để
đưa ra quyết định lựa chọn giữa hai hay nhiều các đề xuất dự án loại trừ lẫn nhau.
Người ta tiến hành CBA thông qua việc gắn giá trị tiền tệ cho mỗi một đầu vào
cũng như đầu ra của dự án. Sau đó so sánh các giá trị của các đầu vào và các đầu
ra. Cơ bản mà nói, nếu lợi ích dự án đem lại có giá trị lớn hơn chi phí mà nó tiêu
tốn, dự án đó sẽ được coi là đáng giá và nên được triển khai.
Những dự án mà phân tích CBA xếp vào loại đáng được triển khai là những dự án
cho đầu ra có giá trị lớn hơn đầu vào đã sử dụng. Trong trường hợp phải chọn một
dự án trong số nhiều dự án được đề xuất, CBA sẽ giúp chọn được dự án đem lại
lợi ích ròng lớn nhất. Cũng có thể dùng CBA để đánh giá mức độ nhạy cảm của
các đầu ra trong dự án đối với rủi ro và bất chắc.
Mặc dù ý tưởng thì đơn giản song trong thực tế sẽ có nhiều khó khăn để có thể tiến
hành được một CBA có chất lượng. Chỉ đơn giản là việc xác định đâu là chi phí,
đâu là lợi ích cũng đã đòi hỏi chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng. Cũng có thể có
nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề này. Trong khi một số đầu vào, đầu ra
có thể có các mức giá phổ biến và ổn định thì một số khác lại có mức giá biến đổi
trong quá trình triển khai dự án. Và có thể có một số đầu vào, đầu ra không được
đưa ra buôn bán trên thị trường. Điều này khiến cho chúng ta cần phải đưa ra
những phương pháp định giá khác nhau.
CBA mặc định rằng tất cả các mặt hàng đều có một giá trị tiền tệ nhất định. Điều
này là cần thiết trong việc so sánh giữa đầu vào và đầu ra để quyết định xem liệu
một dự án có khả thi về mặt kinh tế hay không. Trong khi chúng ta có những kỹ
năng thích hợp để quy ra tiền với phần lớn các mặt hàng thì chúng ta khó có thể
làm như vậy với một số mặt hàng nhất định. Ví dụ như không khí trong lành và
sức khỏe tốt đều rất đáng quý song sẽ là một thách thức lớn để có thể xác định
chính xác lợi ích ròng của một chương trình mang lại không khí trong lành và sức
khỏe tốt cho mọi người. Tuy nhiên, ta có thể xác định được một khoảng chi phí
nào đó mà nếu chi phí của chương trình nằm trong khoảng đó thì chương trình là
có giá trị và ngược lại.
Cần phải nhận thấy một điều rằng người ta đưa các quyết định liên quan đến các
dự án không chỉ đơn thuần dựa trên cơ sở CBA. Các tính toán chính trị và xã hội
nằm ngoài CBA có thể có tầm quan trọng ít nhất là ngang bằng với các lợi ích
kinh tế trong việc quyết định có nên triển khai dự án hay không. Điều này đúng
nhất là trong trường hợp đưa ra các quyết định công. Lúc đó, các tài nguyên
thường được phân bổ dựa trên các lý do khác chứ không phải là hiệu quả kinh tế.
Những vấn đề công bằng, bình đẳng trong các trường hợp này có thể sẽ thế chỗ
cho thậm chí là những nguồn lợi ròng lớn về kinh tế. Nhưng ít nhất cũng có thể hy
vọng rằng một CBA có thể tác động tới quyết định của một người còn đang do dự
hay có thể đưa chúng ta đến với lựa chọn tối ưu giữa các dự án có tác động chính
trị, xã hội tương tự như nhau.
1.3 Các bước tiến hành CBA
Phân tích lợi ích chi phí có thể được nghĩ đến như một quá trình vận hành trong đó
có một số bước nổi bật. Không phải phân tích nào cũng yêu cầu phải thực hiện đầy
đủ tất cả các bước đi này. Một dự án ngắn hạn sẽ không đòi hỏi phải chiết khấu lợi
ích trong tương lai. Một dự án đã triển khai nhiều lần có thể sẽ không gặp phải rủi
ro hay bất chắc. Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp, để cân nhắc có nên
triển khai một dự án hay không hay nên chọn triển khai dự án nào giữa các dự án
được đề xuất, chúng ta cần bám theo các bước sau:
1. Làm rõ vấn đề chỗ đứng/vị thế
Khi bắt đầu một phân tích, cần phải chỉ rõ nghiên cứu này là do ai làm, chi phí ai
phải chi, lợi ích ai được hưởng. Chúng ta luôn phải rõ ràng và nhất quán trong việc
giải quyết những vấn đề này cũng như trong việc tính toán lợi ích và chi phí cho
những người/nhóm người khác nhau.
2. Xác định những phương án thay thế
Một phân tích cần phải nêu rõ được dự án hay các dự án là đối tượng xem xét.
Chúng có loại trừ lẫn nhau hay không. Cần phải đưa được các lựa chọn thay thế
tương ứng vào phân tích. Mốc chuẩn để so sánh là lựa chọn không tiến hành dự
án. Song đó có thể chỉ là một cơ sở để so sánh. Ví dụ như trong thảo luận về Đập
Tellico, chính quyền Thung lũng Tennesee đã không so sánh được việc xây đập
với một lựa chọn thay thế khác là tận dụng dòng chảy của con sông để vận hành
một chiếc tuốc-bin phát điện. Những thiếu sót kiểu này không phải là hiện tượng
hiếm khi xảy ra. Khi chúng ta thay đổi quy mô, thời hạn thực hiện của một dự án,
chúng ta có thể có được những thay thế thích ứng. Ví dụ như, một chương trình
tiêm chủng có thể không qua được kiểm nghiệm CBA ở quy mô toàn quốc song
lại có thể vượt qua kiểm nghiệm CBA đối với một vùng có tỷ lệ mắc bệnh cao liên
quan đến loại vắcxin sẽ được tiêm chủng.
3. Đưa ra các Giả định
Giả định là một phần thiết yếu của một phân tích. Có thể giả định này tốt hơn giả
định kia. Cũng có thể dùng giả định cho hàng loạt các yếu tố số lượng hàng, chi
phí, điều kiện thị trường, thời hạn hay các mức lãi sất. Trong một phân tích được
tiến hành một cách có trách nhiệm, những giả định này được nêu một cách rõ ràng.
Nếu có thể chúng được phân bổ cho những nguồn lực đáng tin cậy. Nếu đưa ra
một diện giá trị giả định thì phải có quy định rõ ràng về diện giá trị được đưa ra.
4. Lập danh sách các Tác động của mỗi Dự án Thay thế
Nên liệt kê các tác động tiềm tàng của mỗi dự án một cách đầy đủ nhất có thể. Có
thể liệt kê tác động của một hay nhiều dự án cụ thể được xem xét cũng như tác
động của các lựa chọn thay thế: giữ nguyên hiện trạng hay không triển khai bất kỳ
dự án nào.
Điều quan trọng là tiến hành số lượng hóa các tác động nếu có thể. Để đánh giá
chuẩn xác một dự án đòi hỏi phải biết được lượng đầu vào và đầu ra cần có. Khi
không thể số lượng hóa được một tác động thì ít nhất ta cũng phải đề cập đến tác
động đó. Một dự án hạn chế quyền tự do cá nhân nên đề cập đến tác động này
ngay cả khi không có nỗ lực nào được đưa ra để định giá quyền tự do cá nhân.
5. Quy các Giá trị Cụ thể cho những Tác động này
Có thể quy mỗi tác động này ra một giá trị tiền tệ nhất định nếu có thể.
6. Xử lý các Tác động Không được Số lượng hóa
Cần phải kiệt kê rõ ràng bất kỳ tác động nào chưa được quy ra giá trị vật chất cụ
thể . Chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể cân nhắc giữa chúng với những chi
phí và lợi ích đã được định giá cụ thể.
Một cách tiếp cận với các lợi ích phi số lượng hóa là tính toán xem các lợi ích này
lớn đến mức độ nào thì đủ để đảo ngược các kết quả của CBA. Thông thường
người ta có thể đưa ra một đánh giá chung chung về việc những lợi ích này có khả
năng đảo ngược quyết định hay không. Bằng cách xem xét rõ ràng những tác động
như vậy theo cách này, chúng ta sẽ tránh được tình trạng lâm vào phân tích bị chi
phối bởi các dữ liệu cứng.
Ví dụ như, khi cân nhắc một dự án hạn chế quyền tự do cá nhân, có thể dùng các
lợi ích và chi phí khác để tính mức lợi ích ròng của dự án đó, bỏ qua bất kỳ một
cân nhắc về quyền tự do cá nhân nào. Sau đó, có thể dành cho độc giả quyền tự
quyết định xem những lợi ích ròng khác có đủ để bù đắp hạn chế về quyền tự do
cá nhân hay không, việc tiến hành dự án có phải là một quyết định đúng đắn hay
không.
7. Chiết khấu giá trị tương lai để có được giá trị hiện tại
Đối với phần lớn các dự án, cần phải tính chi phí và lợi ích được chiết khấu tại
những thời điểm khác nhau. Người ta thường thực hiện điều này bằng cách sử
dụng biện pháp chiết khấu lũy thừa (exponential discounting) để tính giá trị hiện
tại của chi phí lợi ích. Rất khó để có thể lựa chọn được một mức lãi suất chiết khấu
đúng. Tuy nhiên, nhiều tổ chức nghiên cứu đưa ra những mức lãi suất chuẩn dùng
cho các phân tích.
8. Xác định và lý giải độ bất chắc
Có lẽ khiếm khuyết hay gặp nhất trong phân tích CBA là thất bại trong việc xử lý
rủi ro và bất chắc. Bất chắc có thể tiềm ẩn trong nhiều khía cạnh của dự án. Phải
xác định được đầy đủ nguyên nhân gây ra các bất chắc này một cách đầy đủ nhất
có thể. Chẳng hạn như kinh phí dự toán cho một công trình xây dựng, điều kiện
thời tiết bất ổn khiến cho các hoạt động ngoài trời trở nên khó khăn hơn hay mức
tăng trưởng dân số dẫn đến mật độ sử dụng các thiết bị tiện dụng tăng lên.
Nên nỗ lực trong việc nhận thức được rủi ro hay bất chắc của dự án. Có thể dùng
cách đơn giản như đưa ra một phân tích độ nhạy cảm. Phân tích này sẽ tính toán
giá trị của dự án theo những kết quả dài hạn khác nhau. Cũng có thể dùng cách
phức tạp hơn như phân tích các lựa chọn thực. Phân tích này cố tìm cách tính được
giá trị chính xác của dự án có tính đến yếu tố rủi ro.
9. So sánh Lợi ích và Chi phí
Sau khi đã tính toán được (hay ít nhất là đã liệt kê ra được) các chi phí và lợi ích,
chúng ta phải so sánh chúng với nhau để xác định xem giá trị hiện tại (Net Present
Value ~ NPV) của dự án có thể mang giá trị dương không. Nếu đang xem xét lựa
chọn giữa nhiều dự án thì dự án có mức NPV cao nhất là dự án sẽ được chọn.
10. Tiến hành phân tích sau khi dự án kết thúc
Khi có thể, nên tiến hành phân tích sau khi hoàn thành dự án nhằm đưa ra định
hướng cho các giám đốc dự án, xác định giá trị của phân tích gốc nhằm cải thiện
các phân tích và các dự án được tiến hành sau này.
1.4 Quy đổi ra Giá trị bằng Tiền
CBA sử dụng các giá trị tiền mặt để so sánh các loại hàng hoá với nhau. Được gán
cho mỗi đầu vào và đầu ra của dự án, các giá trị này đại diện cho tầm quan trọng
của đầu vào và đầu ra trong phân tích. Nếu tổng giá trị của đầu ra lớn hơn tổng giá
trị của đầu vào thì dự án được coi là đáng được tiến hành vì lúc đó độ quan trọng
tổng thể của đầu ra đối với xã hội lớn hơn độ quan trọng tổng thể của đầu vào. Tuy
việc gán các giá trị thực cho các đầu vào, đầu ra rồi so sánh chúng với nhau là cần
thiết song đây cũng là một quá trình gây nhiều tranh cãi. Cần phải có một độ cẩn
trọng và tinh tế nhất định khi tiến hành quá trình này.
Nhiều loại đầu vào và đầu ra là các mặt hàng thường xuyên được buôn bán trên thị
trường với mức giá chung phổ biến và có thể đoán trước được. Giá trị của các đầu
vào như lao động, bê tông, thép, máy tính, xăng dầu hay các đầu ra như điện có
thể được xác định dựa trên mức giá thị trường, có điều chỉnh trong một số trường
hợp nhất định.
Các đầu vào và đầu ra khác không được trao đổi trực tiếp nên rất khó có thể được
định giá. Chẳng hạn như khoảng thời gian đi lại mà một dự án xây dựng đường
cao tốc tiết kiệm được, giá trị của dịch vụ thuỷ lợi do một dự án xây đập mang lại
hay tình hình sức khoẻ của cộng đồng được cải thiện thông qua việc xây dựng hệ
thống thoát nước và xử lý nước thải. Giá trị cho các loại hàng hoá này phải được
ước tính thông qua những tính toán gián tiếp, phức tạp và tương đối chủ quan.
Thường thì phương hướng hành động thích hợp nhất là tìm ra và sử dụng các mức
giá dự kiến đã được đưa ra trong các nghiên cứu trước đây.
Mục đích của cuốn sách này là nhằm tìm ra được các mức giá trị thị trường và phi
thị trường cho một loạt các mặt hàng khác nhau. Cuốn sách cũng đưa ra chỉ dẫn
phải xử lý thế nào với hàng loạt các loại giá trị tiềm tàng và phức tạp trong phân
tích của bạn.
1.5 Cơ cấu Thời gian của Chi phí và Lợi ích
Phần lớn các dự án được điều hành trong một khoảng thời gian nhất định. Khi tiến
hành phân tích CBA bạn nên xác định xem khi nào thì chi phí và lợi ích sẽ thay
đổi. Đâu là múi thời gian cuối cùng cho phân tích của bạn nếu không phải là của
toàn bộ dự án.
Ví dụ như một con đường cao tốc được mở trong vòng ba năm, đưa vào sử dụng
lâu dài và tiến hành những bảo dưỡng cần thiết năm năm một lần. Cứ sau một
khoảng thời gian nhất định thì chi phí xây dựng và bảo dưỡng mới xuất hiện trong
khi lợi ích mà con đường đem lại là liên tục. Có thể lợi ích này càng ngày càng
tăng khi dân số của một vùng tăng. Con đường có thể tồn tại vĩnh viễn. Song theo
chỉ dẫn hành chính thì khi đánh giá dự án có thể chỉ cần tính đến lợi ích dự án đem
lại trong vòng hai mươi năm đầu tiên.
Nhìn chung, có một thực tế vẫn được thừa nhận đó là các mức chi phí, lợi ích
trong tương lai có giá trị thấp hơn chi phí lợi ích hiện tại.[1] Chính vì vậy, việc
khấu trừ chi phí lợi ích tương lai bằng cách sử dụng một mức lãi suất nào đó và
cách khấu trừ theo số mũ là một thông lệ được chấp nhận. Tuy có nhiều cơ quan
quy định cụ thể mức hay các mức lãi suất được nhiều nhóm, nhiều cơ quan khác
nhau dùng hay đồng tình song quyết định khó nhất gặp phải trong quá trình này
vẫn là xác định mức lãi suất thích hợp.
