Tài liệu Giới thiệu đất nước - Con người Brasil: Giới thiệu đất nước - con người Brasil
Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: Brasil, phiên âm tiếng Việt: Bra-xin, Hán Việt: Ba Tây), tên gọi
chính thức là Cộng hòa Liên bang Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: República Federativa do
Brasil).
Brasil là một quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ. Brasil là quốc gia có diện tích rộng thứ 5 thế giới
và dân số cũng đứng hàng thứ 5 thế giới. Nước này tiếp giáp với hầu hết các quốc gia và vùng
lãnh thổ ở Nam Mỹ: giáp với Venezuela, Guyana, Suriname và Guyane thuộc Pháp về phía bắc,
Colombia về phía tây bắc, Bolivia và Peru về phía tây, Argentina và Paraguay về phía tây nam
và Uruguay về phía nam. Phía đông Brasil là một đường bờ biển dài tiếp giáp với Đại Tây
Dương.
Phần lớn diện tích Brasil nằm giữa đường xích đạo và chí tuyến nam nên có khí hậu nhiệt đới
nóng ẩm. Đó là điều kiện hình thành nên một hệ động thực vật rất phong phú tại Brasil. Dân cư
Brasil tập trung chủ yếu ở những vùng duyên hải và những vùng đô thị lớn trong nội địa.
Brasil từn...
17 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 369 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giới thiệu đất nước - Con người Brasil, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giới thiệu đất nước - con người Brasil
Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: Brasil, phiên âm tiếng Việt: Bra-xin, Hán Việt: Ba Tây), tên gọi
chính thức là Cộng hòa Liên bang Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: República Federativa do
Brasil).
Brasil là một quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ. Brasil là quốc gia có diện tích rộng thứ 5 thế giới
và dân số cũng đứng hàng thứ 5 thế giới. Nước này tiếp giáp với hầu hết các quốc gia và vùng
lãnh thổ ở Nam Mỹ: giáp với Venezuela, Guyana, Suriname và Guyane thuộc Pháp về phía bắc,
Colombia về phía tây bắc, Bolivia và Peru về phía tây, Argentina và Paraguay về phía tây nam
và Uruguay về phía nam. Phía đông Brasil là một đường bờ biển dài tiếp giáp với Đại Tây
Dương.
Phần lớn diện tích Brasil nằm giữa đường xích đạo và chí tuyến nam nên có khí hậu nhiệt đới
nóng ẩm. Đó là điều kiện hình thành nên một hệ động thực vật rất phong phú tại Brasil. Dân cư
Brasil tập trung chủ yếu ở những vùng duyên hải và những vùng đô thị lớn trong nội địa.
Brasil từng là thuộc địa của Bồ Đào Nha trong quá khứ cho đến năm 1822 khi nước này trở
thành một quốc gia độc lập. Ngày nay, Brasil là một quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang.
Brasil hiện là nước có thu nhập trung bình và đồng thời là nền kinh tế lớn nhất khu vực Mỹ
Latinh.
Brasil còn là nước duy nhất tại Nam Mỹ nói tiếng Bồ Đào Nha và nước này có số dân theo đạo
Thiên Chúa lớn nhất thế giới. Về mặt văn hóa, Brasil rất nổi tiếng với lễ hội Carnaval sôi động
và là một cường quốc trong môn thể thao bóng đá.
Brasil thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 8 tháng 5 năm
1989[1].
Lịch sử
Thời kỳ Tiền Colombo
Những hóa thạch được tìm thấy tại Brasil là bằng chứng về việc con người đã đến định cư tại
vùng đất này ít nhất 8000 năm về trước[2]. Tuy nhiên câu hỏi về việc ai là người đầu tiên đến
Brasil vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi.
Nhìn chung các nhà khảo cổ học cho rằng đó là những thợ săn người châu Á di cư qua eo biển
Bering qua Alaska, xuống châu Mỹ rồi đến Brasil. Tuy nhiên một số nhà khảo cổ khác lại cho
rằng những cư dân cổ hơn tại Brasil có nguồn gốc gần với người châu Úc và châu Phi bản địa.
Trong khi người da đỏ phía tây dãy núi Andes phát triển những quốc gia thành thị có nền văn
hóa cao, tiêu biểu như Đế chế Inca ở Peru thì người da đỏ ở Brasil lại sống theo hình thức bán du
mục gồm săn bắn, đánh bắt cá và trồng trọt. Họ không có chữ viết hay xây dựng những công
trình kiến trúc quy mô cho nên việc tìm hiểu về họ rất khó khăn, chủ yếu là qua đồ gốm. Khi
người châu Âu tìm ra Brasil, mật độ thổ dân ở Brasil rất thấp, dân số chỉ khoảng 1 triệu người.
Ngày nay, thổ dân da đỏ ở Brasil một phần bị lai với các chủng tộc khác hoặc sống nguyên thủy
trong những rừng Amazon.
Thuộc địa Brasil
Brasil được khám phá bởi nhà thám hiểm Pedro Álvares Cabral người Bồ Đào Nha vào ngày 22
tháng 4 năm 1500.
Thời gian đầu, người Bồ Đào Nha không mấy mặn mà với Brasil mà tập trung nhiều hơn vào các
hoạt động thương mại với Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia.
Với nguồn tài nguyên và đất đai chưa khai phá hết sức lớn, nhiều nước châu Âu khác như Pháp
và Hà Lan cũng muốn lập thuộc địa tại Brasil song cuối cùng đều thất bại trước người Bồ Đào
Nha.
Tên gọi Brasil bắt nguồn từ tên một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của vùng đất này: cây vang
(trong tiếng Bồ Đào Nha là Pau-Brasil), một loại cây cung cấp nhựa để làm phẩm nhuộm màu
đỏ. Sang thế kỉ 17, mía đường dần thay thế cây vang để trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Brasil. Các quý tộc và chủ đất người Bồ Đào Nha đã lập ra các đồn điền trồng mía rộng lớn
và bắt hàng triệu người da đen từ châu Phi sang làm nô lệ làm việc trên các đồn điền này. Người
da đen bị đối xử rất khắc nghiệt nên họ đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh, mà tiêu biểu là cuộc khởi
nghĩa năm 1835 tại Salvador, Bahia [3]song thường không thành công.
Đế chế Brasil
Vào năm 1808, để chạy trốn khỏi quân đội Napoléon, hoàng gia Bồ Đào Nha cùng chính phủ đã
di cư đến thủ đô lúc bấy giờ của Brasil là Rio de Janeiro. Đây là sự di cư xuyên lục địa của một
hoàng tộc duy nhất trong lịch sử.
Năm 1815, vua João VI (Jean IV) của Bồ Đào Nha tuyên bố Brasil là một vương quốc hợp nhất
với Bồ Đào Nha và Algarve (nay là miền nam Bồ Đào Nha). Từ đó, về mặt danh nghĩa thì Brasil
không còn là một thuộc địa nữa nhưng quyền nhiếp chính thì vẫn nằm trong tay của Bồ Đào
Nha. Khi João VI trở về Bồ Đào Nha vào năm 1821, con trai ông là Pedro lên nối ngôi vua
Brasil.
Ngày 7 tháng 9 năm 1822, trước phong trào đấu tranh của người dân, Pedro đã tuyên bố Brasil ly
khai khỏi Bồ Đào Nha ("Độc lập hay là Chết") và thành lập Đế chế Brasil độc lập. Vua Pedro tự
phong danh hiệu Hoàng đế Pedro I của Brasil và thường được biết đến với tên gọi Dom Predo.
Hoàng đế Pedro I trở về Bồ Đào Nha vào năm 1831 do những bất đồng với các chính trị gia
Brasil. Con trai ông là vua Pedro II lên ngôi năm 1840 khi mới 14 tuổi sau 9 năm chế độ nhiếp
chính. Pedro II đã xây dựng một chế độ quân chủ gần giống nghị viện kéo dài đến năm 1889 khi
ông bị phế truất trong một cuộc đảo chính để thành lập nước cộng hòa.