1.6 Phân tích độ Nhạy cảm (Sensitivity analysis)
Bất kỳ một dự án nào đều gắn với hàng loạt các con số được đề xuất khác nhau.
Chúng là ước tính khối lượng vật liệu và lao động cần thiết, mức giá của các đầu
vào này, số người hưởng lợi cuối cùng, giá trị quy đổi của việc họ sử dụng sản
phẩm làm ra, mức lãi suất thích hợp dùng để khấu trừ chi phí và lợi ích của dự án.
Các con số này đều có nguy cơ bị dự đoán sai. Người ta cũng rất dễ lâm vào tình
trạng không thể nhất trí về một con số dự kiến nhất định. Câu trả lời có trách
nhiệm nhất cho việc có hàng loạt những giá trị ước tính hay gợi ý là đưa ra những
tính toán dựa trên nhiều kịch bản khác nhau rồi thảo luận những thay đổi trong
từng kịch bản tạo ra tác động gì trong phân tích độ nhạy cảm. Điều này có nghĩa là
nên chỉ rõ việc thay đổi các mức giá trị khác nhau có tác động như thế nào đến
đánh giá dự án. Ví dụ, nếu phí xây dựng thực tế cao hơn mức phí dự đoán là 10%
thì lợi ích ròng của dự án thay đổi như thế nào? Nếu dùng một mức lãi suất cao
hơn để khấu trừ các chi phí và lợi ích tương lai thì liệu dự án còn được mong đợi
nữa hay không? Nếu như giá trị cho các lợi ích của một dự án mang lại cho tình
hình sức khoẻ ở mức thấp chứ không phải ở mức cao trong miền lợi ích ước tính
thì giá trị của dự án thay đổi như thế nào?
Một cách tiếp cận thường gặp là tính toán khả năng tốt nhất, xấu nhất và các khả
năng trung bình. Phân tích này có nghĩa là thoạt đầu tính toán NPV của một dự án
bằng cách dùng các mức giá trị ước tính tối đa hoá giá trị của dự án, rồi dùng các
mức giá trị ước tính tối thiểu hoá giá trị của dự án và cuối cùng là dùng các mức
giá trị trung gian. Điều này sẽ cho các nhà hoạch định chính sách ý tưởng về tính
không chắc chắn của dự án cũng như tầm quan trọng của tính không chắc chắn
này có thể là bao nhiêu.
1.7 Các nguồn lực
Vấn đề thực tiễn lớn nhất trong việc tiến hành một phân tích CBA trên thực tế là
tìm được các mức giá trị thích hợp cho các đầu vào và các đầu ra của dự án. Các
nhà lên kế hoạch cho dự án nên có một vài ý tưởng nào đó về lượng đầu vào sẽ
được sử dụng và lượng đầu ra được tạo ra. Song làm thế nào để xác định được giá
trị của chúng?
Cuốn sách này sẽ cung cấp cho bạn nhiều thông số tham khảo về các nguồn lực
khác nhau được dùng làm đầu vào, đầu ra của dự án, các giá trị gắn liền với chúng,
mức lãi suất đề xuất trong khấu trừ, độ co dãn cung và độ co dãn cầu. Chúng tôi
cũng đưa ra những tham khảo về việc định giá các loại hàng hoá ít được trao đổi
trên thị trường và tập trung vào các kỹ thuật và các giá trị do các nhà nghiên cứu
khác đưa ra.
Tuy danh sách các nguồn lực được đưa ra không phải là một danh sách hoàn chỉnh
song ít nhất nó cũng đem lại cho độc giả một xuất phát điểm trong việc tìm ra các
mức giá trị cần thiết để phân tích một dự án hay đánh giá một cách phê phán một
nghiên cứu hiện tại.
1.8 Cơ cấu của Cuốn sách
Nội dung của cuốn sách được sắp xếp theo thứ tự cần có khi tiến hành một nghiên
cứu.
Chương hai bàn đến vấn đề vị thế, hay giá trị của ai sẽ được đưa vào phân tích.
Điều này sẽ tác động cách thức xử lý những chi phí khác nhau trong dự án. Song
quan trọng hơn, nó sẽ quyết định chi phí nào, lợi ích nào được đưa vào trong phân
tích.
Phần lớn các đầu vào và đầu ra được trao đổi trên các thị trường. Giá trị của chúng
có thể được xác định dựa trên các mức giá thị trường và phân tích cung cầu cơ
bản. Chương ba bàn đến lý thuyết về các thay đổi phúc lợi xã hội mà một dự án
mang lại. Chương bốn và năm mô tả các phương pháp xác định giá trị của đầu
vào, đầu ra được trao đổi trên thị trường với mức giá phổ biến.
Nhiều loại hàng hoá không được trao đổi trực tiếp trên thị trường. Hai chương tiếp
theo bàn đến các cách tiếp cận với việc định giá những loại hàng hoá kiểu đó.
Chương sáu mô tả các kỹ thuật trong đó có các giá trị bóng (shadow values).
Chương bảy bàn đến phương pháp định giá phát sinh (contingent valuation
method).
Một khi đã xác định được giá trị của đầu vào, đầu ra, chúng ta còn cần phải thực
hiện thêm một số bước trong việc chuẩn bị một phân tích. Chương tám đưa ra cơ
chế khấu trừ, chỉ dẫn trong việc lựa chọn mức lãi suất phù hợp trong việc khấu trừ
chi phí lợi ích tương lai. Chương chín bàn đến phân tích độ nhạy cảm và phân tích
rủi ro. Phân tích này đặc biệt quan trọng đối với các trường hợp các chi phí lợi ích
là bất ổn.
Cuối cùng, chương mười đưa ra những tài liệu tham khảo bổ ích cho các độc giả
trong việc chuẩn bị và đánh giá các phân tích trong đó có nêu nguồn gốc của các
mức giá, lãi suất, độ co dãn ước tính và số lượng thị trường.
Một số nghiên cứu điển hình sẽ khép lại cuốn sách. Các nghiên cứu này mô tả việc
ứng dụng các kỹ thuật này vào các vấn đề thực tế.
Tham khảo
Portney and Weyant (1999).
CHƯƠNG 2: Vị Thế Trong Phân Tích
Chi-Phí -- Lợi Ích
Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe
Bước đầu tiên trong phân tích chi phí lợi ích là xác định xem ai là đối tượng có vị
thế trong phân tích. Có nghĩa là ai là người có quyền hưởng lợi cũng như ai là
người có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm chi trả cho các chi phí. Vấn đề vị thế
quyết định góc nhìn của phân tích. Nó có thể có tác động lớn đến các tính toán lợi
ích chi phí.
Trong lý thuyết kinh tế, ai cũng đều có vị thế: nên đưa phúc lợi xã hôị của tất cả
những ai là đối tượng điều chỉnh của một chính sách vào phân tích bất kể họ sống
ở đâu, họ giàu hay nghèo, đã được sinh ra hay sẽ sinh ra ở đâu. Sở dĩ như vậy là
bởi lý thuyết kinh tế không được gắn kết tốt với những tính toán thể chế, nhất là
các tính toán luật pháp. Các vấn đề về vị thế thường xuất hiện trước hết là trong
quá trình đo lường các ý kiến, thứ hai là trong các ước tính thực tế.
Các vấn đề vị thế thực tế nhất thiết phải là các vấn đề chính trị. Chúng cũng là
những vấn đề liên quan đến tư pháp. Phần lớn các phân tích chi phí lợi ích thường
được tiến hành trên vị thế quốc gia. Kết quả là chúng không tính đến vị thế của
người nước ngoài. Song nhìn từ góc độ mang tính địa phương nhiều hơn cũng xuất
hiện một vấn đề tương tự. Hãy tưởng tượng một tình huống thực tế trong đó một
cơ quan hay chính quyền thành phố triển khai một dự án. Nếu một CBA được tiến
hành trên vị thế của cơ quan đó, có thể là chỉ có các thành viên của cơ quan đó
hoặc lợi ích của cơ quan đó có vị thế trong phân tích. Lúc đó, chỉ có chi phí và
doanh thu của cơ quan đó là cần phải tính đến. Nếu thay vào đó, CBA được tiến
hành ở góc độ toàn thành phố thì các cư dân của thành phố đó cũng như chính
quyền thành phố đó có vị thế. Một cách lý tưởng, nên có một vị thế mang tính toàn
cầu hay phổ thông. Có như vậy, lợi ích của người dân trong thành phố đó, các
thành phố lân cận hay ở một nơi nào đó mới được tính đến. Song điều này thường
là không thực tế hay không nhất quán với lợi ích của người tiến hành phân tích.
Xuất phát điểm tiến hành phân tích CBA (hay ai có vị thế) nên được nêu một cách
rõ ràng và áp dụng một cách nhất quán trong suốt quá trình nghiên cứu. Giả dụ
như hãy tưởng tượng rằng một thị trấn đang xem xét việc xây dựng một bệnh viện.
Quyết định xây bệnh viện mới này sẽ dẫn đến tình trạng một bệnh viện khác ở
vùng lân cận phải ngừng hoạt động. Nếu các cư dân của vùng lân cận đó được coi
là có vị thế thì nên đưa lợi ích mà họ có được từ bệnh viện mới vào chi phí của
việc mất đi một bệnh viện cũ hơn và gần hơn. Một nhà phân tích bất hảo có thể sẽ
tìm cách chỉ đưa vào một trong các chi phí chứ không phải là tất cả.
Chương này sẽ đề cập đến vấn đề vị thế trước hết là theo nghĩa truyền thống. Tức
là xem xét tác động của việc mở rộng hay thu hẹp diện đối tượng có lợi ích trong
việc thực hiện dự án. Tiếp đó, chúng ta sẽ xét đến các vấn đề phân phối trong
CBA như một dạng câu hỏi đặc biệt về vị thế. Cuối cùng, chúng ta sẽ mở rộng
diện nghiên cứu để tính đến tác động của dự án đối với con cháu chúng ta. Chúng
ta cũng xem xét vấn đề ban vị thế cho những đứa trẻ tuy chưa được sinh ra song đã
được hưởng lợi ích mà dự án đem lại cũng như gánh chịu hậu quả nó gây ra.
2.1 Vị thế và Chuyển nhượng Vị thế
Một trong những ẩn ý quan trọng của vị thế là xử lý như thế nào với sự chuyển
nhượng giữa các cá nhân và tổ chức. Không nên tính chuyển nhượng tiền mặt,
hàng hoá hay dịch vụ từ người có vị thế này sang người có vị thế khác là chi phí
hay lợi ích trong phân tích. Chuyển nhượng giữa người không có vị thế với người
có vị thế phải được tính là lợi ích trong khi chuyển nhượng từ người có vị thế sang
người không có vị thế sẽ được tính là chi phí.
Ví dụ: Vị thế và Xử lý Nước trên dòng Đa-nuýp
Sông Đa-Nuýp bắt nguồn từ Đức và chảy qua các nước Áo, Slôvakia, Hungari,
Croatia, Séc-bi, Bungari và Rumani trước khi đổ ra biển Đen. Nếu chính phủ Áo
tính đến việc xây một nhà máy xử lý nước nhằm cải thiện chất lượng nước của
sông Đa-Nuýp, họ có vẻ như chỉ cấp vị thế sử dụng cho người Áo và bỏ qua lợi
ích mà người dân các nước khác sinh sống dọc theo con sông được hưởng từ dự
án. Điều này khiến cho ích lợi thu được từ việc cải thiện chất lượng nước giảm đi.
Nó có thể đặt dấu chấm hết cho một dự án mà đáng lẽ ra đáng để triển khai nếu vị
thế sử dụng mang tính toàn cầu.
Hãy tưởng tượng rằng chính phủ Hungari muốn nhà máy được xây dựng và đóng
góp 100 triệu đôla cho chính phủ Áo để hỗ trợ chi phí xây dựng. Nhìn từ góc độ
toàn cầu, khoản chi trả này là một sự chuyển nhượng. Nó không phải là chi phí
hay lợi ích của dự án. Tuy nhiên, với một nghiên cứu CBA mà trong đó chỉ có
chính phủ Áo là có vị thế sử dụng thì khoản tiền này sẽ được tính như là lợi ích mà
dự án đem lại. Nếu nghiên cứu CBA được tiến hành dưới góc nhìn của người
Hung thì khoản tiền đó được tính như là chi phí của dự án.
Vấn đề vị thế sử dụng thường được áp dụng không đúng trong phân tích các dự án
phát triển kinh tế nhằm trợ giúp những vùng nghèo đói. Tiền cho các dự án này có
thể được lấy từ các khoản thu thuế ở nơi khác và có lẽ được dùng để thuê nhân
công của vùng đó. Nếu tiền thuế được trả cho các cư dân địa phương dưới dạng
tiền lương, tiền lương đó có thể được tính như lợi ích mà dự án đem lại. Đây là
một cách tính toán sai lầm.Chừng nào những người đóng thuế còn có vị thế sử
dụng thì chừng đó các khoản chi trả lương này còn là những khoản chuyển
nhượng chứ không phải là chi phí hay lợi ích của dự án.[1] Những chuyển nhượng
này có thể được mong đợi vì những lý do khác. Tuy nhiên, cần phải nêu rõ những
lý do này trong phân tích CBA.
Ví dụ: Xác định giá trị lao động cho việc khôi phục cây cối bị chặt phá ở hai
bên đường
Một dự án được đề xuất xây dựng với mục tiêu phủ xanh lại các con đường bị đốn
chặt cây hai bên nhằm ngăn chặn tình trạng xói mòn đất và cải thiện chất lượng
nước suối ở khu vực xung quanh. Do việc đốn gỗ gần đây trong vùng có giảm nên
vùng dự án có tỷ lệ thất nghiệp cao. Một phụ nữ đại diện cho người dân trong
vùng cho biết tiền công trả cho người dân địa phương làm việc cho dự án là lợi ích
mà dự án đem lại và nên được tính là lợi ích. Liệu ý kiến của chị có đúng không?
Câu trả lời phụ thuộc vào việc phân tích CBA của dự án được tiến hành dưới góc
độ nào và nguồn vốn cho dự án là nguồn nào. Nếu phân tích được tiến hành dưới
góc độ người dân địa phương, nguồn vốn có thể là nguồn của chính phủ hay nguồn
thu thuế của chính quyền liên bang thì các mức lương chi trả là lợi ích. Nếu phân
tích được tiến hành dưới góc độ của chính phủ và nguồn vốn được lấy từ doanh
thu thuế thì các khoản lương chi trả đơn giản là một khoản chuyển nhượng. Chúng
không được tính là lợi ích. Nếu phân tích được tiến hành dưới góc độ chính phủ và
giả định rằng chính quyền liên bang sẽ cấp vốn cho dự án thì các mức lương chi
trả là một khoản chuyển nhượng từ những người nộp thuế (những người không có
vị thế sử dụng) sang các công dân của bang và nên được tính là một khoản lợi thu
được từ dự án.