Trước khi kết thúc thời gian cai trị của mình, vua Pedro II đã xóa bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ tại
Brasil vào năm 1888. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến ông bị giới chủ nô căm ghét và loại
bỏ khỏi ngai vàng
Nền Cộng hòa cũ (1889-1930)
Pedro II bị phế truất vào ngày 15 tháng 11 năm 1889 trong một cuộc đảo chính quân sự của
những người cộng hòa. Tướng Deodero de Fonseca, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã trở thành
tổng thống trên thực tế đầu tiên của Brasil.
Tên của đất nước được đổi thành Cộng hòa Hợp chúng quốc Brasil (đến năm 1967 thì đổi lại
thành Cộng hòa Liên bang Brasil như ngày nay). Trong khoảng thời gian từ năm 1889 đến năm
1930, Brasil là một quốc gia với chính phủ theo thể chế dân chủ lập hiến, với chức tổng thống
luân phiên giữa hai bang lớn là Sao Paulo và Minas Gerais.
Đến cuối thế kỉ 19, cà phê đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Brasil thay cho đường
mía. Việc buôn bán cà phê với nước ngoài đã làm nên sự thịnh vượng của Brasil về mặt kinh tế,
đồng thời cũng thu hút một số lượng đáng kể người nhập cư đến từ các quốc gia châu Âu, chủ
yếu là Italia và Đức.
Dân số tăng lên cùng với nguồn nhân công dồi dào đã cho phép đất nước Brasil phát triển các
ngành công nghiệp và mở rộng lãnh thổ vào sâu hơn trong lục địa.
Thời kỳ này, với tên gọi là "Nền Cộng hòa cũ" kết thúc vào năm 1930 do một cuộc đảo chính
quân sự mà sau đó Getulio Vargas lên chức tổng thống.
Chủ nghĩa dân túy và sự phát triển (1930-1964)
Getulio Vargas lên nắm quyền sau cuộc đảo chính của giới quân sự năm 1930. Ông đã cai trị
Brasil như một nhà độc tài với những thời kỳ dân chủ xen kẽ. Sau năm 1930, chính phủ Brasil
vẫn tiếp tục thành công trong các dự án phát triển nông nghiệp, công nghiệp và mở mang vùng
lãnh thổ nội địa rộng lớn của Brasil.
Tổng thống Getulio Vargas đã cai trị như một nhà độc tài trong hai nhiệm kỳ 1930-1934 và
1937-1945. Ông tiếp tục được bầu làm tổng thống Brasil trong khoảng thời gian 1951-1954.
Getulio Vargas đã có những ý tưởng mới về nền chính trị của Brasil để thúc đầy hơn nữa sự phát
triển đất nước. Ông hiểu rằng trong bối cảnh nền công nghiệp đang phát triển mạnh tại Brasil lúc
bấy giờ, những người công nhân sẽ trở thành một thế lực chính trị đông đảo tại đây, kèm theo
một hình thức quyền lực chính trị mới - chủ nghĩa dân túy.
Nắm bắt được điều đó, tổng thống Vargas đã kiểm soát nền chính trị của Brasil một cách tương
đối ổn định trong vòng 15 năm đến khi ông tự tử vào năm 1954.
Sau hai giai đoạn độc tài dưới thời tổng thống Getulio Vargas, nhìn chung chế độ dân chủ đã
chiếm ưu thế tại Brasil trong khoảng thời gian 1945-1964. Một trong những sự kiện quan trọng
diễn ra trong thời kỳ này là thủ đô của Brasil được chuyển từ thành phố Rio de Janeiro sang
thành phố Brasilia.
Chế độ độc tài quân sự (1964-1985)
Những khủng hoảng về mặt kinh tế, xã hội đã dẫn tới cuộc đảo chính của giới quân sự vào năm
1964. Cuộc đảo chính đã nhận được sự giúp đỡ một số chính trị gia quan trọng, ví dụ như José
de Magalhães Pinto, thống đốc bang Minas Gerais và nhận được sự hậu thuẫn của chính phủ Mỹ.
Sau cuộc đảo chính, một giai đoạn độc tài quân sự được thiết lập tại Brasil trong vòng 21 năm
với việc quân đội kiểm soát toàn bộ nền chính trị của đất nước.
Trong những năm đầu tiên sau đảo chính, kinh tế Brasil vẫn tiếp tục tăng trưởng nhanh do các
chính sách cải cách kinh tế được ban hành. Nhưng sau đó, những cải cách này đã không phát huy
được tác dụng và khiến nền kinh tế Brasil lâm vào tình trạng khó khăn. Nợ nước ngoài tăng lên
nhanh chóng trong khi hàng ngàn người Brasil bị chính phủ độc tài quân sự trục xuất, bắt giữ, tra
tấn và thậm chí bị giết hại.
Brasil từ năm 1985 đến nay
Năm 1985, Brasil bắt đầu quay trở lại tiến trình dân chủ. Tancredo Neves được bầu làm tổng
thống nhưng ông đã qua đời trước khi tuyên thệ nhậm chức, phó tổng thống Jose Sarney được cử
lên thay thế.
Vào tháng 12 năm 1989, Fernando Collor de Mello được bầu làm tổng thống và ông đã dành
những năm đầu tiên của nhiệm kỳ để khắc phục tình trạng siêu lạm phát của Brasil, lúc bấy giờ
đã đạt mức 25% mỗi tháng.
Những tổng thống kế nhiệm ông đã tiếp tục duy trì các chính sách kinh tế mở như tự do thương
mại và tiến hành tư nhân hóa các xí nghiệp của nhà nước[4].
Tháng 1 năm 1995, Fernando Henrique Cardoso nhậm chức tổng thống Brasil sau khi đánh bại
ứng cử viên cánh tả Lula da Silva. Ông đã có những kế hoạch cải cách kinh tế hiệu quả và đưa
Brasil vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998.
Năm 2000, tổng thống Condor đã yêu cầu phải công khai những tài liệu về mạng lưới các chế độ
độc tài quân sự tại Nam Mỹ.
Ngày nay, một trong những vấn đề khó khăn nhất của đất nước Brasil là sự bất bình đẳng trong
thu nhập cũng như nhiều vấn đề xã hội nhức nhối khác. Vào thập niên 1990, vẫn còn khoảng một
phần tư dân số Brasil sống dưới mức 1 đô la Mỹ một ngày. Những căng thẳng về xã hội và kinh
tế này đã giúp ứng cử viên cánh tả Lula de Silva thắng cử tổng thống vào năm 2002.
Sau khi nhậm chức, các chính sách kinh tế dưới thời tổng thống Cardoso vẫn được duy trì[5].
Mặc dù có một vài tai tiếng trong chính phủ song nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo của tổng
thống Silva đã thu được thành công nhất định.
Ông đã nâng mức lương tối thiểu từ 200 real lên 350 real trong vòng 4 năm, xây dựng chương
trình Fome Zero (Không có người đói) để giải quyết nạn đói trong tầng lớp người nghèo tại
Brasil. Những chính sách nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp và sự phụ thuộc vào dầu lửa cũng đã mang
lại hiệu quả tích cực.
Chính trị
Chính phủ
Theo hiến pháp, Brasil là một quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang, được tạo lập dựa trên 4
thực thể chính trị là Liên bang, bang, các chính quyền thành phố tự trị và quận liên bang[6].
Không có sự phân cấp cụ thể nào về quyền lực giữa các thực thể chính trị này. Chính quyền
Brasil được chia thành các nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hoạt động của các nhánh này diễn ra độc lập với nhau và đồng thời được kiểm tra và điều chỉnh
cân bằng sao cho thích hợp. Nhánh hành pháp và lập pháp được tổ chức ở cả 4 thực thể chính trị,
trong khi nhánh tư pháp chỉ được tổ chức ở cấp Liên bang và bang.
Nhánh hành pháp được thực thi bởi chính phủ, trong khi nhánh lập pháp được thực thi bởi cả
chính phủ và hai viện của quốc hội Brasil. Nhánh tư pháp hoạt động riêng rẽ với hai nhánh trên.