Một vấn đề tách biệt ở đây là giá trị của lao động được dùng trong công việc. Nếu
không có dự án, những người làm thuê cho dự án sẽ bị thất nghiệp và người ta có
xu hướng sẽ gán một giá trị bằng không cho lao động đó. Điều này bỏ qua giá trị
của dịch vụ nội trợ họ đã có thể cung cấp cộng với giá trị của thời gian nghỉ ngơi
họ có được dù cho giá trị nghỉ ngơi có thể bằng không ở những vùng có tỷ lệ thất
nghiệp cao.
Ví dụ: Các lựa chọn phát triển giao thông công cộng
Một thành phố đang xem xét hai khả năng cho việc mở rộng hệ thống vận tải công
cộng. Khả năng thứ nhất là mở rộng dịch vụ xe buýt, khả năng thứ hai là lắp đặt
một hệ thống đường ray nhẹ. Vì nhiều lý do khác nhau, hai khả năng này mang
tính loại trừ lẫn nhau; chỉ có thể thực hiện được một trong hai dự án. Các phân tích
CBA đáng tin cậy đã được tiến hành cho cả hai dự án. Qua đó người ta nhận thấy
rằng việc mở rộng hệ thống dịch vụ xe buýt sẽ tạo ra một lợi ích ròng là 40 tỷ đôla
trong khi việc lắp đặt và vận hành một đường ray nhẹ sẽ tạo ra một khoản lời ròng
là 35 tỷ đôla. Vì chính phủ liên bang cũng đang triển khai một chương trình đường
sắt hạng nhẹ nên thành phố có thể xin chính phủ tài trợ cho 10 tỷ đôla cho việc xây
dựng đường ray. Nếu thành phố mở rộng dịch vụ xe buýt, thành phố sẽ không có
được khoản tài trợ này. Vậy nên chọn dự án nào để triển khai?
Vị thế sử dụng đóng vai trò quan trọng ở đây. Nếu phân tích từ góc độ một dự án
toàn quốc, thì khoản tài trợ $10 đôla của chính phủ sẽ chỉ đơn giản là một khoản
chuyển nhượng. Nó không có tác động gì lớn đến lợi nhuận ròng của dự án. Tuy
nhiên, nếu phân tích từ góc độ một dự án của thành phố thì khoản tiền này lại là
lợi ích của việc lựa chọn dự án xây đường sắt hạng nhẹ. Lúc đó, tổng lợi ích ròng
của dự án tăng lên $45tỷ đôla. Điều này khiến cho dự án xây đường sắt hạng nhẹ
được mong đợi hơn so với dự án tăng cường dịch vụ xe buýt dù cho xét từ góc độ
quốc gia thì dự án này có ưu thế hơn.
2.2 Gộp Lợi ích và Chi phí
Xuất phát điểm quyết định sẽ đưa chi phí nào vào trong phân tích. Ở mức độ đơn
giản nhất, phân tích sẽ bao gồm những thiệt hại mà những người có vị thế sử dụng
trong dự án phải gánh chịu hay những lợi ích mà họ được hưởng. Tuy nhiên, việc
phân biệt đâu là lợi ích và chi phí trở nên khó khăn hơn tuỳ thuộc vào xuất phát
điểm chính xác của nghiên cứu.
Hãy hình dung rằng một phòng quản lý công viên và giải trí thành phố đang cân
nhắc xem có nên xây dựng và vận hành một sân gôn hay không. Người ta có thể
biết tương đối rõ ràng các mức chi phí song không dễ gì quyết định được đâu là lợi
ích được đưa vào trong chi phí. Một phân tích được tiến hành với xuất phát điểm
chung chung sẽ cố gắng tính toán những giá trị mà người chơi gôn sẽ được nhận
nếu có thêm một sân gôn nữa trong khu vực. Lợi ích này có lẽ là giảm bớt tình
trạng quá tải ở các sân gôn, nhiều lựa chọn hơn và độ thuận tiện cao hơn cho
người chơi. Một phân tích từ góc độ thành phố sẽ cố gắng tính lợi ích mà dự án
sân gôn mang lại bằng cách cộng độ thụ hưởng gia tăng mà những người chơi gôn
trong thành phố có được với doanh thu mà những người chơi gôn đến từ nơi khác
thu được. Một phân tích bó hẹp trong phạm vi một phòng chuyên về giải trí sẽ chỉ
tính đến doanh thu mà sân gôn sẽ tạo ra mà bỏ qua giá trị của bất kỳ lợi ích nào
phí thuê sân mà người chơi gôn phải trả. Mỗi một cách tiếp cận sẽ mang lại một
kết quả khác nhau. Nhưng cách tiếp cận nào cũng có thể đúng với điều kiện vị thế
sử dụng tính đến phải đúng.
Ví dụ: Vị thế sử dụng và lợi ích của việc đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp
Trong một phân tích về chi phí lợi ích của việc đội mũ bảo hiểm, Ginsberg và
Silverberg (1994) ước tính giá trị thiệt hại về người (bị thương và tử vong) do việc
không đội mũ bảo hiểm gây ra. Tuy nhiên, họ chỉ đưa phí chữa trị (cho thương tật)
và sản lượng kinh tế bị mất vào trong phân tích của mình. Không có cái giá nào
được gắn cho việc một người phải từ giã cuộc đời của mình. Kết quả là giá trị của
việc đội mũ bảo hiểm với những người còn sống thường là thấp.
Xuất phát điểm của phân tích chính là lời lý giải cho việc gán một giá trị thấp cho
một mạng người được cứu sống. Phân tích được tiến hành dưới góc độ xã hội.
Điều này có nghĩa là người ta không tính đến bất kỳ giá trị nào mà một cá nhân có
thể gán cho tình trạng một người không bị thương và còn sống sót. Chỉ có các dịch
vụ kinh tế được người bị thương cung cấp cho những người khác là được tính đến
(tính dựa trên GDP trên đầu người) là được tính đến cũng như chi phí mà xã hội
phải gánh khi họ bị thương.
Nếu mở rộng xuất phát điểm sang giá trị mà một người gán cho cuộc đời và sức
khoẻ của mình, lợi ích mà nghiên cứu mang lại sẽ lớn hơn. Tuy nhiên, dường như
các nhà nghiên cứu đang khuyến nghị rằng việc bắt buộc sử dụng mũ bảo hiểm
được biện minh từ góc độ xã hội chứ không phải là từ góc nhìn của chế độ gia
trưởng/chỉ huy.
Liệu phân tích chi phí lợi ích có tính giá trị của sự ghen tị hay ác ý ở mức ngang
với những giá trị khác không? Liệu độ thoả dụng của một kẻ phạm tội cưỡng hiếp
hay dâm tà có được tính đến cùng với sự chịu đựng của nạn nhân hay không? Hay
liệu có nên tính giá trị của hàng hoá đánh cắp được đối với một tên trộm khi mà
hàng hoá đó sẽ được trả lại cho người bị mất? Nhà phân tích không thể và không
nên tự tiện đưa các giá trị của mình vào trong phân tích được. Tuy nhiên, một phân
tích quy chuẩn dường như không thể tính đến độ thoả dụng của những hành vi bất
hảo vì về mặt đạo đức mà nói việc đó là không thể biện hộ được. Và thật ra chi phí
lợi ích bị chỉ trích là không phân biệt được độ thoả dụng tốt với độ thoả dụng xấu.
Vì thế nó thất bại trong việc lột tả sắc thái đạo đức của đối tượng được phân tích.
Liệu có thể dung hoà hai quan điểm này không?
Xuất phát điểm cho chúng ta một phương tiện. Nếu chúng ta tính tất cả các giá trị
thì chúng không chỉ tính đến độ thoả dụng xấu mà còn tính cả độ phản thoả dụng.
Đó không chỉ là những gì mà nạn nhân của lòng hận thù, sự hiểm ác, ghen tị hay tà
dâm phải gánh chịu mà còn là giá trị của sự ghê tởm mà xã hội nói chung dành
cho hành vi xấu xa đó. Việc phân biệt giữa hành động tốt và xấu không chỉ do
người phân tích quyết định mà còn tuỳ thuộc vào phép tắc, thông tục của xã hội.
Có thể lấy những phép tắc này đại diện cho kết quả của một cuộc điều tra mà trong
đó độ thoả dụng xấu cũng như độ thoả dụng tốt có tầm quan trọng như nhau. Một
khi hành vi giết người hay trộm cắp đã là phi pháp thì độ thoả dụng có được từ
việc trộm cắp hay giết người nhìn chung mang giá trị âm. Có thể lấy giá trị này để
phủ định giá trị đồ mà tên trộm ăn cắp được cũng như độ thoả dụng mà kẻ giết
người có được từ việc giết người.
Ví dụ: Trộm cướp
Một công ty cung cấp độ thoả dụng yêu cầu khách hàng của mình phải ứng tiền
trước một tháng cho các dịch vụ được cung cấp. Trong nhiều trường hợp khi
khách hàng thôi không sử dụng dịch vụ của công ty nữa thì công ty sẽ nợ khách
hàng một khoản. Công ty sẽ trả lại khoản nợ này nếu khách hàng yêu cầu. Song
nếu khách hàng không yêu cầu, công ty sẽ không trả lại. Theo cách này, công ty đã
tích luỹ được vài triệu đô la tiền lời. Hành động này của công ty bị chính phủ phát
hiện và đưa ra toà xét xử. Công ty đồng ý chấm dứt hành vi đó. Vấn đề hiện tại là
liệu có yêu cầu công ty hoàn trả phí khống mà nó đã thu từ khách hàng hay không.
Một nhà kinh tế được công ty thuê lập luận rằng việc trả lại tiền không có ý nghĩa
gì trong phân tích chi phí lợi ích. Công ty sẽ phải mất 03 triệu đô la cho việc hoàn
trả lại này cộng thêm chi phí của việc hoàn trả. Chi phí chiếm khoảng 10% tổng
lợi nhuận hay 300,000 đô la. Vậy là phân tích chi phí lợi ích cho thấy công ty
không nên hoàn trả lại số tiền này vì nó sẽ mất 300,000 đô la. Khoản tiền 3 triệu
đô chỉ là một khoản chuyển nhượng. Một nhà kinh tế làm việc cho chính phủ sau
khi đọc xong cuốn sách lại lập luận rằng một khi đã đi ăn cắp thì công ty đó không
có vị thế gì để tính đến lợi ích của mình. Kết quả của phân tích chi phí lợi ích lúc
đó chỉ là khoản lời 3 triệu đô mà khách hàng thu được trừ đi chi phí nguồn của
việc chuyển nhượng, tức là 300,000 đô. Lúc đó, lợi ích ròng của phân tích CBA là
2.7 triệu đô.
2.3 Các Phân tích Tác động Kinh tế
Một dạng khác của phân tích CBA là phân tích tác động kinh tế. Phân tích này cố
gắng dự tính tất cả các tác động kinh tế của một dự án chính hay điều kiện thuận
lợi mà dự án tạo ra cho một khu vực hoặc một vùng. Tác động kinh tế thường
được định nghĩa là tổng doanh thu của các tiện ích, chi phí để có được các tiện ích,
doanh thu thuế có được và doanh thu bổ sung mà những doanh nghiệp ăn theo
được hưởng. Người ta thường dùng những nghiên cứu này để biện minh rằng cần
phải triển khai các dự án vì sự phát triển kinh tế vùng ngay cả khi dự án không
đem lại lợi ích ròng dương theo bất kỳ một cách hiểu truyền thống nào.
Ví dụ như một địa điểm biểu diễn hoà nhạc mới ở một khu vực trong thành phố sẽ
có khả năng thu hút một lượng lớn người đến xem hàng chục lần mỗi năm. Việc
này tạo ra việc làm và doanh thu cho cả địa điểm đó cũng như các hàng quán xung
quanh. Những khoản doanh thu này bị đánh thuế và chính quyền địa phương có
thêm thu nhập. Tác động kinh tế của việc xây nhà hát có thể bao gồm doanh thu
bừ bán vé, lương trả cho nhân viên nhà hát, khoản doanh thu gia tăng của các quán
bar, nhà hàng cùng những loại hình kinh doanh khác trong vùng. Ngoài ra, còn có
khoản thuế thu được từ những giao dịch này. Tất cả những khoản tiền này có thể
được đưa vào trong phân tích như là lợi ích mà dự án xây dựng nhà hát đem lại.
Loại phân tích này bỏ qua những chi phí của việc tổ chức những buổi hoà nhạc,
chi phí cơ hội của người lao động cho việc đi làm tại nhà hát. Lợi ích thực mà chủ
doanh nghiệp địa phương nhận được sẽ không phải là khoản doanh thu gia tăng
mà là khoản lợi nhuận gia tăng. Tuy nhiên, sự khác biệt quan trọng giữa phân tích
tác động và CBA là xuất phát điểm. Phân tích tác động kinh tế giới hạn vị thế sử
dụng với những doanh nghiệp nằm trong một khu vực nhất định tương đối hẹp.
Một phân tích CBA chính xác nên thừa nhận rằng sự có mặt của nhà hát đã thay
thế cho những chi tiêu cho các hoạt động giải trí khác. Thêm vào đó, chuyện xuất
hiện nhà hát khiến cho nhiều khách hàng đến với hàng quán trong vùng đó hơn có
thể đồng nghĩa với việc hàng quán ở một nơi khác nào đó có ít khách hàng hơn.
Nói một cách khác, các doanh nghiệp tại địa điểm có nhà hát chỉ đơn giản lấy đi
công việc làm ăn của các doanh nghiệp ở các vùng lân cận. Việc mở rộng phân
tích sao cho tất cả các doanh nghiệp trong thành phố hay khu vực đều có vị thế sử
dụng hầu như không thể tạo ra tác động ròng nào của một tiện ích mới cho dù tác
động kinh tế vùng có thể là rất lớn.
2.4 Vị thế Tương đối và Vấn đề Phân phối
Bởi vậy, chúng ta đã chỉ xem xét việc đưa vào hay loại bỏ vị thế sử dụng trong quá
trình thảo luận của chúng ta. Những người có vị thế trong một phân tích đều có
tầm quan trọng tương đương nhau. Tình huống này nhất quán với các điều kiện
Pareto hay Kaldor-Hicks tiềm năng (potential Pareto or Kaldor-Hicks ~KH). Các
điều kiện này chỉ rõ rằng một dự án là đáng mong đợi nếu như những người được
lợi từ dự án có khả năng dùng khoản lợi mà họ thu được để bồi thường cho những
người chịu thiệt hại. Diễn đạt một cách hơi khác đi một chút, điều kiện này có
nghĩa là một dự án là đáng để triển khai khi lợi ích lớn hơn chi phí cho dù có phân
phối lợi ích và chi phí như thế nào đi chăng nữa.
Đã có nhiều nỗ lực được thực hiện để đưa các cân nhắc phân phối vào trong phân
tích lợi ích chi phí. Tuy nhiên, chưa đi đến một cách tiếp cận chung nào. Cách tiếp
cận lý tưởng nhất là trong một nghiên cứu, những đối tượng khác nhau sẽ được
giao những vị thế ở mức độ khác nhau. Thế nên, khi áp đặt lên người này chứ
không phải người khác, các mức chi phí lợi ích có thể là khác nhau. Tầm quan
trọng khác nhau tương ứng với mỗi người được gọi là sức nặng phân phối
(distributional weigths).