Về nhánh hành pháp, người đứng đầu nhà nước là tổng thống Brasil có nhiệm kỳ 4 năm và được
phép nắm tối đa 2 nhiệm kỳ. Đương kim tổng thống hiện nay của của nước này là ông Luiz
Inacio Lula da Silva, đắc cử ngày 27 tháng 10 năm 2002 và được tái bầu lại vào ngày 29 tháng
12 năm 2006.
Tổng thống có quyền chỉ định thủ tướng liên bang, có vai trò hỗ trợ cho tổng thống trong việc
điều hành đất nước. Về nhánh lập pháp, Quốc hội của Brasil được chia làm 2 viện: thượng viện
và hạ viện.
Thượng viện Liên bang Brasil gồm có 81 ghế, phân bố đều mỗi 3 ghế cho 26 bang và quận liên
bang (thủ đô) và có nhiệm kỳ 8 năm. Hạ viện có tổng cộng 513 ghế, được bầu cử theo nhiệm kỳ
4 năm và phân bố theo tỉ lệ bang.
Một trong những nguyên tắc chính trị của nền cộng hòa là hệ thống đa đảng, như một sự đảm
bảo về tự do chính trị. Hiện nay có tổng cộng 15 đảng chính trị lớn nhỏ có ghế trong Quốc hội
Brasil.
Bốn đảng lớn nhất hiện nay là Đảng Công nhân Brasil (PT), Đảng Dân chủ Xã hội Brasil
(PSDB), Đảng Vận động Dân chủ Brasil (PMDB) và Đảng Dân chủ (tiền thân là Đảng Mặt trận
Tự do - PFL).
Luật pháp
Luật pháp của Brasil dựa trên luật La Mã - Germania truyền thống[7]. Hiến pháp Liên bang,
được thông qua vào ngày 5 tháng 10 năm 1988 là bộ luật cơ bản nhất của Brasil. Tất cả những
quyết định của nhánh lập pháp và tòa án đều phải dựa trên Hiến pháp Brasil.
Các bang của Brasil đều có hiến pháp riêng của bang mình, nhưng không được trái với Hiến
pháp Liên bang. Các chính quyền thành phố và quận liên bang không có hiến pháp riêng mà có
bộ luật của riêng mình, gọi là luật cơ bản (leis orgânicas).
Quyền lực pháp lý được thực thi bởi nhánh tư pháp, mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt
Hiến pháp Brasil cũng cho phép Thượng viện Liên bang thông qua những quyết định về mặt luật
pháp.
Cơ quan quyền lực cao nhất trong ngành tư pháp của Brasil là Tòa án Liên bang Tối cao. Tuy
nhiên hệ thống tư pháp của Brasil bị chỉ trích làm việc kém hiệu quả trong vài thập kỉ qua trong
việc thực hiện nốt các bước cuối của việc xét xử. Các vụ kiện cáo thường mất tới vài năm để giải
quyết và đi đến phán quyết cuối cùng
Quan hệ ngoại giao và quân đội
Brasil là quốc gia dẫn đầu khu vực Mỹ Latinh về chính trị và kinh tế[9]. Tuy nhiên, những bất ổn
về kinh tế và xã hội trong lòng Brasil đã ngăn cản nước này tiến lên và trở thành một cường quốc
có ảnh hưởng lớn trên thế giới.
Trong suốt giai đoạn từ sau Thế chiến thứ hai đến thập niên 1990, các chính phủ Brasil đều tìm
cách mở rộng ảnh hưởng của nước này ra tầm quốc tế bằng cách tập trung phát triển kinh tế và
có một chính sách ngoại giao độc lập.
Những năm gần đây, Brasil ngày càng tăng cường quan hệ với các nước Mỹ Latinh láng giềng,
đồng thời đóng vai trò quan trọng trong các sứ mệnh của Liên Hiệp Quốc. Chính sách ngoại giao
của Brasil là có quan điểm hòa bình trong các vấn đề tranh chấp quốc tế và không can thiệp vào
tình hình nước khác.
Brasil là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế
giới và Khối Thị trường chung Nam Mỹ (Mercosur)...
Quân đội Brasil bao gồm 3 bộ phận chính là lục quân, hải quân và không quân. Lực lượng cảnh
sát được coi là một nhánh của quân đội trong hiến pháp nhưng nằm dưới sự chỉ huy của mỗi
bang. Brasil là quốc gia có lực lượng quân đội lớn nhất Mỹ Latinh, với tổng quân số là 287.000
quân nhân vào năm 2006.
Tổng thống Brasil cũng là tổng chỉ huy quân đội của nước này. Chi phí cho quân sự của Brasil
năm 2006 ước tính đạt khoảng 2,6% GDP. Brasil có chế độ nghĩa vụ quân sự dành cho nam giới
tuổi từ 21-45, kéo dài trong khoảng 9 đến 12 tháng, còn tự nguyện thì tuổi từ 17-45.
Tuy nhiên, với một nước có dân số lớn như Brasil thì đa phần nam giới nước này không phải gọi
nhập ngũ. Brasil là nước đầu tiên tại Nam Mỹ chấp nhận phụ nữ phục vụ trong quân ngũ vào
thập niên 1980[10]. Vai trò chủ yếu của quân đội Brasil là bảo vệ chủ quyền quốc gia và tham
gia vào các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại nước ngoài.
Phân chia hành chính
Các vùng
Lãnh thổ Brasil được chia thành năm vùng riêng biệt: Bắc, Đông Bắc, Trung Tây, Đông Nam và
Nam.
* Vùng Bắc chiếm 45,27% lãnh thổ Brasil nhưng lại là vùng có số lượng dân cư thấp nhất.
Vùng Bắc có mức độ công nghiệp hóa và phát triển thấp (ngoại trừ Manaus, là nơi có một khu
công nghiệp miễn thuế). Đây là nơi có nhiều rừng mưa nhiệt đới xanh tốt và nơi cư trú của một
số lượng lớn người da đỏ.
* Vùng Đông Bắc chiếm một phần ba dân số Brasil. Vùng này có nền văn hóa đa dạng, bao
gồm những ảnh hưởng văn hóa thời thuộc địa Bồ Đào Nha, văn hóa châu Phi và văn hóa thổ dân
da đỏ. Đây cũng là vùng nghèo nhất Brasil. Vùng Đông Bắc có mùa khô kéo dài và nhiều bãi
biển đẹp nổi tiếng.
* Vùng Trung Tây là vùng có diện tích lớn thứ hai tại Brasil, nhưng mật độ dân số lại thấp.
Thủ đô của Brasil - thành phố Brasília, thuộc vùng này. Đây là nơi có đầm lầy Pantanal lớn nhất
thế giới và một phần của rừng mưa Amazon nằm ở phía tây bắc.
Về khí hậu, vùng này có hai mùa riêng biệt: mùa mưa (từ tháng 10 tới tháng 4) và mùa khô (từ
tháng 5 tới tháng 9). Đây cũng là vùng nông nghiệp quan trọng nhất đất nước. Các thành phố lớn
nhất là: Brasilia, Goiania, Campo Grande và Cuiaba.
* Vùng Đông Nam là vùng giàu có tài nguyên và đông dân nhất nước. Riêng dân số vùng này
đã lớn hơn dân số của bất kỳ một nước Nam Mỹ nào khác. Đây là nơi có hai thành phố lớn nhất
của Brasil: Rio de Janeiro và Sao Paulo. Cảnh quan vùng này khá đa dạng, với trung tâm thương
mại chủ yếu của đất nước là São Paulo, thành phố lịch sử Minas Gerais và bãi biển Rio de
Janeiro nổi tiếng.
* Vùng Nam là vùng giàu có nhất tại Brasil (tính theo GDP bình quân đầu người), với tiêu
chuẩn sống tốt nhất cả nước. Đây cũng là vùng lạnh nhất Brasil, thỉnh thoảng có thể xuất hiện
băng giá và tuyết ở một số vùng cao.
Vùng này có nhiều người nhập cư Châu Âu sinh sống, chủ yếu là con cháu người Đức, người Ý
và người Slav, mang theo những ảnh hưởng rõ rệt về văn hóa quê hương cũ của họ. Các thành
phố lớn nhất là Curitiba và Porto Alegre.
Các bang
Brasil được tổ chức theo hình thức liên bang. Các bang của Brasil (estado) có quyền tự tổ chức
chính phủ, pháp luật, duy trì an ninh công cộng và thu thuế. Chính phủ bang do một thống đốc
bang (governador) đứng đầu, được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Ngoài ra còn có một
cơ quan lập pháp riêng của bang (assembléia legislativa).
Brasil gồm 26 bang và 1 quận liên bang (distrito federal), tổng cộng là 27 đơn vị liên bang. Quận
liên bang của Brasil bao gồm thủ đô của nước này, Brasilia.
Mỗi bang lại được chia thành nhiều hạt (municípios) với hội đồng lập pháp (câmara de
vereadores) và một thị trưởng (prefeito) riêng. Các hạt này có quyền tự trị và về mặt hệ thống là
độc lập với cả liên bang và chính phủ bang. Một hạt có thể gồm các thị trấn (distritos) khác bên
cạnh khu vực, tuy nhiên các khu đô thị tự trị này không có chính phủ riêng biệt.
Lãnh thổ và địa hình
Brasil là một quốc gia rộng lớn. Tổng diện tích của nước này là 8.511.965 km², chiếm tới một
nửa diện tích lục địa Nam Mỹ. Lãnh thổ Brasil tiếp giáp với các quốc gia và vùng lãnh thổ là
Argentina, Bolivia, Colombia, Guiana thuộc Pháp, Guyana, Paraguay, Peru, Suriname, Uruguay
và Venezuela. Brasil có quốc gia có diện tích lớn thứ năm trên thế giới, chỉ đứng sau Nga,
Canada, Mỹ và Trung Quốc. Lãnh thổ nước này trải dài trên 4 múi giờ khác nhau. Brasil còn có
một đường bờ biển dài 7367 km tiếp giáp với Đại Tây Dương.
Về địa hình, Brasil là một trong những nước có nhiều hệ thống sông lớn nhất trên thế giới. Nước
này có tổng cộng 8 bồn địa lớn, nước của các con sông đi qua các bồn địa này để thoát ra Đại
Tây Dương.
Sông Amazon là con sông lớn nhất thế giới tính theo dung lượng nước và đồng thời là con sông
dài thứ hai trên thế giới. Lưu vực sông Amazon rộng lớn và màu mỡ đã tạo điều kiện cho những
cánh rừng mưa nhiệt đới hùng vĩ phát triển cùng với một hệ thống sinh vật phong phú. Ngoài ra
còn phải kể đến hệ thống sông Parana và phụ lưu của nó, sông Iguacu, nơi có thác nước Iguacu
nổi tiếng.
Bên cạnh đó còn có các sông Negro, Sao Francisco, Xingu, Madeira và Tapajos. Một số hòn đảo
và đảo san hô trên Đại Tây Dương cũng thuộc chủ quyền của Brasil.
Địa hình của Brasil phân bố rất đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên nhìn chung ta có thể chia địa
hình của Brasil ra làm hai vùng chính. Phần lớn lãnh thổ ở phía bắc của Brasil là những vùng đất
thấp được che phủ bởi rừng Amazon. Trong khi đó, phía nam của nước này có địa hình chủ yếu
lại là đồi và những vùng núi thấp
Vùng bờ biển giáp Đại Tây Dương có nhiều dãy núi cao, có độ cao so với mặt nước biển là 2900
m. Đỉnh núi cao nhất Brasil là đỉnh Pico da Neblina, cao 3.014 m thuộc cao nguyên Guiana.
Khí hậu
Phần lớn diện tích Brasil nằm trong khoảng từ xích đạo cho đến đường chí tuyến nam. Mặc dù
90% lãnh thổ Brasil nằm trong vùng nhiệt đới nhưng giữa vùng này với vùng khác trên đất nước
vẫn có những sự khác biệt khá lớn về khí hậu.
Từ bắc xuống nam, khí hậu Brasil chuyển dần từ khí hậu nhiệt đới (giữa chí tuyến nam và xích
đạo) cho đến khí hậu cận nhiệt tương đối ôn hòa (nằm dưới chí tuyến nam). Brasil có tổng cộng
năm dạng khí hậu khác nhau: xích đạo, nhiệt đới, nhiệt đới khô, núi cao và cận nhiệt đới.
Nhiệt độ trung bình năm quanh đường xích đạo khá cao, trung bình đạt khoảng 25 °C[11]. Tuy
nhiên trong những ngày nóng bức nhất của mùa hạ, nhiệt độ tại một số vùng của Brasil có thể lên
tới 40 °C[12].
Miền nam Brasil có khí hậu tương đối cận nhiệt đới và có thể có sương giá về mùa đông. Tuyết
rơi có thể xảy ra ở những vùng núi cao như Rio Grande do Sul hay Santa Catarina. Lượng mưa
tại Brasil nhìn chung tương đối cao, khoảng 1000 đến 1500 mm mỗi năm.
Mưa tập trung nhiều hơn tại vùng lòng chảo Amazon nóng ẩm ở phía bắc, nơi lượng mưa có thể
lên đến 2000 mm mỗi năm hoặc thậm chí cao hơn. Tuy có một lượng mưa hàng năm lớn như vậy
song khu vực này cũng có mùa khô, kéo dài từ 3 tháng đến 5 tháng tùy theo vĩ độ.
Do nằm tại Nam bán cầu nên thời gian các mùa trong năm tại Brasil ngược lại so với các nước
Bắc bán cầu. Mùa hạ ở đây kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4, còn mùa đông lại nằm trong khoảng
từ tháng 5 đến tháng 11.
Trên thực tế, ở những vùng nằm gần xích đạo, sự chênh lệch về mùa gần như không đáng kể với
khí hậu nóng ẩm quanh năm, trong khi những vùng có khí hậu nhiệt đới thường chỉ có mùa mưa
và mùa khô. Tại vùng có khí hậu cận nhiệt ở phía nam, thời tiết chia ra đủ 4 mùa xuân, hạ, thu,
đông. Brasil cũng thường phải hứng chịu những trận bão lớn từ Đại Tây Dương đổ vào.
Môi trường
Brasil là quốc gia có độ đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới, hơn hẳn so với mọi quốc gia
khác[13]. Nước này có số lượng động vật có vú nhiều nhất trên thế giới, đứng thứ nhì về tổng số
các loài lưỡng cư và bướm, thứ ba thế giới về các loài chim và thứ năm thế giới về các loại bò
sát. Rừng nhiệt đới Amazon là ngôi nhà của nhiều loài thực vật và động vật độc đáo tại Brasil.
Về thực vật, ở Brasil người ta đã phát hiện được hơn 55.000 loài, xếp thứ nhất trên thế giới và
30% trong số đó là những loài thực vật đặc hữu của Brasil. Khu vực Rừng Đại Tây Dương là nơi
tập trung rất nhiều các loài thực vật khác nhau, bao gồm các loài nhiệt đới, cận nhiệt đới và rừng
ngập mặn.
Vùng Pantanal là một vùng đất ẩm và là nhà của khoảng 3500 loài thực vật trong khi Cerrado là
một trong những vùng savan đa dạng nhất trên thế giới. Về động vật, Brasil nổi tiếng với các loài
báo jaguar, báo sư tử, thú ăn kiến, cá piranha, loài trăn khổng lồ anaconda... và rất nhiều các loài
linh trưởng, chim và côn trùng khác chỉ có tại đất nước này.
Tuy nhiên trong mấy thập kỉ trở lại đây, sự phát triển kinh tế và gia tăng dân số quá mức[cần dẫn
nguồn] đang có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên của Brasil. Sự phá rừng lấy gỗ
và đất canh tác, bao gồm cả hợp pháp và bất hợp pháp đang tàn phá những khu rừng lớn tại nước
này, đe dọa gây ra những thảm họa nghiêm trọng về môi trường.
Từ năm 2002 đến năm 2006, rừng Amazon đã bị mất đi một phần diện tích xấp xỉ nước Áo[14].