Một trong những lý do thông thường nhất lý giải việc gắn cho mỗi người một vị
thế tương ứng khác nhau là phân phối thu nhập. Điều này có nghĩa là lợi ích của
một chương trình có thể có ý nghĩa nhiều hơn đối với người nghèo hưởng lợi hơn
là người giàu được hưởng lợi. Một chương trình có lợi ích ròng âm có thể là đáng
mong đợi nếu như các chi phí bị áp đặt lên người giàu còn lợi ích được tích tụ cho
người nghèo. Một chương trình với lợi ích dương có thể không mấy được mong
đợi nếu người nghèo phải gánh chịu phần lớn các chi phí trong khi lợi ích thì
người giàu lại được hưởng.
Đơn cử một ví dụ. Xét các chương trình chỉ có tác động đến quá trình tái phân
phối thu nhập. Bất kỳ một loại chương trình nào cho việc tái phân phối thu nhập
đều bao gồm các chi phí. Kết quả là tiền đầu tư cho chương trình lấy từ toàn bộ
cộng đồng dân cư nói chung sẽ lớn hơn những gì cuối cùng được phân phối cho
những người hưởng lợi từ chương trình. Các chi phí gần như sẽ chắc chắn là lớn
hơn các lợi ích. Tuy nhiên, nếu những người góp vốn cho chương trình có thu
nhập tương đối cao và người hưởng lợi có thu nhập thấp thì chương trình có thể
vẫn đáng được triển khai. Để loại chương trình kiểu này đáng được triển khai hơn
thì chúng ta có thể gắn những sức nặng phân phối (distributional weight) cho
người nghèo hưởng lợi lớn hơn sức nặng phân phối cho người giàu hưởng lợi.
Có một số cách tiếp cận thực tế điều chỉnh các điều kiện KH bằng cách đưa vào
phân tích CBA vấn đề phân phối. Cách tiếp cận đầu tiên, theo ý tưởng của
McKean (1958), đưa ra danh sách chi phí lợi ích của các nhóm hưởng lợi có khả
năng phải gánh chịu hay thụ hưởng nhiều nhất. Trong trường hợp này, nhà phân
tích không cần phải quyết định xem sức nặng phân phối cho mỗi người khác nhau
ở mức độ nào mà để độc giả tự quyết định. Ví dụ như nếu các loại thuế xăng dầu
liên bang tăng nhằm giảm lượng xăng dầu tiêu thụ và cải thiện chất lượng không
khí thì gánh nặng của việc tăng thuế sẽ rơi vào các cư dân nông thôn, những người
phải đi các quãng đường khá xa trong khi lợi ích lại rơi vào tay những cư dân
thành thị, những người nhìn chung phải nếm trải chất lượng ngày càng tồi đi của
bầu không khí. Một nhà phân tích chuẩn bị một báo cáo về triển vọng tăng thuế
xăng dầu có thể đơn giản chỉ ra điều này mà không cần phải gắn sức nặng tương
ứng cho cư dân nông thôn hay cư dân thành thị. Việc làm thế nào để xác định sức
nặng của mỗi nhóm trong việc đánh giá dự án có thể được dành cho độc giả của
báo cáo.
Một kỹ thuật thứ hai có thể được dùng là gắn những sức nặng rõ ràng cho các
nhóm khác nhau chịu tác động của dự án. Có thể tính toán được cái được và cái
mất của mỗi nhóm. Sau khi nhân với sức nặng phân phối của mỗi nhóm, chúng sẽ
được cộng lại với nhau để có được lợi ích ròng gia quyền (weighted net benefit).
Xét ví dụ về một dự án sẽ buộc cư dân vùng lân cận A phải gánh chịu chi phí ròng
trong khi đem lại lợi ích ròng cho cư dân vùng lân cận B. Ví dụ này được thể hiện
tại bảng 2-1. Vì cư dân của vùng A giàu có hơn cư dân vùng B nên có sức nặng
phân phối ít hơn.[2]
Bảng 2-1
Vùng lân
cận
Lợi ích
ròng
Sức nặng
Phân phối 1
Lợi ích ròng
Gia quyền
Sức nặng
Phân phối 2
Lợi ích ròng
Gia quyền
A -100 1 -100 1 -100
B +80 1.2 +96 1.4 +112
-20 -4 +12
Dưới điều kiện Kaldor-Hicks, dự án là không được mong muốn vì lợi ích ròng của
dự án mang giá trị âm. Tăng sức nặng tương đối gắn cho mỗi cư dân của vùng lân
cận B lên 20%, lợi ích ròng của dự án vẫn mang giá trị âm. Song nếu tăng lên 40%
thì lợi ích ròng của dự án sẽ mang giá trị dương. Khó khăn đầu tiên gặp phải trong
quá trình đánh giá sức nặng phân phối hiện (explicit distributional weigths) là
quyết định xem chi phí và lợi ích sẽ được phân bổ như thế nào giữa các bộ phận
dân cư khác nhau. Sau đó chọn lọc ra một sức nặng phân phối được thoả thuận.
Ví dụ: Sức nặng Phân phối tại OMB
Chúng ta có thể có được một ví dụ tuyệt vời của việc vận dụng sức nặng phân phối
và khó khăn chúng tạo ra trong cuốn sổ tay hướng dẫn của Văn phòng Quản lý và
Ngân sách (OMB) liên quan đến giá trị tương đối của người già và thanh niên. Họ
là những người có thể được cứu sống nhờ chất lượng không khí được cải thiện.[3]
Cuộc sống của một số người già được định giá thấp hơn cuộc sống của các thanh
niên. Điều này thực ra là kết quả của một phân tích cơ bản về số năm tuồi thọ
được cứu sống. Song kết quả thu được giống như khi gán cho các sức nặng phân
phối khác nhau. Một lợi ích (một người được cứu sống) đem lại cho một thành
viên của một nhóm có giá trị tương đối khác biệt so với cùng một lợi ích đó nhưng
đối với thành viên của một nhóm khác.
Có hai tác động quan trọng cần lưu ý đến. Tác động đầu tiên là nếu hai chương
trình cứu thoát được số người bằng nhau với cùng một chi phí thì chương trình đã
cứu thoát một lượng thanh niên nhiều hơn sẽ được ưa thích hơn. Tác động thứ hai,
và có lẽ là tác động quan trọng hơn là việc gán sức nặng phân phối rõ ràng cho
mỗi người có thể là một vấn đề gây rất nhiều tranh cãi.
Một kỹ thuật thứ ba loại trừ ít nhất một vài khó khăn của việc gán sức nặng phân
phối cho mỗi một đối tượng. Nếu chi phí lợi ích có thể chia sẻ được giữa hai
nhóm, nếu có thể tính toán được lợi ích ròng của mỗi nhóm thì có thể tính được
sức nặng nột tại (internal weigth) của dự án.[4] Sức nặng nội tại là sức nặng phân
phối gán cho một nhóm phải chịu nhiều thiệt thòi hơn để khiến cho lợi ích ròng
gia quyền của dự án bằng 0. Bạn đọc sau đó có thể tự do quyết định xem việc gán
sức nặng là hợp lý hay phi lý. Trong ví dụ trên, sức nặng nội tại được tính như sau:
Nếu như người đọc cho rằng đó là một phân bổ sức nặng tương đối hợp lý thì dự
án là đáng được mong đợi. Nếu bạn đọc cảm thấy rằng cách tính này gán quá
nhiều sức nặng cho cư dân vùng lân cận B thì theo ý kiến của người đọc nên phản
đối việc triển khai dự án.
Không có một cách tiếp cận nào trong những cách tiếp cận này là thoả đáng hoàn
toàn vì người ta vẫn chưa nhất trí được với nhau xem thế nào là sức nặng. Thật ra,
vẫn có thể triển khai một dự án mà lợi ích ròng tính được mang giá trị âm bằng
cách bổ sung thêm chuyển giao thu nhập từ người giàu sang người nghèo. Cho đến
lúc nào sức nặng phân phối lớn hơn được chuyển giao cho người nghèo và biến nó
thành một dự án tốt. Cách tiếp cận này có thể bị phản đối bằng lập luận cho rằng
thực ra tiến hành dự án có thể là một phương thức chuyển tiền không hiệu quả. Để
lý giải cho điều này, Harberger đã đưa ra giả thuyết rằng không được đưa ra sức
nặng phân phối nào lớn hơn sức nặng xác định bởi phương pháp chuyển tiền trực
tiếp ít tốn kém nhất. Đây là cách tiếp cận tốt hơn.
Dựa vào cách tiếp cận của Harberger có thể vận dụng một cách tiếp cận khác.
Trong cách tiếp cận này tình cảm đối với người khác cũng được đo lường bằng
các mức giá trị giống như các loại hàng hoá khác. Một phương pháp chung duy
nhất của việc gắn các sức nặng là xác định giá trị của một số người theo độ sẵn
sàng chi trả cho người khác để có được phúc lợi xã hội cho mình. Cách tiếp cận
này là nhất quán với việc chuẩn bị cho phân tích chi phí cơ hội ban đầu. Thế nên,
tình cảm đạo đức đối với người khác cũng có vị thế. Cách tiếp cận này được gọi là
phép đo tổng thể (aggregate measure) hay AM. Một cách tiếp cận như vậy cũng
góp phần giải quyết một số vấn đề lợi ích chi phí.
2.5 Vị thế, sức nặng phân phối và các thế hệ con cháu
Có một vấn đề liên quan đến vị thế đầy thách thức. Đó là vấn đề chi phí lợi ích cho
thế hệ sau này mà một dự án có tác động lâu dài mang lại. Biện pháp khấu trừ liên
thời gian chuẩn mà ta đã bàn tới đâu đó trong bài khoá này có xu hướng khấu trừ
phần lớn chi phí lợi ích mãi sau này mới phát sinh.[5] Kết quả của việc khấu trừ
kiểu này là nhất thiết phải từ chối vị thế cho các thế hệ tiếp nối chỉ vì họ không có
diễm phúc được ra đời sớm hơn. Đối với các chương trình mà các thế hệ sau này
phải gánh chịu phí thì ngay cả khi các chương trình này có phần dành cho chuyển
nhượng bù đắp thì rất ít các thể chế tài chính (thậm chí là các thể chế chính quyền)
có được sự hiện hữu đáng tin cậy kéo dài hàng thế kỷ. Thế nên, chi phí chuyển
tiền trực tiếp mà các thế hệ sau này chịu tác động tiêu cực của chương trình sẽ là
cao ở mức không thể chấp nhận được.
Ví dụ: Chất thải Hạt nhân
Một dự án hạt nhân đang tính đến chuyện tạo ra được một khoản lời trị giá $65 tỷ
đô với chi phí vào khoảng $35 tỷ đô. Song ngoài ra, dự án cũng sản xuất ra một
quả bom độc hại hẹn giờ sẽ gây ra chi phí môi trường khổng lồ vào một thời điểm
nào đó trong tương lai.[6] (Tôi bỏ qua các vấn đề tính không chắc chắn của tỷ lệ
khấu trừ trong ví dụ này). Giả định rằng công nghệ phân huỷ chất thải hiện tại có
khả năng chứa chất thải này trong vòng 500 năm. Sau khoảng thời gian này, chất
thải hạt nhân thoát ra ngoài bình chứa song tính độc hại của nó còn tồn tại trong
vòng 10,000 năm nữa. Chi phí thiệt hại gây ra cho môi trường sau 2000 năm ước
tính khoảng $32,000 tỷ đô, gấp hai lần GDP nước Mỹ hiện tại. Giá trị hiện tại của
những thiệt hại này được khấu trừ với tỷ suất sở thích theo thời gian của xã hội
(SRTP) 3 % giả định rằng chất thải hạt nhân bắt đầu rò rỉ vào khoảng thời gian
500 năm sau và gây ra thiệt hại vào khoảng $12 triệu. Khoản tiền này không phải
là không quan trọng song nó ít hơn rất nhiều so với khoản thiệt hại gây ra sau 500
năm và nhỏ hơn rất rất nhiều so với mức để có thể tác động đến phân tích chi phí
lợi ích. Sau khi khấu trừ những thiệt hại đó kết quả thu được là nên tiếp tục tiến
hành dự án vì lợi ích được xác định vượt chi phí khoảng $30 tỷ.
Người ta nói rằng dự án chất thải hạt nhân sẽ là không công bằng đối với các thế
hệ sau này. Trên cơ sở đó, người ta lập luận rằng việc vận dụng các tỷ lệ khấu hao
là trái đạo đức. Một giải pháp thường được đề xuất để giải quyết vấn đề thiệt hại
phi đạo đức cho các thế hệ sau này là việc sử dụng các tỷ lệ khấu hao thấp hay
thậm chí là âm (tức là Schultze et al. 1981) hay không sử dụng tỷ lệ khấu hao
(Parfit, 1994). Kiểu lập luận này là lời biện minh đạo đức cho những gì mà tình
cảm của chúng ta nên có đối với các thế hệ con cháu chúng ta. Song đây không
phải là một lời tuyên bố có hiệu quả về việc nên sử dụng tỷ lệ chiết khấu nào, có
nên sử dụng hay không hay thậm chí là về những tình cảm đạo đức thích hợp. Giải
pháp được đề xuất của việc vận dụng tỷ lệ chiết khấu thấp hay không sử dụng tỷ lệ
chiết khấu là tạm thời. Nếu được áp dụng một cách chung chung sẽ dẫn đến các
vấn đề đạo đức khác. Ví dụ như việc áp dụng các dự án đem lại lợi ích ít hơn cho
cả các thế hệ hiện tại và tương lai.[7]
Trong Bảng 2-2, một cách tiếp cận chi phí lợi ích KH chuẩn cho ví dụ chất thải hạt
nhân giả định được so sánh với AM trong bốn kịch bản khác nhau: kịch bản 1, có
cả bù đắp và giảm nhẹ; kịch bản 2, có bù đắp; kịch bản 3, có giảm nhẹ vì chi phí
hành chính của bù đắp là quá lớn; và cuối cùng là kịch bản 4, không có bù đắp mà
cũng không có giảm nhẹ. Bù đắp được quyết định bởi thế hệ hiện tại vì thiệt hại
gây ra do thế hệ tương lai là $7 tỷ và chi phí cho giảm nhẹ là $4 tỷ. Một ví dụ của
giảm nhẹ có thể là tạo ra một vật chứa chất thải hạt nhân an toàn hơn hoặc chuyển
chất thải đó vào vũ trụ. Các kết quả được thể hiện bởi giá trị hiện tại ròng, NPV.
Bảng III. So sánh giữa KH và AM *, Các Giá trị Hiện tại của Được và Mất
[1] [2] [3] [4]
CHI PHÍ VÀ LỢI
ÍCH
Không có bù đắp
hay Giảm nhẹ
(PV Hàng tỷ)
Có bù đắp
(PV Hàng tỷ)
Có giảm nhẹ tác
động
Bù đắp là không
khả thi
(PV Hàng tỷ)
Cả bù đắp và Giảm
nhẹ tác động đều
không khả thi
(PV Hàng tỷ)
Lợi ích Thường 65 65 65 65
Chi phí Thường 35 35 35 35
Thiệt hại các Thế hệ
sau này phải Gánh
0.012 0.012 [0.012] 0.012
chịu
Chi phí Hành chính
của Bù đắp Thực tế
[4] 7 infinite infinite
Chi phí Giảm nhẹ [5] [5] 4 100
Thiệt hại Tinh thần
đối với Thế hệ Đương
đại
35 [35] [35] 35
KH NPV 29.988 22.988 26 29.988
CHƯƠNG 3: Phân Tích các Thay Đổi
Phúc Lợi
Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe
Phân tích CBA chủ yếu là tìm xem liệu một dự án có khiến cho mọi người trở nên
giàu có hơn hay không. Các dự án thay đổi tổ hợp hàng hoá mà mọi người tiêu
dùng, giảm bớt số lượng của loại hàng này và tăng số lượng của một loại hàng
khác. Trong khi mục tiêu của chúng ta là phải đưa ra được những lời tuyên bố với
cả cộng đồng khẳng định xem cộng đồng đó có trở nên khá giả hơn nhờ dự án hay
không. Chúng ta phải bắt đầu phân tích ở cấp độ mỗi cá nhân và hỏi xem liệu một
dự án có làm cho một người trở nên giàu có hơn hay không.