Dự kiến đến năm 2020, ít nhất 50% các loài sinh vật tại Brasil sẽ đứng trước bờ vực tuyệt
chủng[14].
Trước tình hình này, chính phủ Brasil đã ban hành nhiều chính sách nhằm bảo về môi trường.
Một mạng lưới các khu vực bảo vệ đã được thiết lập trên diện tích hơn 2 triệu km² (khoảng một
phần tư diện tích Brasil) để bảo vệ những vùng rừng và các hệ sinh thái tại nước này. Tuy nhiên
công tác bảo vệ môi trường tại Brasil cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Kinh tế
Sở hữu nền nông nghiệp, khai mỏ, gia công và lĩnh vực dịch vụ lớn ở mức độ phát triển cao,
cũng như một lực lượng lao động dồi dào, GDP (theo sức mua tương đương) của Brasil vượt xa
nhiều quốc gia Mỹ Latinh khác, và là nền kinh tế chủ chốt của khối Mercosur. Brasil hiện nay đã
mở rộng sự hiện diện của mình trong nền kinh tế thế giới. Các sản phẩm xuất khẩu chính gồm
máy bay, cà phê, xe cộ, đậu nành, quặng sắt, nước cam, thép, dệt may, giày dép và thiết bị điện
tử.
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, Brasil là nền kinh tế lớn thứ chín thế giới theo
sức mua tương đương. Brasil có nền kinh tế đa dạng ở mức thu nhập trung bình với mức độ phát
triển rất khác nhau. Đa số các ngành công nghiệp lớn nằm ở phía Nam và phía Đông Nam. Đông
Bắc là vùng nghèo nhất Brasil, nhưng hiện đang thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài.
Brasil có lĩnh vực công nghiệp phát triển nhất Mỹ Latinh. Chiếm một phần ba GDP, các ngành
công nghiệp đa dạng của Brasil từ sản xuất ô tô, thép, hóa dầu tới máy tính, máy bay và các sản
phẩm tiêu dùng. Với nền kinh tế phát triển ổn định nhờ Kế hoạch Real, các công ty Brasil và các
công ty đa quốc gia đầu tư mạnh vào công nghệ và thiết bị mới, một phần lớn trong số đó được
nhập khẩu từ các công ty Bắc Mỹ.
Brasil cũng sở hữu một nền công nghiệp dịch vụ đa dạng và có chất lượng cao. Những năm đầu
thập niên 1990, lĩnh vực ngân hàng chiếm tới 16% GDP. Dù trải qua một quá trình tái cơ cấu
rộng lớn, công nghiệp dịch vụ tài chính nước này đã cung cấp tiền vốn cho nhiều công ty trong
nước sản xuất ra các loại hàng hóa phong phú, lôi cuốn nhiều nhà đầu tư nước ngoài mới, kể cả
các công ty tài chính lớn của Mỹ. Thị trường chứng khoán Sao Paulo và Rio de Janeiro đang trải
qua quá trình hợp nhất.
Theo bản báo cáo mới [15] của Ngân hàng Thế giới, mức độ thuận lợi trong kinh doanh tại các
thành phố nước này rất khác nhau. Thời gian và chi phí để đăng ký tài sản tại các thành phố ở
Brasil ở mức tốt.
Nhưng dù có những quy định như nhau trên toàn lãnh thổ, thời gian cần thiết để chuyển đổi tài
sản vẫn khác biệt nhiều tại từng thành phố.
Dù nền kinh tế Brasil có kích thước và tầm quan trọng lớn trong khu vực, những vấn đề đang
ngày càng phát triển như tham nhũng, nghèo đói và mù chữ vẫn là những cản trở lớn cho sự phát
triển.
Các sự kiện hiện tại
Sau nhiều thập kỷ có mức lạm phát cao và nhiều nỗ lực kiểm soát, Brasil đã thực thi một chương
trình ổn định kinh tế với tên gọi Kế hoạch Real (được đặt theo tên đồng tiền tệ mới real) vào
tháng 7 năm 1994 trong thời kỳ nắm quyền của tổng thống Itamar Franco.
Tỷ lệ lạm phát vốn từng đạt mức gần 5.000% thời điểm cuối năm 1993, đã giảm rõ rệt, ở mức
thấp 2,5% vào năm 1998. Việc thông qua Luật Trách nhiệm Thuế năm 2000 đã cải thiện tình
trạng thu thuế từ địa phương và từ các chính phủ liên bang, dù vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đầu tư
vào cơ sở hạ tầng và cải thiện các dịch vụ xã hội.
Trong thời cầm quyền của tổng thống Fernando Henrique Cardoso (1995-2002), chính phủ
Brasil đã có nỗ lực nhằm thay thế nền kinh tế chỉ huy nhà nước bằng một nền kinh tế theo định
hướng thị trường.
Nghị viện đã thông qua nhiều sửa đổi mở đường cho sự tham gia lớn hơn của khu vực tư nhân,
và khuyến khích lĩnh vực có đầu tư nước ngoài. Tới cuối năm 2003, chương trình tư nhân hóa
của Brasil, gồm cả việc tư nhân hóa các công ty thép, điện lực, viễn thông đã đạt giá trị hơn 90 tỷ
dollar.
Tháng 1 năm 1999, Ngân hàng Trung ương Brasil thông báo rằng nước này sẽ không giữ ổn định
tỷ giá đồng real với dollar Mỹ nữa, việc này khiến cho đồng tiền tệ nước này bị mất giá mạnh.
Nền kinh tế Brasil tăng trưởng 4,4% năm 2000, giảm xuống còn 1,3% năm 2001.
Năm 2002, những dự đoán rằng ứng cử viên tổng thống nhiều triển vọng Luis Inácio Lula da
Silva, sẽ từ chối thanh toán nợ, gây ra một cuộc khủng hoảng niềm tin sâu sắc khiến nền kinh tế
giảm sút tăng trưởng.
Tuy nhiên, khi đã trúng cử Lula tiếp tục theo đuổi các chính sách kinh tế của người tiền nhiệm.
Năm 2003, Tổng thống Lula đưa ra một chương trình kinh tế kham khổ bằng cách kiểm soát lạm
phát và tìm kiếm thặng dư nhằm đưa tình trạng nợ nần của Brasil về mức ổn định.
Năm 2007, kinh tế Brasil tăng trưởng ở mức 4,5%
Các vấn đề lớn
Nền kinh tế của Brasil vẫn đang phải đối đầu với những vấn đề lớn và cần những cải cách quan
trọng được đưa ra. So với những nước đang phát triển khác, những vấn đề nghiêm trọng là cơ sở
hạ tầng yếu kém, thu nhập phân bố không đều, chất lượng dịch vụ công thấp, tham nhũng, những
xung đột xã hội và tình trạng quan liêu của chính phủ vẫn tồn tại và đe dọa sự tăng trưởng kinh
tế.
Nợ công trong nước đã đạt tới kỷ lục từ trước tới nay và chi tiêu công cũng tăng thêm. Các loại
thuế đã chiếm một phần lớn thu nhập quốc gia và là một gánh nặng với mọi tầng lớp xã hội, làm
giảm các cơ hội đầu tư. Hơn nữa, việc thành lập doanh nghiệp cũng phải gánh chịu chi phí giấy
tờ cao và các thủ tục hành chính phức tạp.
Mức tăng trưởng kinh tế hiện nay của Brasil thấp hơn các nước Mỹ Latinh khác và hai cường
quốc mới nổi Ấn Độ, Trung Quốc. Brasil đã tụt 11 bậc trong bảng Chỉ số Tăng trưởng Cạnh
tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới trong giai đoạn 2003 – 2005
Năng lượng
Brasil là quốc gia đứng thứ mười thế giới về tiêu dùng năng lượng và thứ nhất tại khu vực Mỹ
Latinh. Tuy nhiên, Brasil cũng lại là nước khai thác dầu mỏ và khí đốt nhiều nhất trong khu vực
và là nhà sản xuất năng lượng ethanol lớn nhất trên thế giới.
Với sự đi tiên phong trong lĩnh vực sản xuất ethanol, Brasil được mệnh danh là một cường quốc
về năng lượng sinh học của thế giới. Năng lượng ethanol ở Brasil được sản xuất từ cây mía, loại
cây được trồng rất phổ biến tại Brasil.
Sau cuộc Khủng hoảng Dầu mỏ 1973, chỉnh phủ Brasil đã thiết lập chương trình Programa
Nacional do Álcool được chính phủ cấp kinh phí nhằm thay thế các nguồn nhiên liệu hóa thạch
như dầu mỏ bằng năng lượng ethanol thân thiện hơn với môi trường.
Chương trình đã thành công khi giảm số ô tô chạy bằng dầu hỏa tại Brasil xuống chỉ còn 10
triệu, từ đó giảm sự phụ thuộc của nước này vào các nguồn dầu nhập khẩu[19]. Dầu diesel sinh
học được kỳ vọng sẽ chiếm 2% tổng lượng dầu diesel trong năm 2008, rồi nâng lên 5% vào năm
2013.
Brasil đứng thứ ba thế giới về sản lượng thủy điện, chỉ sau Trung Quốc và Canada. Năm 2004,
thủy điện chiếm tới 83% tổng năng lượng sản xuất ra tại nước này. Brasil cùng với Paraguay sở
hữu đập nước Itaipu, nhà máy thủy điện lớn nhất thế giới hiện nay.
Khoa học kỹ thuật
Từ khi người Bồ Đào Nha xâm chiếm Brasil làm thuộc địa, nền khoa học kĩ thuật tại vùng đất
này hầu như không được chú trọng phát triển. Tuy là một thuộc địa rộng lớn và có vai trò quan
trọng đối với chính quốc Bồ Đào Nha nhưng Brasil lại là một vùng đất nghèo nàn và thất học.
Mãi cho đến tận đầu thế kỉ 19, tại Brasil vẫn không có bất kỳ một trường đại học nào trong khi
các thuộc địa láng giềng của Tây Ban Nha đã có những trường đại học đầu tiên ngay từ thế kỉ 16.
Năm 1807, hoàng gia Bồ Đào Nha đến Rio de Janeiro để tránh cuộc tấn công của Napoleon I và
đã khởi đầu cho thời kỳ phát triển khoa học và văn hóa tại vùng đất này.
Việc nghiên cứu khoa học tại Brasil ngày nay được thực hiện rộng rãi trong khắp các trường đại
học và học viện, với 73% nguồn quỹ được lấy từ những nguồn của chính phủ. Một số học viện
khoa học nổi tiếng của Brasil là Học viện Oswaldo Cruz, Học viện Butantan, Trung tâm Công
nghệ Vũ trụ của không quân, Tổ chức Nghiên cứu Nông nghiệp Brasil và INPE.
Brasil là quốc gia có cơ sở tốt nhất Mỹ Latinh trong lĩnh vực hàng không vũ trụ[20]. Vào ngày
14 tháng 10 năm 1997, Cơ quan Hàng không vũ trụ Brasil đã ký với NASA về việc cung cấp các
phần thiết bị cho ISS[21].
Uranium cũng được làm giàu tại Nhà máy Năng lượng Nguyên tử Resende để giải quyết phần
nào nhu cầu năng lượng của quốc gia. Brasil cũng là một trong hai nước ở khu vực Mỹ Latinh có
phòng thí nghiệm máy gia tốc Synchrotron, một hệ thống thiết bị nhằm nghiên cứu nhiều ngành
khoa học khác nhau như vật lí, hóa học, khoa học vật liệu và khoa học đời sống
Nhân khẩu
Đa phần người Brasil ngày nay có tổ tiên là người Bồ Đào Nha từ thời nước này còn là thuộc địa
của Đế chế Bồ Đào Nha (từ thế kỷ 16 đến thế kỉ 18) và những người dân di cư Bồ Đào Nha (thế
kỷ 19 và thế kỉ 20), và sau đó là người nhập cư Ý.
Những khu định cư Bồ Đào Nha bắt đầu xuất hiện tại Brasil sau năm 1532. Cho tới khi giành
độc lập năm 1822, người Bồ Đào Nha vẫn là những người Châu Âu duy nhất thực hiện thành
công chính sách thực dân ở nước này và nền văn hóa Brasil chủ yếu dựa trên văn hoá Bồ Đào
Nha.
Các nước Châu Âu khác cũng có một số sự hiện diện tại Brasil trong giai đoạn thuộc địa. Người
Hà Lan và người Pháp đã tìm cách thực dân hóa Brasil trong thế kỷ 17, nhưng thời gian họ có
mặt chỉ kéo dài vài thập kỷ.
Người da đỏ bản xứ Brasil (khoảng 3-5 triệu người) phần lớn đã bị tiêu diệt hay đồng hóa bởi
người Bồ Đào Nha. Từ đầu thời kỳ thực dân hoá Brasil, những cuộc hôn nhân lai chủng giữa
người Bồ Đào Nha và những người Brasil bản xứ đã trở nên phổ biến. Ngày nay, Brasil có
khoảng 700.000 dân bản xứ, chiếm chưa tới 1% dân số nước này.
Brasil cũng có một số lượng lớn người da đen, là con cháu của những người nô lệ Châu Phi bị
bắt tới đây từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19. Hơn 3 triệu người Châu Phi đã bị bán và đem qua Brasil
cho tới khi chế độ buôn bán nô lệ chấm dứt vào năm 1850.
Chủ yếu họ bị bắt đi từ Angola, Nigeria, Benin, Togo, Ghana, Côte d'Ivoire và São Tomé e
Príncipe. Những người Châu Phi này sau đó đã lai tạp với người Bồ Đào Nha, trở thành một bộ
phận dân cư lai khá lớn tại Brasil.
Bắt đầu thế kỷ 19, chính phủ Brasil đã khuyến khích những người Châu Âu nhập cư tới đây để
thay thế nguồn nhân công của các nô lệ cũ. Những người nhập cư không phải là người Bồ Đào
Nha đầu tiên tới định cư ở Brasil là người Đức vào năm 1824.
Năm 1869 những người Ba Lan đầu tiên đặt chân tới Brasil. Tuy nhiên đợt di cư mạnh nhất của
người Châu Âu tới nước này chỉ bắt đầu sau năm 1875, khi những người nhập cư từ Ý, Bồ Đào
Nha và Tây Ban Nha tới đây tăng mạnh. Trong giai đoạn 1870 - 1953, Brasil đã thu hút hơn 5,5
triệu người nhập cư[24], bao gồm gần 1.550.000 người Ý, 1.470.000 người Bồ Đào Nha,
650.000 người Tây Ban Nha, 210.000 người Đức, 190.000 người Nhật, 120.000 người Ba Lan
và 650.000 từ nhiều quốc gia khác.
Những con số này có thể còn kém xa thực tế, bởi những người vợ đi cùng không được tính vào,
một số lượng lớn những người nhập cư bất hợp pháp, thay đổi tên họ để giấu quốc tịch, và những
văn bản lưu trữ của Brasil cũng đã mất mát nhiều. Brasil là nước có số lượng người Ý ở nước
ngoài lớn nhất thế giới, với tổng số 25 triệu người. Brasil cũng là nước có cộng đồng người
Liban đông nhất thế giới, với khoảng 8 triệu người.[cần dẫn nguồn]
Bắt đầu từ thế kỷ 20, Brasil cũng đã tiếp nhận một số lượng lớn người Châu Á: người Hàn Quốc,
người Trung Quốc, người Đài Loan và người Nhật. Người Nhật là cộng đồng thiểu số Châu Á
lớn nhất tại Brasil, và những người Nhật Bản-Brasil là cộng đồng người Nhật bên ngoài nước
Nhật lớn nhất với 1,6 triệu người.
Dân số Brasil chủ yếu tập trung dọc bờ biển, trong nội địa mật độ dân số khá thấp. Dân chúng
các bang miền nam chủ yếu là con cháu người Âu da trắng, trong khi đa số dân chúng miền bắc
và đông bắc là người lai giữa các chủng tộc (người da đỏ Châu Mỹ, người Phi, người Âu).