Chương này bắt đầu với một thảo luận lý thuyết về các thay đổi trong độ thoả
dụng cá nhân. Bằng cách nào mà một dự án có thể khiến cho một cá nhân trở nên
khá giả hơn hay nghèo khó hơn. Làm cách nào để đo lường được giá trị của những
thay đổi này. Từ đó, chúng ta sẽ bàn xem cần phải làm gì để đánh giá các dự án
trong trường hợp có nhiều bên liên quan với điều kiện có thông tin hoàn hảo về sở
thích của mỗi cá nhân và các tác động của dự án. Cuối cùng, chúng ta sẽ chuyển từ
những ý tưởng có vẻ như trừu tượng về độ thoả dụng và phúc lợi xã hội cá nhân
sang những cách tiếp cận thực tế hơn để quyết định xem liệu các dự án có đáng
được triển khai xét trên phương diện kinh tế hay không.
Các khái niệm được thảo luận trong chương này tạo thành cơ sở cho các kỹ thuật
thực tế mô tả trong các chương VI và V. Quan trọng hơn, các khái niệm này giúp
bạn đọc có thể quyết định được đâu là thời điểm thích hợp để áp dụng trực tiếp các
kỹ thuật thực tế hơn vào phân tích chi phí-lợi ích, lúc nào thì phân tích sẽ mang lại
những kết quả không chuẩn xác.
3.1 Phân tích các mức Thay đổi độ Thoả dụng Cá nhân
Một đánh giá CBA chính xác đối với một dự án phải được dựa trên tác động của
dự án đối với mọi người. Tuy nhiên, vì phúc lợi của nhóm hay phúc lợi xã hội lại
phụ thuộc vào độ thoả dụng cá nhân nên thảo luận của chúng ta bắt đầu với các tác
động của một dự án đối với mỗi một cá nhân.
Các tác động thật của một dự án là những thay đổi trong tiêu dùng mà nó tạo ra.
Nếu một dự án tiêu dùng một loại hàng hoá và sử dụng nó như một đầu vào của dự
án thì lượng cung loại hàng đó sẽ giảm. Nếu một dự án sản xuất ra một mặt hàng,
tức là đầu ra của dự án thì lượng cung mặt hàng đó sẽ tăng. Dù trong trường hợp
nào thì các quyết định tiêu dùng cá nhân cũng có khả năng thay đổi do tác động
của dự án. Chúng ta có thể phân tích tác động của một dự án lên mỗi cá nhân bằng
cách sử dụng các đường bàng quan. Ví dụ như nếu một người tiêu thụ nhiều hơn
một mặt hàng và giữ nguyên một mặt hàng khác thì độ thoả dụng của người đó sẽ
tăng (đơn giản có nghĩa là người đó sẽ trở nên giàu có hơn) do tác động của dự án.
Mặt khác, nếu một người tiêu thụ ít hơn một loại hàng hoá trong khi giữ nguyên
lượng tiêu thụ đối với các loại hàng hoá khác thì độ thoả dụng của anh ta sẽ giảm.
Trường hợp thường gặp là dưới tác động của dự án, một người sẽ tiêu dùng nhiều
hơn một số loại hàng hoá trong khi tiêu dùng ít đi một số loại hàng hoá khác .
Điều này khiến cho tác động của dự án lên độ thoả dụng trở nên mơ hồ. Có nghĩa
là một dự án như vậy có thể tăng, giảm hay không thay đổi độ thoả dụng của một
người.
Trước hết, chúng ta sẽ xét tình huống mà một dự án không có tác động lên giá thị
trường. Tiếp đó, chúng ta sẽ chuyển sang tình huống mà một dự án tác động đến
giá cả hoặc của đầu vào hoặc của đầu ra.
Hình WW-1 mô tả các tác động của một thay đổi trong mức tiêu dùng lên độ thoả
dụng cá nhân. Tăng lượng tiêu dùng mặt hàng Y tạo ra di chuyển từ A đến B đẩy
cá nhân lên đường bàng quan cao hơn. Điều này là dấu hiệu cho thấy rằng họ đã
trở nên giàu có hơn. Mức tiêu dùng mặt hàng Y di chuyển từ A đến C, tức là giảm
đi khiến cho mỗi cá nhân trở nên nghèo hơn. Nếu một dự án tăng lượng tiêu dùng
của một mặt hàng và giảm lượng tiêu dùng của một mặt hàng khác thì tác động lên
độ thoả dụng hay phúc lợi là mờ nhạt. Tăng lượng tiêu dùng mặt hàng X và giảm
lượng tiêu dùng mặt hàng Y có thể dẫn đến tình trạng một cá nhân giàu có (dịch
chuyển từ A đến E) hơn hay nghèo khó hơn (dịch chuyển từ A đến D) tuỳ thuộc
vào từng thay đổi cụ thể và thị hiếu của mỗi cá nhân.
Hình W-1
Trong kinh tế, độ giàu có, độ thoả dụng được đánh giá theo thứ tự nhiều hơn là đo
lường chính xác bằng số lượng. Điều này có nghĩa là không có giá trị số nào cho
phép việc đo lường xem mức độ một người giàu lên, nghèo đi là bao nhiêu do thay
đổi trong tiêu dùng. Điều duy nhất có thể nói được là liệu một người có trở nên
giàu có hơn (độ thoả dụng tăng) hay nghèo khó đi (độ thoả dụng giảm) do tác
động của một thay đổi trong tiêu dùng.
3.2 Các Tác động của Dự án khi Giá cả Không đổi
Xét một dự án tiêu dùng một số mặt hàng (đầu vào) và tạo ra một số mặt hàng
khác (đầu ra) mà không ảnh hưởng gì đến mức giá thị trường. Điều này sẽ xảy ra
nếu như dự án có quy mô đủ nhỏ trong tương quan với thị trường để không gây ra
một thay đổi nào trong giá cả. Trong trường hợp đó, có thể sẽ là thích hợp khi chỉ
đơn giản xét tác động đối với tiêu dùng của một cá nhân với giả định rằng mức giá
không thay đổi. Những thay đổi trong mức tiêu dùng sẽ ảnh hưởng đến sự giàu có
hay độ thoả dụng. Giá trị của một đồng đô la có thể gắn liền với thay đổi dựa trên
thay đổi trong giá trị của hàng hoá được tiêu dùng.
Ví dụ như hãy tưởng tượng rằng có một chương trình phân phối phó mát thừa.
Nếu phó mát được bán ở chợ với mức giá là $4/pao và chương trình phân phát 5
pao phó mát cho một người thì giá trị của lượng phó mát mà một người được nhận
có thể là $20[1] nếu như người nhận phó mát thờ ơ giữa việc nhận phó mát và
nhận một lượng tiền mặt tương ứng và chương trình không gây ra thay đổi trong
mức giá phó mát trong tương đối với giá của các loại hàng hoá khác. Nói một cách
khác, $20 có thể là giá trị thích hợp cho lượng phó mát được phân phát nếu một
người sẽ tiêu dùng một lượng phó mát tương tự nếu họ được cung cấp $20 tiền
mặt. Đây là tình huống được mô tả ở Hình W-2.
Hình W-2
Có thể có một số chương trình phân phối trực tiếp các mặt hàng mà mọi người
hoặc không tiêu dùng hoặc có tiêu dùng song là những lượng rất nhỏ. Nếu người
nhận không thể bán lại những gì họ nhận được thì có thể không hợp lý khi định giá
đầu ra của chương trình theo mức giá thị trường. Đặc biệt hơn là trường hợp dự án
trao một lượng lớn hàng hoá cho mọi người. Trong trường hợp này sẽ là thích hợp
để định giá đầu ra của dự án theo mức giá thị trường khi người hưởng lợi từ dự án
dùng toàn bộ số tiền được cấp phát để mua duy nhất mặt hàng đó nếu họ được cho
tiền thay vì cấp hàng.
Nói đến ví dụ trước, hãy tưởng tượng là thay vì được cung cấp 5 pao phó mát, một
đối tượng tiếp nhận của chương trình được phân phát 500 pao phó mát và vì nhiều
lý do khác nhau người này không thể bán lại lượng phó mát được phân phát. Giả
định rằng những người tiếp nhận sẽ không vì thế mà tiêu dùng được ngần đó phó
mát, giá trị chính xác của lợi ích này có thể ít hơn giá trị tiền mặt tương ứng, tức là
$2000.[2]
Một ví dụ khác là xét một dự án chung cư[3] cung cấp nhà ở tương ứng với lượng
nhà do tư nhân cung cấp trị giá $1500/tháng. Có thể người ta sẽ muốn gắn giá trị
$1500/tháng cho các đơn vị nhà ở dự án cung cấp. Tuy nhiên, điều này chỉ thích
hợp nếu như cư dân khi được cho $1500 một tháng sẽ tiêu tất cả khoản tiền đó vào
nhà ở. Nếu một người chỉ chi một phần trong khoản $1500 vào nhà ở thì giá trị
đúng gắn cho nhà ở sẽ nhỏ hơn. Mức độ nhỏ hơn bao nhiêu tuỳ thuộc vào một số
giả định kỹ thuật về các thị hiếu của cá nhân. Song chắc chắn là giá trị đó sẽ nhỏ
hơn $1500.
Một cách tiếp cận khác khá hữu hiệu trong việc xác định giá trị của lợi ích. Đó là
hình dung xem một người hưởng lợi có sẵn sàng trả tiền để mua phó-mát hay
không. Trong các ví dụ trên, thì giá trị chính là số tiền mà người tiếp nhận sẵn
sàng chi trả để có được 5 pao phó-mát, 100 pao phó-mát hay một căn hộ có mức
giá thuê trên thị trường là $US 1500. Chính độ sẵn sàng để chi trả (Willing To Pay
~ WTP) là giá trị của lợi ích dự án. Giả định ngầm ở đây là người hưởng lợi không
có quyền gì với lợi ích trước dự án nên giá trị phải dựa trên các điều kiện trước dự
án.
Hay có thể giả định rằng người hưởng lợi có quyền được hưởng lợi ích trước dự
án. Nếu dự án không được thực hiện, họ sẽ có quyền được đền bù. Trong giả định
này, giá trị của lợi ích là mức đền bù cần thiết để độ thoả dụng tương đương với
độ thoả dụng mà dự án đem lại nếu nó được triển khai. Đó là độ sẵn sàng chấp
nhận (Willing To Accept ~ WTA), giá trị của lợi ích do dự án mang lại. Giá trị này
phải dựa trên các điều kiện có được sau dự án.
Nhìn chung, giá trị WTP của lợi ích sẽ ít hơn giá trị WTA. Tuy nhiên, trong những
tình huống mà các mức giá không đổi, giá trị WTP của lợi ích sẽ giống và ngang
với mức giá thị trường.
Ví dụ: Chung cư
Hãy tưởng tượng rằng một dự án chung cư sẽ cung cấp 100 căn hộ cho một người.
Để mọi thứ tương đối đơn giản, giả định rằng một căn hộ được xác định là có mức
giá thị trường là US $1. Tất cả các hàng hoá khác (một tổ hợp của tất cả những thứ
khác mà một cá nhân tiêu dùng) đều được định giá ở mức tương tự US $1/căn hộ.
Phải xác định giá trị của 100 căn hộ chung cư như thế nào?
Chỉ đơn thuần định giá một căn hộ ở mức $1/căn hộ (tức là tổng giá trị cho tất cả
các căn hộ là $100) có thể sai. Xét biểu đồ dưới đây mô tả tác động của dự án nhà
ở lên ngân sách của một người. Việc cung cấp cho một người 100 đơn vị nhà
khiến cho đường ngân sách di chuyển ra bên ngoài, tăng lượng nhà tối đa mà một
cá nhân có thể tiêu dùng song lại không mấy ảnh hưởng đến số lượng tối đa của
các loại hàng hoá khác.
Nếu đường bàng quan (indifference curve) không tiếp tuyến với phần dốc xuống
của đường ngân sách (budget) tại một điểm thì kết cục là người đó sẽ chọn tiêu
dùng tại điểm góc (corner point) của đường hạn chế ngân sách của họ.
Vấn đề là ở chỗ người đó sẽ nằm trên một đường bàng quan mà với một lượng tiền
mặt tài trợ ít hơn, người đó vẫn có thể giữ được đường bàng quan như vậy.
Như được minh hoạ dưới đây, người đó có thể đạt được mức thoả dụng tương tự
với một khoản tiền tài trợ ít hơn, ví dụ như $80 chẳng hạn. Lúc đó, giá trị chính
xác gắn cho các đơn vị nhà ở là $80.
Ví dụ: Chương trình Phân phát Muối
Một ví dụ cực đoan hơn. Hình dung rằng một tổ chức các nhà sản xuất muối
thuyết phục được các quan chức triển khai một chương trình mua và phát cho mỗi
công dân trong đất nước 1000 pao muối. Nếu muối có giá trị là $1/pao, thì một
nhà phân tích ngây thơ sẽ có xu hướng định giá lợi ích mà chương trình này mang
lại ở mức $1000/người. Tuy nhiên, phần lớn mọi người đều sẽ gắn một giá trị thấp
hơn mức $1000 rất nhiều cho lợi ích này. (TQ hiệu đính: vì không có ai rồ đến nổi
phải ăn 1000 pao hay 500 kilo muối cả. Số lượng muối 1 người cần dùng tất nhiên
là ít hơn 1000 pao rất nhiều. Phần dư thừa không có làm lợi cho người không tiêu
dùng.)
Việc chỉ ra điều kiện cần thiết cho phân tích này là một việc đáng làm. Điều kiện
đó là người tiếp nhận lợi ích không thể bán lại lợi ích cho người khác (vì bất kỳ lý
do gì). Nếu có thể bán được tất cả các loại hàng hoá này với mức giá thị trường thì
chương trình sẽ có tác động tương tự như một chuyển nhượng tiền mặt vì bất kỳ
người nào nhận được một số lượng dư thừa có thể dễ dàng chuyển đổi nó sang tiền
mặt. Việc không thể chuyển đổi hàng hoá sang tiền (và tiếp đó là sang các loại
hàng hoá khác) giảm giá trị của mặt hàng đó đến một độ nào đó.
Hình vẽ này mô tả quá trình định giá cho chương trình muối. Cho một người 1000
đơn vị muối chỉ có giá trị thực là $500 nếu không thể bán lại được số muối này.
Tuy nhiên, nếu có thể bán lại muối với mức giá thị trường là $1/pao thì chương
trình đồng nghĩa với việc cho người hưởng lợi $1000 tiền mặt. Kết cục là người
hưởng lợi dừng lại ở đường bàng quan cao hơn.