Chủng tộc và nòi giống
Tổ tiên người Brasil hiện nay khá đa dạng, gồm người da đỏ Châu Mỹ (chủ yếu là người Tupi và
Guarani), người Châu Âu (chủ yếu là Bồ Đào Nha, Ý, Đức, Tây Ban Nha) và người Châu Phi
(chủ yếu là Bantu và Yoruba), với một số cộng đồng thiểu số Châu Á (chủ yếu là Nhật Bản),
Liban, và Ả Rập Syrie.
Miền nam Brasil với đa số dân là con cháu người Âu còn ở phía đông nam và trung tây Brasil số
lượng người da trắng tương đương người Phi và những người Brasil đa chủng khác. Đông bắc
Brasil có đa số dân là con cháu người Bồ Đào Nha và Châu Phi, trong khi miền bắc Brasil có số
lượng hậu duệ người da đỏ Châu Mỹ lớn nhất nước.
Theo hiến pháp năm 1988 của Brasil, phân biệt chủng tộc là một tội không được bảo lãnh và
buộc phải ngồi tù. Đạo luật này được thi hành rất chặt chẽ.[27]
Hơn 90 triệu người Brasil có nguồn gốc từ các làn sóng di cư từ nước ngoài vào. Những nhóm
người đông đảo nhất là người thuộc bán đảo Iberia, Ý và người Đức ở Trung Âu. Các nhóm
thiểu số gồm người Slave (đa số là người Ba Lan, Ukraina và Nga). Những nhóm nhỏ hơn gồm
người Armenia, người Phần Lan, người Pháp, người Hy Lạp, người Hungary, người Romania,
người Anh và người Ireland. Trong số các nhóm thiểu số còn có 200.000 người Do Thái, chủ yếu
là Ashkenazi.
Dân nhập cư Brasil có cơ cấu như sau:
* 79 triệu người Châu Phi và người đa chủng
* 13 triệu người Ả Rập, chủ yếu từ Syrie và Liban ở Đông Địa Trung Hải
* 1,6 triệu người Châu Á, chủ yếu từ Nhật Bản
Ngôn ngữ
Tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính thức duy nhất tại Brasil. Toàn bộ dân chúng sử dụng thứ
tiếng này và rõ ràng nó là ngôn ngữ duy nhất được sử dụng trong các trường học, trên các
phương tiện truyền thông, trong kinh doanh và mọi mục đích hành chính.
Hơn nữa, Brasil là nước nói tiếng Bồ Đào Nha duy nhất tại Châu Mỹ nên nó đã biến ngôn ngữ
này trở thành một trong những đặc trưng riêng của quốc gia. Tiếng Bồ Đào Nha ở Brasil đã phát
triển độc lập với tiếng mẹ đẻ Châu Âu, và đã trải qua ít sự thay đổi ngữ âm hơn so với tiếng Bồ
Đào Nha gốc, vì thế nó thường được gọi là ngôn ngữ "Camões", vốn đã tồn tại ở thế kỷ 16,
tương tự như thứ ngôn ngữ Bồ Đào Nha ở phía Nam Brasil ngày nay, chứ không phải là thứ
ngôn ngữ được dùng ở Bồ Đào Nha ngày nay.
Tiếng Bồ Đào Nha Brasil có ảnh hưởng lớn tới các ngôn ngữ da đỏ Châu Mỹ và ngôn ngữ Châu
Phi. Nói chung, những người nói bất kỳ một biến thể nào đều có thể hiểu được biến thể kia,
nhưng họ, những phương ngữ Bồ Đào Nha có nhiều khác biệt lớn với nhau về âm điệu, từ vựng
và chính tả.
Nhiều ngôn ngữ bản xứ được sử dụng hàng ngày trong các cộng đồng thổ dân, chủ yếu ở phía
bắc Brasil. Dù nhiều trong số các cộng đồng đó tiếp xúc thường xuyên với người Bồ Đào Nha,
hiện nay việc dạy các ngôn ngữ bản xứ đang được khuyến khích.
Một số ngôn ngữ khác được con cháu những người nhập cư sử dụng, họ thường có khả năng nói
cả hai thứ tiếng, tại các cộng đồng nông nghiệp ở phía Nam Brasil. Những ngôn ngữ khác được
dùng nhiều nhất là tiếng Đức và tiếng Ý. Ở thành phố São Paulo, có thể gặp những cộng đồng sử
dụng tiếng Nhật như tại Liberdade.
Tiếng Anh là một phần trong chương trình giảng dạy của các trường cao học, nhưng ít người
Brasil thực sự thông thạo ngôn ngữ này. Đa số những người sử dụng tiếng Bồ Đào Nha đều có
thể hiểu tiếng Tây Ban Nha ở mức độ này hay mức độ khác vì sự tương đồng giữa hai ngôn ngữ
cùng hệ Latinh.
Giáo dục và y tế
Hiến pháp Brasil và Luật Giáo dục Brasil ban hành năm 1996 xác định chính quyền liên bang,
tiểu bang, quận liên bang và các đô thị tự trị tự quản lý và điều hành hệ thống giáo dục của mình.
Mỗi hệ thống giáo dục tự chịu trách nhiệm về việc duy trì hoạt động, quản lý cơ cấu và các
nguồn tài chính của mình. Hiến pháp mới của Brasil cũng quy định dành 25% tiền thuế tiểu bang
và đô thị tự trị cũng như 18% tiền thuế của liên bang cho giáo dục[28].
Hệ thống trường tư được thành lập tại Brasil để hoàn thiện những thiết sót của hệ thống trường
công. Vào năm 2003, tỉ lệ người biết chữ ở Brasil đạt 88%, và đạt 93,2% đối với độ tuổi từ 15
đến 19 tuổi.
Tuy nhiên theo UNESCO, nền giáo dục Brasil vẫn còn nhiều bất cập và chất lượng thấp, đặc biệt
trong hệ thống trường công. Giáo dục bậc cao tại Brasil bao gồm các trường đại học và các
trường hướng nghiệp.
Hệ thống chăm sóc sức khỏe được điều hành và cung cấp bởi các cấp chính quyền, trong khi hệ
thống y tế tư nhân cũng được thành lập thêm để hoàn chỉnh.
Hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Brasil chưa phát triển hoàn thiện, đặc biệt ở những bang nghèo và
vẫn còn nhiều bất cập. Những vấn đề chủ yếu của nền y tế Brasil là tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh,
trẻ em và người mẹ còn khá cao.
Ví dụ như năm 2008, tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh tại Brasil là 26,67/1000 trẻ[29]. Ngoài ra các
nguyên nhân tử vong chủ yếu khác ở Brasil còn có các bệnh dịch truyền nhiễm và không truyền
nhiễm, tai nạn giao thông, bạo lực và tự tử. Nạn HIV/AIDS cũng là một trong những bệnh dịch
hàng đầu đe dọa sức khỏe của người dân Brasil.
Các vấn đề xã hội
Chênh lệch giàu nghèo
Dù là một nước lớn với những nguồn tài nguyên phong phú và một nền kinh tế khá mạnh, Brasil
hiện vẫn có hơn 22 triệu người sống dưới mức nghèo khổ. Gộp cả những người sống trong tình
trạng khá nghèo (có thu nhập không đủ cho những nhu cầu cơ bản), con số này có thể lên tới hơn
53 triệu người (khoảng 30% dân số).
Đây là vấn đề đáng báo động, và nó góp phần vào sự bất bình đẳng kinh tế của đất nước, nước
này được coi là đứng hàng đầu thế giới theo hệ số Gini.
Sự nghèo khổ tại Brasil được thể hiện bởi số lượng lớn các khu ổ chuột (favela), đa số chúng đều
tồn tại ở những khu vực thành thị và ở những vùng xa xôi nơi ít có những phát triển kinh tế và xã
hội.
Vùng Đông Bắc gặp phải những vấn đề kinh niên vì khí hậu nửa khô cằn ở những vùng nội địa,
những đợt hạn hán thường kỳ ảnh hưởng tới cuộc sống của hàng triệu người[30].
Nỗ lực gần đây nhất nhằm giảm nhẹ tình trạng này đang được tổng thống đương nhiệm Luiz
Inacio Lula da Silva thử nghiệm. Ông đã đề xuất một chương trình loại trừ nạn đói (Fome Zero)
và tăng ngân sách dành cho các chương trình phân phối công bằng từng được đưa ra trước đó,
nhưng có nhiều tranh cãi về hiệu quả thực sự của những chương trình này.
Trong vòng 12 năm qua, thuế suất của Brasil đã tăng đều hàng năm từ 28% GDP quốc gia lên tới
37% [31]. Dù vậy, dưới con mắt của người dân những cải thiện trong các lĩnh vực công cộng do
chính phủ liên bang và các bang hay các chính phủ địa phương là chưa đủ (trong một số trường
hợp, chưa có một cải thiện nào cả) [32]. Mọi người tin rằng hai nguyên nhân chính của tình trạng
này là:
* Lãi suất cao của những khoản nợ của chính phủ [33].
* Tham nhũng tràn lan [34]: Từ cuối thời kỳ nắm quyền của quân đội và tái lập tự do báo chí
trong nước, những vụ scandal liên tục với sự dính líu của cả nhánh hành pháp, lập pháp và tư
pháp. Nạn hối lộ, tham ô, rửa tiền và ngân hàng nặc danh đã trở thành hệ thống.
Khoảng 16 triệu người dân Brasil chính thức được coi là mù chữ.
Tội phạm
Trong những thập kỷ qua, tình trạng tội phạm trên khắp Brasil đã trở thành một vấn nạn. Tỷ lệ
giết người ở Brasil cao hơn bốn lần so với Mỹ, và đa số các vụ tội phạm không được khám phá.
Những vụ tội phạm đường phố là một vấn đề đau đầu cho các quan chức địa phương, đặc biệt
vào buổi tối, trong khi ở những vùng nông thôn, những vụ cướp bóc dọc đường xảy ra thường
xuyên.
Rio de Janeiro được coi là có tình trạng tội phạm tồi tệ nhất nước. Những vụ bắn nhau trong các
khu nhà ổ chuột giữa cảnh sát và tội phạm hay giữa các băng nhóm tội phạm với nhau trở nên
quá quen thuộc, tương tự như một cuộc chiến tranh du kích trong đô thị.
Các quan chức thành phố hầu như không thể kiểm soát được khu vực bên trong các khu ổ chuột,
khiến chúng trở thành hang ổ của những kẻ buôn bán ma tuý, thậm chí một số tên đã bị bỏ tù
nhưng vẫn điều hành đường dây của chúng.
Thậm chí có điều luật cho phép từ 10 giờ chiều tới 6 giờ sáng, các lái xe được phép không dừng
khi có hiệu đèn bởi nguy cơ cao bị tấn công hay bắt cóc vào ban đêm
Văn hoá
Những ảnh hưởng khác nhau
Văn hóa của Brasil chủ yếu dựa trên nền văn hóa của Bồ Đào Nha. Nước này đã từng là thuộc
địa của Bồ Đào Nha trong vòng ba thế kỉ và những người dân di cư Bồ Đào Nha đã mang đến
cho Brasil những nền tảng quan trọng của nền văn hóa nước này là tiếng Bồ Đào Nha, Đạo
Thiên chúa và kiến trúc. Bên cạnh đó còn có những phong tục tập quán và lối sống đặc trưng của
người dân Bồ Đào Nha.
Là một đất nước đa chủng tộc với nhiều màu sắc văn hóa, Brasil còn chịu ảnh hưởng của nhiều
dân tộc khác nữa. Những người thổ dân châu Mỹ có ảnh hưởng đến vốn từ vựng và ẩm thực của
Brasil, trong khi người da đen gốc châu Phi, vốn được mang đến Brasil để làm nô lệ trước kia,
lại có ảnh hưởng quan trọng trong âm nhạc và các điệu nhảy của nước này.
Vào thế kỉ 19 và thế kỉ 20, những dòng người nhập cư đến từ Ý, Đức, Tây Ban Nha, Nhật Bản,
Trung Đông đã đến Brasil và thiết lập nên những cộng đồng lớn sinh sống với nhau tại các thành
phố, tạo nền những dấu ấn độc đáo khác nhau và tập trung chủ yếu tại miền nam Brasil.
Văn học
Một trong những văn bản đầu tiên viết về đất nước Brasil là lá thư của Pêro Vaz de Caminha gửi
cho vua Manuel I của Bồ Đào Nha, người ghi chép trên tàu của Pedro Álvares Cabral, nhà thám
hiểm đã khám phá ra đất nước Brasil.
Tiếng Bồ Đào Nha có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với nền văn học của Brasil. Trong thời kỳ
thuộc địa, những nhà văn tại Brasil đã cho ra đời nhiều tác phẩm văn học về sử thi, thơ và kịch
phản ánh về cuộc sống và những sự kiện diễn ra trên đất nước này.
Một trong những nhà văn nổi tiếng nhất thời kỳ này là cha António Vieira, một linh mục dòng
Tên với những tác phẩm mang phong cách văn học Baroque. Năm 1822, Brasil giành được độc
lập và sau đó là những chuyển biến mới trong nền văn học của nước này.
Chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện cùng với những tác phẩm văn học về những người thổ dân và
người da đen, cũng như phản ánh và quan tâm hơn đến các vấn đề xã hội. Tiêu biểu là nhà văn
Gonçalves Dias và José de Alencar đã viết nhiều tác phẩm về những người dân bản xứ Brasil,
hay nhà văn Antônio Castro Alves đã viết về những nỗi khốn khổ của người nô lệ da đen.
Đến giữa thế kỉ 19, chủ nghĩa lãng mạn dần thoái trào và nhường chỗ cho những tác phẩm thuộc
chủ nghĩa hiện thực. Văn xuôi được sử dụng nhiều hơn. Với ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên,
các tác phẩm văn học thời kỳ này phản ánh nhiều phương diện và tầng lớp xã hội. Hai nhà văn
lớn nhất thời kỳ này là Machado de Assis và Euclides da Cunha. Thế kỉ 20 chứng kiến sự phát
triển của chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại trong văn học Brasil với những tên tuổi như Mário
de Andrade, Jorge Amado...
Kiến trúc
Nền kiến trúc của Brasil bắt đầu từ thời kỳ thuộc địa Bồ Đào Nha, khi những pháo đài trung cổ
đầu tiên được người Bồ Đào Nha thiết lập tại đây từ khoảng năm 1530. Trong thời kỳ thuộc địa,
những công trình lớn chủ yếu được xây dựng là các nhà thờ và thánh đường mang đậm ảnh
hưởng của phong cách kiến trúc Baroque Bồ Đào Nha.
Nhiều thị trấn và thành phố cổ ở Brasil được xây dựng với nhiều nét giống với các thành phố của
châu Âu. Đầu thế kỉ 19, tại Brasil bắt đầu xuất hiện trường phái kiến trúc tân cổ điển. Rồi đến
giai đoạn cuối thể kỉ 19 - đầu thế kỉ 20, các tòa nhà ở Brasil lại chịu ảnh hưởng của phong cách
kiến trúc Pháp. Bên cạnh đó, những dòng người nhập cư khác cũng mang đến cho kiến trúc
Brasil nhiều sắc thái khác nhau, ví dụ như kiến trúc kiểu Đức tại các bang miền nam Brasil.
Sang thế kỉ 20, kiến trúc hiện đại Brasil đã có nhiều bước phát triển vượt bậc. Oscar Niemeyer là
một trong những kiến trúc sư nổi tiếng nhất ở Brasil. Ông đã phụ trách rất nhiều công trình lớn
tại thủ đô Brasilia và thành phố này đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Tôn giáo
Tôn giáo chủ yếu tại Brasil là Đạo Thiên chúa. Nước này cũng là nước có cộng đồng người theo
đạo Thiên chúa lớn nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, số lượng tín đồ theo đạo Tin lành cũng đang
ngày càng tăng lên...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gioi_thieu_dat_nuoc_con_nguoi_brasil_2205_2181331.pdf