Phân tích các chi phí dự án cũng giống như phân tích các lợi ích của dự án. Nếu
các mức giá không bị ảnh hưởng bởi một dự án thì các đầu vào phải được định giá
theo mức giá thị trường. Chi phí của đầu vào dự án là giá trị mà người tiêu dùng
có thể gắn cho đầu vào. Với tổng lượng đầu vào không đổi thì việc dự án tiêu dùng
bất kỳ một lượng đầu vào nào cũng nhất thiết khiến người tiêu dùng cá thể giảm
lượng tiêu dùng đầu vào đó. Giả định rằng người tiêu dùng có xu hướng tối đa hoá
độ thoả dụng, giá trị cận biên trong điều kiện cân bằng phải ngang với mức giá thị
trường của đầu vào.
Ví dụ, nếu có một lượng lao động cố định được cung cấp trong thị trường và dự án
dùng 1000 giờ lao động thì các nhà tuyển dụng tư trong vùng sẽ thấy mất đi một
lượng lao động mà họ có thể thuê là 1000 giờ lao động. Giá trị mà nhà tuyển dụng
gắn cho lượng lao động này là chi phí sử dụng lượng lao động đó trong dự án.
Xét một ví dụ khác. Hãy hình dung rằng lượng điện có sẵn trong một khu vực là
một lượng cố định. Nếu dự án lấy đi một lượng điện trong tổng số điện đó (có thể
là sử dụng điện hay giảm khả năng cung cấp điện) thì giá trị mà người tiêu dùng cá
thể gắn cho lượng điện này sẽ là chi phí của việc dùng điện trong dự án.
Nếu các thị trường vận hành tốt[4], các mức giá của đầu vào phải là thước đo giá
trị của đầu vào. Nếu quy mô của dự án là tương đối nhỏ so với thị trường thì mức
giá đầu vào có thể sẽ không thay đổi khi có dự án.
Cũng như với lợi ích, giá cả là cách đo giá trị của đầu vào chuẩn xác nhất song
cũng phải xét dưới hai góc độ. Nếu như đầu vào chỉ đơn giản chuyển từ tay một cá
nhân sang dự án thì giả định rằng sẽ là dự án có quyền sở hữu với đầu vào. Lúc
đó, những người vận hành dự án phải đưa ra một mức chào giá mà người đó sẵn
sàng chấp nhận đánh đổi để cho đầu vào của mình được sử dụng trong dự án. Với
những giả định này, giá trị gán cho đầu vào là độ sẵn sàng chấp nhận của mỗi cá
thể tư (WTA). Tầm quan trọng của giả định là người hưởng lợi có quyền đối với
đầu vào trước khi tiến hành dự án. Bởi vậy, giá trị được dựa trên các điều kiện tiền
dự án.
Một tình huống khác, có thể giả định là cá thể tư không có quyền định trước đối
với các đơn vị đầu vào. Với giả định này, cá thể tư có thể sẽ phải chi tiền để mua
loại đầu vào đó. Sẽ có một khối lượng tối đa nào đó mà cá thể này sẵn sàng trả tiền
mua để có được mức thoả dụng tương tự như khi không có cơ hội để mua. Giá trị
này là độ sẵn sàng chi trả của cá thể tư (WTP). Giả định ngầm ẩn ở đây là người
hưởng lợi không có quyền sở hữu đối với đầu vào trước khi tiến hành dự án. Bởi
vậy, giá trị được dựa trên các điều kiện sau dự án.[5]
Như trước đây, trong khi thường thì đúng là giá trị WTP của một đầu vào sẽ ít hơn
giá trị WTA của đầu vào đó thì trong những trường hợp mà giá cả không thay đổi,
những giá trị này thường sẽ giống nhau và ngang với mức giá thị trường.
Có thể đưa ra một quy tắc riêng cho những loại hàng hoá độc đáo ở một đặc điểm
nào đó. Hai ví dụ quan trọng là mặt hàng bất động sản và mặt hàng liên quan đến
một giá trị tình cảm nào đó. Một ngôi nhà trưng dụng để phục vụ một dự án có thể
có giá trị thị trường hợp lý trong khả năng dự đoán của nhà thẩm định. Song nếu
như mảnh đất vì một lý do nào đó là độc đáo và cư dân của căn nhà đó gắn bó một
cách vô cùng chặt chẽ với căn nhà thì giá trị WTP hay WTA của cư dân có thể
vượt xa hơn mức thẩm định rất nhiều. Trong những trường hợp như vậy, giá trị thị
trường hợp lý phải được coi là ở mức thấp hơn so với giá trị của mặt hàng.
Việc đánh giá các tác động của một dự án trở nên phức tạp hơn khi có khả năng là
các mức giá sẽ thay đổi do triển khai dự án.
3.3 Tác động của Dự án khi Giá Thay đổi: Biến động Bù đắp và Biến động
Tương đương
Thường thì các đầu vào (input) và đầu ra (output) của dự án được mua bán trao đổi
trên thị trường. Điều này có nghĩa là cơ quan thực thi dự án mua đầu vào và phân
phối đầu ra thông qua các thị trường. Hay một chương trình có thể buộc các cá thể
tư phải mua bán trong các thị trường. Điều này có thể tạo ra thay đổi giá cả nhất là
nếu dự án có quy mô tương đối lớn so với kích cỡ của thị trường. Thay đổi trong
tiêu dùng do dự án tạo ra có thể là kết quả của thay đổi giá cả hơn là của việc phân
bổ trực tiếp đầu vào hay đầu ra.
Có thể lấy ví dụ từ một số dự án. Êtanol, một chất thay thế cho xăng được làm từ
ngô. Chất này được một số dự án của chính phủ sản xuất và bán trên các thị trường
xăng dầu thông thường. Sản phẩm điện do các dự án thuỷ điện liên bang làm ra
được bán trên các thị trường điện vùng. Nếu đầu ra của các dự án này có số lượng
đủ lớn so với kích cỡ các thị trường tương ứng thì chúng sẽ tạo ra thay đổi giá cả.
Việc sản xuất và bán chất êtanol có thể làm giảm giá chất đốt và tăng tiêu dùng.
Việc bán điện sản xuất từ các đập do bang tài trợ sẽ giảm giá điện và trong trường
hợp này cũng vậy khiến tiêu dùng tăng. Các mức giá thấp hơn sẽ đem lại lợi ích
cho người tiêu dùng những loại hàng hoá này vì tiết kiệm chi phí từ mỗi đơn vị mà
họ đáng lẽ ra họ đã phải trả thêm khi mua sản phẩm và bởi giá trị mà họ gắn cho
mỗi đơn vị gia tăng mà họ tiêu dùng. Hoặc một điều luật bắt đội mũ bảo hiểm có
thể tăng nhu cầu đối với mũ bảo hiểm một cách đáng kể đủ để tăng giá mũ bảo
hiểm. Giá tăng sẽ gây thiệt hại cho người sử dụng mũ bảo hiểm.
Giá trị của một thay đổi giá cả đối với người tiêu dùng bằng với giá trị độ sẵn sàng
chi trả (WTP) cho thay đổi giá cả đó (dù là để tạo ra một sự giảm giá hay tránh sự
lên giá) hay giá trị độ sẵn sàng chấp nhận (WTA) để đổi lại thay đổi giá cả (bù đắp
cho một sự giảm giá không xảy ra hay một sự tăng giá đã xảy ra). Chúng ta có thể
có được những hiểu biết sâu sắc về những khái niệm này bằng cách phân tích
đường bàng quan (indifference curve).
Trước hết, xét lợi ích mà một người tiêu dùng thu được từ một sự giảm giá. Nỗ lực
ban đầu trong việc xác định giá trị của thay đổi giá cả sẽ chỉ đơn giản là nhân thay
đổi giá với số lượng hàng hoá tiêu thụ. Tuy nhiên, việc này sẽ bỏ qua thực tế là có
thể lượng tiêu dùng đối với loại hàng này hay loại hàng khác sẽ gia tăng.
Nếu mức giá ban đầu của một loại hàng hoá là $20/đơn vị và một người tiêu dùng
tiêu biểu mua 100 đơn vị thì giá trị của việc giảm giá xuống mức $18/đơn vị có thể
được xác định ở mức $200. Song giá trị này có thể là tương đối có thể làm cho
chính xác hơn. Cách xác định giá trị này không tính đến giá trị của bất kỳ một tiêu
dùng bổ sung nào mà việc giảm giá có thể tạo ra.
Việc xác định giá trị chuẩn xác đối với một thay đổi giá cả kiểu như vậy được thực
hiện thông qua phân tích các đường bàng quan. Để đạt được những mục đích mà
ví dụ này đặt ra, hãy hình dung rằng một dự án của chính phủ sẽ khiến cho giá
rượu giảm.
Giá giảm và thay đổi trong mức tiêu dùng sản phẩm rượu và các hàng hoá khác
được thể hiện trong hình vẽ dưới đây.
Hình W-3
Giảm giá rượu xoay đường ngân sách từ MM sang MM?. Điều này dẫn đến việc
người tiêu dùng di chuyển từ điểm A đến điểm B, tiêu dùng nhiều rượu hơn và ít
các loại hàng hoá khác hơn.
Có hai phương thức xác định sự thay đổi giá cả này: thay đổi tương đương
(equivalent variation) và thay đổi bù đắp (compensating variation). Mỗi cách tiếp
cận xem xét giá trị của thay đổi giá mặt hàng rượu tính theo đơn vị của các mặt
hàng khác. Điểm khác biệt giữa hai cách tiếp cận là thay đổi bù đắp sử dụng các
mức giá trước khi chương trình có tác động trong khi thay đổi tương đương lại sử
dụng các mức giá sau khi chương trình có tác động.
Để đơn giản hoá phân tích này hãy giả định rằng các loại Mặt hàng Khác có giá trị
được xác định ở mức $1/đơn vị. Khi đó, một đơn vị Hàng hoá Khác tương đương
với $1 chi cho Hàng hoá Khác.
Biến đổi tương đương là độ sẵn sàng mà người tiêu dùng chấp nhận để đổi lại việc
dự đoán trước được việc giảm giá rượu. Có nghĩa là đây là số lượng tính theo đơn
vị các hàng hoá khác mà người tiêu dùng đáng lẽ ra nhận được để đạt được mức
giàu có khi không có thay đổi giá cả ngang bằng với mức giàu có khi giá cả thay
đổi. Vì thế, các mức giá dùng để tính toán giá trị này là các mức giá trước dự án.
Như mô tả trong hình dưới đây, giảm giá rượu dịch chuyển đường bàng quan I0
sang vị trí I1. Giá trị gắn cho việc dịch chuyển này tính theo hàng hoá khác tại tỷ
lệ giá ban đầu là N-M. Đây là biến đổi tương đương. (TQ hiệu đính: biến đổi
tương đương (equivalent variation) giống với ?ảnh hưởng thu nhập? (income
effect) trong kinh tế Vi Mô (microeconomics), nghĩa là, phải tăng thu nhập của họ
lên bao nhiêu để họ được có 1 sự tiêu dùng (consumption) tương đương).
Hình W-4
Biến đổi bù đắp là độ sẵn sàng chi tiêu của người tiêu dùng khi giá rượu giảm.
Đây là lượng tối đa mà người tiêu dùng mong muốn chi để khiến cho giá cả thay
đổi. Các mức giá dùng để tính toán giá trị này là những mức giá có hiệu lực sau dự
án. Như được mô tả dưới đây, giảm giá rượu dịch chuyển người tiêu dùng từ
đường bàng quan I0 sang đường bàng quan I1. Giá trị gắn cho dịch chuyển này
tính theo đơn vị các hàng hoá khác tại tỷ lệ giá sau dự án là M-O. Đây là biến đổi
bù đắp. (TQ hiệu đính: tương tự, biến đổi bù đắp (compensating variation) cũng
giống như sự phân tích ?ảnh hưởng thay thế? (substitution effect) trong Kinh Tế
Vi Mô (Microeconomics).)
Hình W-5
Các biến đổi bù đắp và tương đương có thể được gán cho ý nghĩa thông thường
hơn. Theo thuật ngữ CBA cách nghĩ về vấn đề này là nhận ra rằng xuất phát điểm
trong cách tiếp cận biến đổi bù đắp là hiện trạng. Xuất phát điểm trong cách biến
đổi tương đương là vị trí mới tiềm năng.
Xét một dự án tạo ra tác động làm giảm giá rượu. Biến đổi bù đắp giả định rằng
người tiêu dùng không có quyền được hưởng lợi ích đem lại từ việc giảm giá. Họ
phải trả một cái giá nào đó để đổi lại sự giảm giá này. Biến đổi tương đương giả
định rằng người tiêu dùng có quyền được hưởng lợi ích đem lại từ việc giảm giá
và phải được đền bù một cái giá nhất định để từ bỏ quyền này. Đối với mỗi cái lợi
thu được từ hiện trạng (như giảm giá rượu) thì độ sẵn sàng chi trả WTP là thước
đo biến đổi bù đắp của lợi ích phúc lợi xã hội trong khi độ sẵn sàng chấp nhận
WTA là biến đổi tương đương. Biến đổi bù đắp là thước đo thường được sử dụng
trong CBA.
Bây giờ, xét một dự án khiến cho giá rượu tăng lên. Biến đổi bù đắp giả định rằng
người tiêu dùng có quyền đối với hiện trạng, tức là mức giá rượu thấp và phải
được đền bù khi giá rượu tăng. Mức bù đắp cần phải có là WTA. Biến đổi tương
đương giả định rằng người tiêu dùng không có quyền với hiện trạng cũng không
có quyền cản trở việc tăng giá. Nhằm ngăn cản việc tăng giá, người tiêu dùng sẽ
sẵn sàng trả một lượng lớn hơn WTP. Đối với việc mất đi hiện trạng (như kết cục
của việc tăng giá rượu) WTA là thước đo bù đắp của cái mất.
Tóm lại, biến đổi bù đắp thường được sử dụng trong CBA. Trong trường hợp được
hưởng lợi, đó là WTP. Trong trường hợp chịu mất mát, đó là WTA. Bởi vậy, trong
phân tích CBA, nhìn chung đó là trường hợp mà lãi hay lợi ích được định giá bằng
việc sử dụng WTP và lỗ hay chi phí được định giá bằng cách sử dụng WTA. Cả
hai cách này đều nhất quán với cách sử dụng biến đổi bù đắp.
Những ý tưởng này được tóm tắt trong Bảng W-1. Nếu một dự án khiến cho giá
hàng hoá tăng, người tiêu dùng loại hàng hoá đó phải chịu thiệt thòi. Nếu bạn giả
định rằng những người tiêu dùng này có quyền đối với mức giá thấp hơn (trước dự
án) thì mất mát mà người tiêu dùng phải chịu phải được xác định bằng cách sử
dụng WTA. Nếu một dự án khiến cho giá của một loại hàng hoá giảm xuống thì
người tiêu dùng sẽ được lợi. Nếu bạn giả định rằng người tiêu dùng không có
quyền với mức giá thấp hơn (sau dự án) thì khoản lợi này phải được định giá theo
WTP. Cách dùng WTP để tính lợi ích và WTA để tính thiệt hại một cách đúng đắn
được thể hiện trong Bảng W-2. Cần lưu ý rằng việc sử dụng biến đổi bù đắp là
một phương pháp bảo thủ vì nó bao gồm giá trị thấp hơn đối với lợi ích của dự án
và giá trị cao hơn cho chi phí dự án.
Bảng W-1
Giá tăng, Người tiêu dùng
bị thiệt
Giá giảm, Người tiêu dùng
được lợi
Người tiêu dùng có
quyền sở hữu
WTA, biến đổi bù đắp, giá
trị cao hơn
WTA, biến đổi tương
đương, giá trị cao hơn
Người tiêu dùng không
có quyền sở hữu
WTP, biến đổi tương
đương, giá trị thấp hơn
WTP, biến đổi bù đắp, giá
trị thấp hơn
Bảng W-2
Lợi ích thu được từ Hiện trạng WTP (Biến đổi Bù đắp) Giá trị Thấp hơn
Mất do giữ nguyên Hiện trạng WTA (Biến đổi Bù đắp) Giá trị Cao hơn
Lợi ích ròng WTP-WTA
Bởi vậy, cơ sở để phân biệt giữa Biến đổi Tương đương và Biến đổi Bù đắp là
quyền sở hữu hay là khái niệm pháp lý về quyền lợi. Nhận thức được điều này
cũng có nghĩa là thừa nhận quy tắc cho rằng phân tích CBA không độc lập đối với
luật pháp. Vì các việc định giá không thể tiến hành độc lập với quyền sở hữu nên
phải xét đến quyền sở hữu trong phân tích CBA dự án. Xét một ví dụ cực đoan.
Coi việc ăn cắp một chiếc xe đạp chỉ là một sự chuyển đổi chiếc xe từ người này
sang người khác. Tuy nhiên, quyền pháp lý gắn cho chiếc xe đạp đó một giá trị
dương nếu nó ở trong tay chủ nhân hợp pháp, một giá trị bằng 0 nếu ở trong tay
tên trộm. Việc này dẫn đến một kết luận rất đúng rằng tên trộm làm giảm phúc lợi
xã hội và xã hội không mong muốn việc mất cắp xảy ra.
Để áp dụng biến đổi tương đương và biến đổi bù đắp trong một ví dụ, xét trường
hợp điện được làm ra từ công trình xây đập thuỷ điện do chính quyền liên bang tài
trợ ở Mỹ. Thoạt đầu, tình thế khi đập này mới được xây dựng có thể là một người
cuối cùng sẽ là người mua sản phẩm điện không có quyền hợp pháp vốn có nào
đối với việc mua điện. Khi đó, câu hỏi giá trị tương đương là, ?Người đó sẵn sàng
chi trả gì để có được lượng điện sản xuất?? Đây chính là biến đổi bù đắp. Một khi
đập được hoàn thiện và bắt đầu phát điện, người tiêu dùng có thể được xem như là
có một số quyền đối với chiếc đập. Có lẽ, nó là kết quả của một tiền lệ. Nếu một
đề xuất bán điện cho cư dân nước ngoài được đưa ra thì mức giá điện sẽ ngang với
lượng bù đắp mà người tiêu dùng cần có để ở mức độ giàu có ngang với khi không
bán điện ra nước ngoài. Tức là độ sẵn sàng chấp nhận của họ. Đây chính là biến
đổi tương đương.
Đối với mỗi cá nhân, cả Biến đổi Bù đắp lẫn Biến đổi Tương đương đều được coi
là những chỉ số thoả dụng chuẩn xác. Điều này có nghĩa là hoặc Biến đổi Bù đắp
hoặc Biến đổi Tương đương (tuỳ thuộc vào phân chia quyền sở hữu) sẽ gọi ra các
lựa chọn chính xác cho từng cá nhân. Nếu Biến đổi Bù đắp của lợi ích của một dự
án là $100 và Biến đổi Bù đắp cho lợi ích của một dự án khác là $150, thì dự án
thứ hai sẽ được ưa thích hơn dự án thứ nhất.
Bởi vậy, về lý thuyết thì giá trị đúng gắn cho một dự án có tác động đối với tiêu
dùng cá nhân thông qua biến đổi giá cả là tính toán những biến đổi tương đương
và/hay biến đổi bù đắp cho mỗi loại hàng hoá và cho mỗi người chịu tác động của
dự án. Việc thực hiện những tính toán như vậy là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn
ngay cả khi đó chỉ là tính toán cho một cá nhân. Bởi vậy, cuối cùng chúng ta sẽ
bàn về những cách tiếp cận thực tế hơn.
Bây giờ thì hãy chuyển từ cân nhắc các tác động của một dự án dựa trên mức độ
sung túc của một cá nhân cho đến tác động của dự án lên của cải của một nhóm.
3.4 Phúc lợi Xã hội và Lợi ích ròng
Khi xét đến nhiều cá nhân thì tình huống sẽ trở nên hoàn toàn khác biệt. Trong
phần trước, chúng ta đã xét đến lợi ích và chi phí của một người. Để đánh giá tác
động của một dự án đối với một nhóm người thì phải bằng cách nào đó kết hợp cái
được, cái mất của mỗi người trong một nhóm. Điều này có thể được thực hiện
bằng nhiều cách khác nhau.
Một cách để kết hợp lợi ích và chi phí của các cá nhân là tiêu chuẩn Pareto (Pareto
criterion). Tiêu chuẩn Pareto phát biểu rằng nếu một dự án giúp cho ít nhất một
người trở nên giàu có hơn và không khiến cho ai trở nên nghèo khó hơn thì dự án
đó là đáng được mong đợi. Nếu một dự án khiến cho dù chỉ một người trở nên
khốn khó hơn thì dự án bị coi là không đáng được mong đợi. Kết quả là tiêu chuẩn
Pareto áp đặt sức nặng vô tận cho bất kỳ một mất mát nào cho dù mất mát đó có
nhỏ đến đâu đi chăng nữa trong khi lại áp đặt một sức nặng có hạn cho bất kỳ một
lợi ích thu được nào. Hiếm có một dự án nào lại có thể giúp tất cả những đối tượng
bị tác động trở nên giàu có hơn hay ít nhất là không khiến cho ai bị nghèo khó đi.
Một dự án thoả mãn tiêu chuẩn Pareto khi có lợi cho ít nhất một người trong khi
không gây hại cho bất kỳ người nào khác. Về mặt kinh tế mà nói, dự án này là
đáng được mong đợi. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này là không thực tế.
Thông thường, một dự án sẽ giúp một số người giàu có hơn trong khi khiến một số
người khác nghèo khó đi. Thách thức đặt ra là hiển nhiên: làm cách nào để so sánh
thay đổi phúc lợi giữa những người này với nhau? Chúng ta sẽ tiếp cận vấn đề này
bằng việc giả định rằng có thể cân đong đo đếm được độ thoả dụng. Tiếp đó,
chúng ta sẽ hướng tới một hướng đi thực tế hơn.
Chương 3 : Phân Tích các Thay Đổi
Phúc Lợi
( tiếp theo )
Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe
3.5 Phân tích các Hàm Thoả dụng
Độ thoả dụng là thước đo kinh tế mức độ sung túc của mỗi người. Không thể so
sánh độ thoả dụng giữa mọi người vì không thể đo đạc được độ thoả dụng của
từng người. Một lý do khác là kết quả đo lường độ thoả dụng từ các hàm thoả
dụng thường ở dạng thứ tự nhiều hơn là số lượng. Điều này có nghĩa là các kết quả
đo đạc chỉ cho phép xếp loại những tập hợp hàng hoá khác nhau. Tuy nhiên, nếu
có thể đo được độ thoả dụng, có thể so sánh được độ thoả dụng giữa mọi người
với nhau thì chúng ta có thể thiết lập nên một quy tắc phê duyệt hay từ chối các dự
án dựa trên tác động mà dự án đó có đối với độ thoả dụng tổng hợp của những
người có vị thế. Một quy tắc quyết định như vậy được gọi là tiêu chuẩn phúc lợi
xã hội. Để xây dựng được tiêu chuẩn phúc lợi xã hội hỗ trợ cho CBA, chúng ta coi
độ thoả dụng như có thể đo đếm được và quyết định xem giả định nào là cần thiết
để tạo ra quy tắc thực tế hũu dụng.
Theo thuật ngữ toán học, phúc lợi xã hội là một hàm của các mức thoả dụng khác
nhau của N người trong một xã hội
Đạo hàm từng phần (patrial derivative) của phúc lợi xã hội liên quan đến độ thoả
dụng của một cá nhân i bất kỳ, , chỉ ra tầm quan trọng của người đó trong
hàm phúc lợi xã hội.
Phần lớn các dự án tạo ra lợi ích ròng cho một số người và mất mát ròng cho một
số người khác. Một hàm phúc lợi xã hội mô tả cách thức so sánh giữa lợi ích và
mất mát. Nếu các thay đổi trong mức thoả dụng của tất cả các thành viên trong xã
hội được biết đến, tác động biên của một dự án đối với phúc lợi xã hội sẽ có được
từ công thức:
trong đó dUi là thay đổi trong độ thoả dụng đối với người i.
Phúc lợi xã hội là một khái niệm mang tính chủ quan. Trong lý thuyết, hàm phúc
lợi xã hội mô tả mức độ giàu có tổng thể của toàn xã hội như một hàm của các
mức thoả dụng của các thành viên trong xã hội. Song có nhiều ý kiến khác biệt về
mối quan hệ toán học chính xác và tầm quan trọng tương đối của những người
khác nhau (thanh niên, người già, công dân tuân thủ luật pháp và tội phạm).
Mục tiêu tốt hơn cả của bất kỳ một dự án công nào là tăng cường phúc lợi xã hội.
Vì thế, tiêu chuẩn đúng đắn để đánh giá một dự án là liệu dự án có tăng giá trị của
hàm phúc lợi xã hội.[6] Thật không may, điều này là không tưởng về mặt tác
nghiệp. Hàm phúc lợi xã hội hiện không tồn tại. Ngay cả khi có một hàm phúc lợi
xã hội được tất cả mọi người nhất trí thì không dễ gì quan sát được các hàm thoả
dụng cá nhân và không thể đo lường được thay đổi trong độ thoả dụng cá nhân.
Thế nên, không thể đánh giá các dự án theo tác động của dự án lên độ thoả dụng
cá nhân và phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, nếu sửa đổi một chút thì điều kiện phúc lợi
xã hội cũng có thể trở nên thực tế hơn.
Chúng ta bắt đầu bằng cách giả định tối đa hoá độ thoả dụng. Nếu mỗi cá nhân
đang tìm cách tối đa hoá độ thoả dụng (giả định kinh tế đầu tiên) thì tồn tại một
mối quan hệ hữu ích giữa độ thoả dụng cận biên và lợi ích ròng. Một người tối đa
hoá độ thoả dụng bị hạn chế về ngân sách sẽ giải quyết được vấn đề.
trong đó,
X là một vectơ của các số lượng hàng hoá
U(X) là hàm thoả dụng cá nhân
P là véctơ giá
Y là hàm thu nhập cá nhân
Trong tình huống đơn giản nhất, có thể giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng
phương trình Lagrangian
có các điều kiện đầu tiên
.
Trong trường hợp này, λ được hiểu là độ thoả dụng cận biên của thu nhập.
Nếu một các nhân đang tối đa hoá độ thoả dụng và thay đổi lượng hàng hoá tiêu
dùng, tổng thay đổi trong độ thoả dụng tạo ra sẽ là tổng tác động của các thay đổi
trong độ thoả dụng.
Thế nên, thay đổi độ thoả dụng do thay đổi trong rổ hàng hoá tiêu thụ gây ra
ngang bằng với độ thoả dụng cận biên của thu nhập, λ, nhân với tổng của các tích
giữa giá và lượng của thay đổi tiêu dùng. Tuy nhiên, đối với bất kỳ người nào,
mức thay đổi độ thoả dụng này chính là giá trị của lợi ích ròng của dự án. Thế nên,
với bất kỳ người nào thì
Chúng ta thu được kết quả là thay đổi trong mức phúc lợi xã hội được mô tả như
trong đó
là tác động cận biên lên phúc lợi xã hội của việc tăng độ thoả dụng của mỗi
cá nhân
là độ thoả dụng biên i của thu nhập của mỗi người
NBi là giá trị quy đổi ra tiền mặt của lợi ích ròng mà một người nào đó nhận được
(có thể là Biến đổi Bù đắp hay Biến đổi Tương đương).
Trong khi chúng ta dự đoán giá trị cho những thay đổi trong tiêu dùng mà một dự
án tạo ra là NBi, chúng ta không thể đo được độ thoả dụng thu nhập biên của mỗi
cá nhân theo cách cho phép chúng ta có thể so sánh chúng với các giá trị khác.
Điều này có nghĩa là chúng ta không thể tuyên bố rằng trên cơ sở đo lường là mỗi
một đôla thu nhập thêm Ông X có được có giá trị thấp hơn so với mỗi một đôla
thu nhập thêm của cô Y.
Tuy nhiên, cách có thể so sánh được là chúng ta lý giải xem việc nhận thêm một
đôla có tác động như thế nào đến sự giàu có hay độ thoả dụng của một người. Một
người có vai trò quan trọng đến mức độ nào đối phúc lợi xã hội.
Trong công thức trên, thay đổi trong phúc lợi xã hội ? dW là tổng gia quyền
(weighted sum) của lợi ích ròng của mỗi cá nhân. Sức nặng gắn cho lợi ích ròng
của mỗi cá nhân là tích của và độ thoả dụng cận biên của thu nhập. Trong đó,
là một biểu thức thể hiện tầm quan trọng của lợi ích ròng cá nhân đối với xã
hội. Kết hợp lại với nhau, hai khái niệm này hợp thành giá trị tương đối mà xã hội
gán cho một đơn vị thu nhập gia tăng của mỗi cá nhân. Đó cũng là giá trị mà xã
hội gán cho cá nhân nhận được một đô la lợi ích ròng từ dự án
Biểu thức là tầm quan trọng tương đối của người i trong hàm phúc lợi xã hội.
Nói cách khác, đây chính là mức độ quan tâm mà xã hội dành cho người đó. Trong
một xã hội quân bình tuyệt đối, giá trị này của mọi người có thể đều như nhau.
Mỗi người sẽ có tầm quan trọng ngang với người khác đối với phúc lợi xã hội.
Hoặc, mỗi người khác nhau sẽ có giá trị khác nhau. Điều này thể hiện ý tưởng cho
rằng xã hội quan tâm nhiều hơn đến một số người này hơn một số người khác. Có
thể trẻ em được đánh giá cao hơn vì chúng có ít khả năng tự chăm sóc cho bản
thân chúng hơn hay vì chúng đại diện cho tương lai của xã hội. Bác sĩ, lính cứu
hoả và giáo viên được đánh giá cao hơn vì tính chất những dịch vụ mà họ cung
cấp. Trái lại, tội phạm có thể bị định giá thấp hơn so với những công dân tuân thủ
pháp luật.
Thế nên, nhìn chung, việc quyết định xem liệu một dự án có tăng phúc lợi xã hội
hay không tuỳ thuộc vào việc biết chính xác xem dự án khiến cho độ thoả dụng
của mỗi cá nhân thay đổi như thế nào. Nếu bạn biết được hàm phúc lợi xã hội, bạn
sẽ biết độ thoả dụng của mỗi cá nhân tác động như thế nào đến phúc lợi xã hội
. Bạn có thể có một số giả định liên quan đến độ thoả dụng cận biên thu nhập
của mỗi cá nhân . Với giá trị được cho trước, bạn chỉ cần biết lợi ích
ròng NBi mà mỗi người được hưởng để quyết định được tác động của dự án lên
phúc lợi xã hội. Đương nhiên, phần lớn các dự án đều ảnh hưởng đến số người đủ
đông để khiến cho thậm chí ngay cả phiên bản đơn giản này của phúc lợi xã hội
không thể được triển khai. Phần sau sẽ bàn đến một số giả định cần thiết cho phân
tích CBA.
3.6 Một số Giả định Đơn giản hoá Đặc biệt
Nếu các giả định này mang tính thực tế thì các phương pháp thảo luận trong phần
trước sẽ cho phép một nhà phân tích quyết định xem tác động của một dự án đối
với phúc lợi xã hội và kết quả là đánh giá một cách chính xác liệu xem dự án đó có
được mong đợi hay không. Thật không may, trong nhiều trường hợp, ngay cả
phiên bản đơn giản của điều kiện phúc lợi xã hội như trình bày ở trên cũng đòi hỏi
thông tin nhiều hơn và đánh giá khách quan hơn có thể được. Ngay cả việc nhất trí
được về sức nặng nên gán cho mỗi cá nhân khác nhau cũng sẽ là một việc vô
vọng.
Giải pháp CBA vận dụng sức nặng giống nhau cho tất cả mọi người. Sức nặng xã
hội cho mỗi người là giống nhau. Có nghĩa là cho tất cả mọi người. Điều
này cho chúng ta một phương trình đơn giản cho thay đổi trong phúc lợi xã hội:
Điều này chỉ ra rằng thay đổi trong phúc lợi xã hội ngang bằng vói tổng các tích
của độ thoả dụng thu nhập cận biên cá nhân và lợi ích ròng cá nhân.
Giảđịnh đơn giản hoá này đáng được đưa ra để thảo luận.[7] Trước tiên, giảđịnh
rằng tất cả mọi người đều có tầm quan trọng ngang nhau trong một xã hội quân
bình. Thứ hai, giảđịnh này góp phần đảm bảo rằng các dự án tăng tổng tài sản
sẽđược coi làđáng mong đợi. Nguyên nhân là bởi việc tạo ra tài sản có ý nghĩa
quan trọng hơn việc dự án sẽ tạo ra tài sản cho ai. Cuối cùng, nếu trong thực tế có
một số người có vai trò quan trọng hơn một số người khác đối với xã hội thì các
chương trình chuyển nhượng tài sản trực tiếp có thểđược sử dụng để hỗ trợ những
người có giá trị lớn hơn một cách hiệu quả hơn nếu dự án được thực hiện dưới một
dạng khác.
Thuật ngữ biểu hiện độ thoả dụng thu nhập cận biên của người i. Một giả định
thường thấy trong kinh tế là độ thoả dụng thu nhập cận biên giảm dần, ý tưởng cho
rằng độ thoả dụng tăng thêm từ một gia tăng nhỏ trong thu nhập giảm dần khi thu
nhập tăng. Giả định này nhất quán với hành vi né tránh rủi ro như mua bảo hiểm
hay đa dạng hoá gói đầu tư. Nhìn một cách trực quan hơn, điều này nhất quán với
ý tưởng cho rằng $1000 thu nhập có thêm đối với một người ở trong tình trạng
nghèo đói cùng cực là quan trọng hơn so với một người tương đối sung túc. Thế
nên, đối với bất kỳ người nào, độ thoả dụng thu nhập cận biên giảm dần khi thu
nhập tăng dần.
Trong khi không thể so sánh độ thoả dụng giữa các cá nhân, nhiều người sẽ lập
luận rằng một sự gia tăng trong thu nhập sẽ có ý nghĩa nhiều hơn là việc tạo ra một
biến đối cho một người nghèo một cách cùng cực. Nếu mọi người được giả định là
ít nhiều có giống nhau về mặt năng lực hưởng thụ thì một đồng đô la thu nhập có
thêm đối với người nghèo sẽ có ý nghĩa lớn hơn so với người giàu. Trong trường
hợp đó, độ thoả dụng cận biên của người nghèo hơn là lớn hơn, của người giàu
hơn là nhỏ hơn. Người có thu nhập thấp hơn sẽ đóng vai trò quan trọng hơn trong
hàm phúc lợi xã hội. Hàm ý ở đây có nghĩa là, với những điều kiện khác giống
nhau, nên định giá chi phí lợi ích đối với người nghèo cao hơn đối với người giàu.
Điều này dẫn đến một số đề xuất về loại hình CBA trong đó sức nặng khác nhau
được gán cho người có thu nhập khác nhau (trích dẫn). Tuy nhiên, đây không
phải là cách tiếp cận chuẩn mực.
Vấn đề là ở chỗ, cũng như sức nặng xã hội cho mỗi cá nhân, người ta cũng không
nhất trí được về độ thoả dụng thu nhập cận biên cho mỗi cá nhân. Thế nên, cách
tiếp cận chuẩn một lần nữa lại là coi như độ thoả dụng thu nhập cận biên của mọi
người đều như nhau. Điều này cho chúng ta một phương trình cho thay đổi phúc
lợi xã hội do dự án gây ra như sau:
Trong phiên bản đơn giản này, phúc lợi xã hội còn tăng chừng nào tổng lợi ích
ròng của các cá nhân, tổng lợi ích ròng của dự án mang giá trị dương. Đơn giản
hơn, một dự án là đáng được mong đợi về mặt kinh tế nếu nó có lợi ích ròng
dương.
Công thức này được biết đến như tiêu chuẩn Kaldor-Hicks (KH). Kaldor (1939) đề
xuất tiêu chuẩn KH vào năm(1939) và được Hicks (1939) ứng dụng. Tiêu chuẩn
KH có thể được phát biểu như sau:
Một dự án là có thể chấp nhận được khi người được lợi từ dự án về lý thuyết có
thể bù đắp cho những người chịu thiệt hại do dự án gây ra. (Kaldor, 1939, tr. 549-
550).
Một phiên bản đơn giản hoá, tuy không nhất thiết phải là một phiên bản tương tự
của cách phát biểu này là một dự án là có thể chấp nhận được khi lợi ích cho người
được lợi lớn hơn thiệt hại gây ra cho những người bị hại hay tổng lợi ích ròng của
các cá nhân mang giá trị dương.[8]
Thử nghiệm này là những gì mà các nhà kinh tế muốn nói khi họ nói một cách
thực tiễn về hiệu quả kinh tế. Tiêu chuẩn này cũng được biết đến như thử nghiệm
đền bù tiềm tàng - potential compensation test (PCT) vì người được lợi có khả
năng bù đắp cho những người chịu thiệt hại. Lý giải ban đầu cho thử nghiệm này
là tách biệt những tính toán hiệu quả ra khỏi suy tính về sự cân bằng. Vì chỉ có
tính hiệu quả chứ không phải là độ công bằng mới được coi là thuộc lĩnh vực của
các nhà kinh tế.
Thảo luận Tiêu chuẩn Kaldor Hicks
Thử nghiệm do Kaldor đề xuất giả định rằng xuất phát điểm là hiện trạng. KH đo
lường lợi ích và chi phí của việc chuyển[9] từ trạng thái hiện tại sang một trạng
thái mới. Lợi ích được đo bằng WTP và chi phí được đo bằng WTA. Giá trị của
thay đổi là tổng của các biến bù đắp. Biến bù đắp lấy mức thoả dụng gốc làm xuất
phát điểm. Quyền được hưởng những lợi ích mà dự án đem lại không phải là
quyền cố hữu của người hưởng lợi. Họ phải trả phí để có được những lợi ích đó.
Bởi vậy, ta mới có WTP. Quyền được tránh không phải chịu những thiệt hại liên
quan đến dự án là quyền cố hữu của người chịu thiệt hại. Họ phải được đền bù và
ta có WTA. KH[10] là tiêu chuẩn phân tích chi phí lợi ích chuẩn. Nó bao hàm việc
đo biến bù đắp của một thay đổi phúc lợi xã hội.
Hãy tưởng tượng một dự án có tác động đến hai người, giúp họ chuyển từ một thế
giới này, thế giới A sang một thế giới khác, thế giới B. Như thể hiện trong Bảng
W-3A dưới đây, người 1 hưởng lợi từ dự án trong khi người 2 chịu thiệt.
Bảng W-3A: Giá trị của Dịch chuyển từ A sang B
WTP WTA
Người 1 - được lợi Biến đổi Bù đắp = $100 Biến đổi Tương đương = $120
Người 2 - bị hại Biến đổi Tương đương = $-75 Biến đổi Bù đắp = $-95
KH bổ sung WTP của người được lợi vào WTA của người bị hại. Điều này có
nghĩa là lợi ích được đo bằng WTP và thiệt hại được đo bằng WTA. Bởi vậy, kết
quả đo KH giá trị của việc chuyển từ A sang B là $100 ? $95 hay $5. (TQ hiệu
đính: người 1 chịu trả $100 để có 1 sự lợi ích $120, còn người 2 chịu nhận $95 bù
đắp cho sự thiệt thòi là $-75. Vậy lợi ích ròng cho xã hội là $5).
Lưu ý rằng cũng có thể đo thay đổi phúc lợi bằng tổng các Biến đổi Tương đương.
Tuy nhiên, cách làm này đưa lại đáp số không nhất quán với kết quả KH. Nó sẽ là
WTA cho lợi ích và WTP cho thiệt hại. Nếu như ở ví dụ trên thì kết quả đó sẽ là
$120-$75 hay $45.
Giả định rằng chúng ta dùng KH để đo lường thay đổi tiêu cực như thể hiện trọng
Bảng W-3B. Thay đổi này là việc chuyển từ trạng thái A sang trạng thái B. Lúc
đó, người 1 sẽ là người bị thiệt và người 2 sẽ là người được lợi. Lợi ích mà người
2 thu được sẽ được đo bằng WTP vì sự biến chuyển này sẽ là $+75. Thiệt hại của
người 1 sẽ được đo bằng WTA. Mức thiệt hại sẽ là $120. KH của một biến đổi từ
B sang A sẽ là $75 - $120 hay -$45. Đây là phủ định của giá trị biến đổi tương
đương của dịch chuyển từ A sang B. Điều này có nghĩa là giá trị tuyệt đối của kết
quả phép đo KH (dựa trên Biến đổi Bù đắp) đối với giá trị của biến đổi từ B sang
A bằng với giá trị tuyệt đối của phép đo Biến đổi Tương đương của thay đổi từ A
sang B.
Bảng W-3B: Giá trị của Thay đổi từ B sang A
WTP WTA
Người 1 - bị thiệt Biến đổi Bù đắp = $-100 Biến đổi Tương đương = $-120
Người 2 - được lợi Biến đổi Tương đương = $75 Biến đổi Bù đắp = $95
Đối với một hàng hoá thông dụng thì giá trị WTA của một người sẽ ngang bằng
hay lớn hơn WTP của họ. Điều này là bởi WTA được đo từ một vị trí phúc lợi cao
hơn so với WTP. Việc sử dụng WTA giả định rằng mỗi cá nhân có quyền không
chấp nhận bị mất mát và luôn mong có được nhiều của cải hơn so với ban đầu.
Ngoài ra, WTP bị bó buộc trong thu nhập của mỗi cá nhân trong khi WTA thì lại
không.
Quyết định có nên dịch chuyển hay không phụ thuộc vào nguyên trạng của thế
giới. Nếu bạn tưởng tượng rằng có hai trạng thái của thế giới, C và D thì kết quả
KH có thể ngụ ý cả hai điều, hoặc việc dịch chuyển từ C sang D là không được
mong đợi hoặc việc dịch chuyển từ D sang C là không được mong đợi. Xuất phát
điểm có thể quyết định kết quả. Đây không phải là vấn đề. Khuyến nghị chúng tôi
đưa ra là lấy hiện trạng làm xuất phát điểm. Cách tiếp cận như vậy nhất quán với
nhóm các quyền hợp pháp hiện hành. Trong một số trường hợp, các quyền theo
luật định là hoàn toàn không rõ ràng. Thế nên, xuất phát điểm cũng hoàn toàn
không rõ ràng. Trong trường hợp có thể coi việc trao quyền là lợi ích của bên nhận
quyền và WTP được vận dụng sao cho (hàng hoá hay quyền? tuỳ theo điều bạn
muốn nói tới?) có thể được đưa ra bán đấu giá theo quy tắc KH.[11]
Ví dụ: Những cây Bách tùng Cổ đại ở Headwaters Grove[12]
Headwaters Grove là khu vực có rừng bách tùng cổ thụ tư hữu ở vùng bắc
California. Giá trị gỗ của cây bách tùng cổ ước tính từ $100 triệu đến $500 triệu.
Trong khoảng 10 năm, Công ty Gỗ Thái Bình Dương đã trình lên Ban Lâm nghiệp
California quy hoạch khai thác gỗ và tiến hành đốn cây lấy gỗ. Tuy nhiên, cho đến
nay nỗ lực của công ty vẫn bị cản trở bởi các nhóm môi trường. Họ đã thành công
trong việc ngăn cản không cho công ty khai thác gỗ. Điều này cho thấy dù quyền
sở hữu tài sản lập pháp có thể thuộc về ai đi chăng nữa thì các quyền sở hữu tài
sản kinh tế có vẻ như vẫn thuộc về các nhóm môi trường.
Đây là trường hợp mà chi phí đốn cây, tức là WTA như thể hiện bởi các nhóm môi
trường vượt quá giá trị WTP của công ty. Thật ra, nếu không phải là tình huống
này thì công ty khai thác gỗ có khả năng đưa ra đền bù cho các nhóm liên quan
đến môi trường (có thể là bằng tiền mặt hay bằng quyền sở hữu đất/thuê đất). Đổi
lại họ sẽ thôi không phản đối việc khai thác khu Headwaters Grove lấy gỗ.
Nếu thay vì đó, công ty khai thác gỗ có quyền đốn cây thì phân tích chi phí lợi ích
của dự án liên quan sẽ cho kết quả là huỷ bỏ việc đốn gỗ. Trong trường hợp này,
lợi ích (không đốn cây) sẽ được định giá theo mức WTP của các nhóm môi trường
trong khi chi phí, tức là giá trị của lượng gỗ mất đi từ 100 triệu USD đến 500 triệu
USD sẽ được định giá tương ứng với mức WTA. Trong tình huống này, có thể giá
trị WTA vượt giá trị WTP và người ta sẽ quyết định đốn cây. Ta sẽ có kết quả trái
ngược vì hiện trạng ban đầu của thế giới và các quyền tài sản liên quan đã thay
đổi.
3.7 Thặng dư người tiêu dùng và Thặng dư nhà sản xuất
Mức WTP hay WTA liên quan đến một chương trình là thước đo chuẩn xác các
mức thay đổi phúc lợi xã hội. WTP hay WTA được đo bằng mức biến đổi đền bù
hay mức biến đổi tương đương. Vận dụng các cách thức tính toán này là tương đối
khó vì chúng đòi hỏi phải phân tích đường cầu đền bù hay đường cầu Hicks. Dọc
theo đường cầu này độ thoả dụng là không đổi. Quan sát hành động của người tiêu
dùng cho ta đường cầu thông thường hay đường cầu Marshal. Dọc theo đường cầu
này thu nhập không đổi. Tuy thông thường thì
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân Tích Chi Phí và Lợi Ích.pdf