Tài liệu Gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống chữ hán của dân tộc: 50 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
Ngôn ngữ là ph ương tiện chuyển tải văn hoá, bản thân ngôn ngữ không phải là văn hoá. Ngôn ngữ ghi chép, phản ánh, biểu đạt,
truyền bá văn hoá. Văn hoá là sản phẩm của thực
tiễn xã hội và lịch sử xã hội, nó không chỉ đư ợc
phản ánh qua ngôn ngữ, mà còn được thể hiện
bằng những phư ơng thức riêng trong đời sống
cộng đồng dân tộc. Ngôn ngữ được hình thành
và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử nhân văn
ở một địa vực nhất định, ngôn ngữ mang đậm
những yếu tố văn hoá dân tộc. Nói cách khác, yếu
tố văn hoá dân tộc là thành phần quan trọng tạo
nên văn hoá ngôn ngữ của một dân tộc. Chính
vì thế, trong quá trình học tập và nghiên cứu
ngôn ngữ của bất kỳ một dân tộc nào đều cần
chú trọng tìm hiểu những đặc trư ng văn hoá hàm
chứa trong ngôn ngữ của dân tộc đó.
Chữ Hán trong nền văn hóa Việt Nam đã tồn tại
theo quy luật thăng trầm, thịnh suy. Ở thời kỳ Bắc
thuộc, chữ Hán cùng với chữ Nôm đã phát tr...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 492 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống chữ hán của dân tộc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
50 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
Ngôn ngữ là ph ương tiện chuyển tải văn hoá, bản thân ngôn ngữ không phải là văn hoá. Ngôn ngữ ghi chép, phản ánh, biểu đạt,
truyền bá văn hoá. Văn hoá là sản phẩm của thực
tiễn xã hội và lịch sử xã hội, nó không chỉ đư ợc
phản ánh qua ngôn ngữ, mà còn được thể hiện
bằng những phư ơng thức riêng trong đời sống
cộng đồng dân tộc. Ngôn ngữ được hình thành
và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử nhân văn
ở một địa vực nhất định, ngôn ngữ mang đậm
những yếu tố văn hoá dân tộc. Nói cách khác, yếu
tố văn hoá dân tộc là thành phần quan trọng tạo
nên văn hoá ngôn ngữ của một dân tộc. Chính
vì thế, trong quá trình học tập và nghiên cứu
ngôn ngữ của bất kỳ một dân tộc nào đều cần
chú trọng tìm hiểu những đặc trư ng văn hoá hàm
chứa trong ngôn ngữ của dân tộc đó.
Chữ Hán trong nền văn hóa Việt Nam đã tồn tại
theo quy luật thăng trầm, thịnh suy. Ở thời kỳ Bắc
thuộc, chữ Hán cùng với chữ Nôm đã phát triển
mạnh mẽ, đủ để lưu lại cho ngày nay nhiều trước
tác, dịch phẩm liên quan đến sử học, văn học,
phật học, y học v.v... Đến thời kỳ độc lập tự chủ,
trải qua các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê, Lý, Trần,
Hồ, hậu Lê, Nguyễn, chữ Hán đóng vai trò công
cụ hàng đầu của văn học bác học của Việt Nam;
GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY NHỮNG
GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG CHỮ HÁN CỦA DÂN TỘC
ĐINH QUANG TRUNG
Học viện Khoa học Quân sự
TÓM TẮT
Ngôn ngữ là ph ương tiện chuyển tải văn
hoá. Văn hoá chữ Hán từ lâu đã trở thành
tài sản tinh thần chung của nhân loại. Quá
trình giao lưu văn hóa không có sự phân biệt
văn hóa tốt xấu. Việc nghiên cứu ảnh hưởng
giữa các nền văn hóa khác nhau là nhằm giới
thiệu với thế giới những nét đặc sắc của mỗi
dân tộc, làm rõ hơn những vấn đề mang tính
quy luật trong giao lưu văn hóa, góp phần
gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của các
dân tộc.
Từ khóa: chữ Hán, giao lưu, văn hóa
51KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
là văn tự chính thống trong lĩnh vực văn hóa xã
hội như hành chính, giáo dục, thi cử, lễ nghi, văn
học v.v... Dù dân tộc ta đã tạo ra chữ Nôm, nhưng
chữ Nôm vẫn lệ thuộc vào chữ Hán trên phương
diện cấu tạo; văn hóa chữ Nôm vẫn chưa lấn át
được văn hóa chữ Hán dưới triều đại phong kiến.
Cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, cùng với sự
đổi thay của hoàn cảnh xã hội Việt Nam, chế độ
phong kiến bị thay thế bằng chế độ thực dân nửa
phong kiến, kéo theo tình trạng văn hóa phong
kiến Việt Nam vốn mang tính chất khu vực bị thay
thế bằng văn hóa tư sản, sau đó là văn hóa vô sản
mang tính chất toàn cầu. Từ đó chữ Hán cùng
với nền Hán học truyền thống lâm vào suy thoái.
Năm 1915 Miền Bắc bỏ khoa thi chữ Hán. Năm
1918 Miền Trung bỏ thi Hương, năm 1919 bỏ thi
Hội. Ở Miền Nam việc bỏ các kỳ thi chữ Hán đã
diễn ra sau khi thực dân Pháp chiếm đóng.
Cùng với sự phát triển của xã hội nói chung, văn
hoá phong kiến Việt Nam đã bị thay thế bằng
văn hoá hiện đại, chữ Hán đã không còn là chữ
viết của người Việt Nam nữa, những văn tịch cổ
của người Việt Nam cũng đã trở thành tư liệu lịch
sử đặc thù, ít người hiểu và sử dụng. Từ sau năm
1945, thì đại đa số người Việt Nam không còn sử
dụng chữ Hán, thậm chí có người còn cho rằng,
“Hán tự không phải là thứ chữ viết của người Việt
Nam, mà chỉ là một thứ chữ vay mượn trong một
giai đoạn lịch sử, do đó không thể nào chấp nhận
những những tác phẩm Hán văn cũng như bất kỳ
một tác phẩm ngoại ngữ nào khác vào trong văn
học Việt Nam”, vì thế mà lâu nay nghiên cứu về
văn hóa truyền thống chữ Hán của Việt Nam là
lĩnh vực ít được quan tâm, số lượng và chất lượng
những bài viết về mảng đề tài này luôn ở mức
khiêm tốn.
Từ ngàn xưa đến nay, dân tộc Việt Nam và dân
tộc Trung Hoa không ngừng sáng tạo văn hoá,
đồng thời thông qua hợp tác giao lưu quốc tế
làm cho nội hàm văn hoá của mỗi dân tộc ngày
càng đa dạng và phong phú. Văn hoá bản thân
nó mang tính truyền bá và hun đúc, nó giống như
một dòng chảy cuốn trôi tất cả những tư tưởng
bảo thủ hòng cản trở quá trình giao lưu hội nhập
giữa các dân tộc. Tách khỏi quá trình giao lưu văn
hoá chúng ta sẽ khó sống, càng không thể phát
triển. Với ý nghĩa đó, văn hoá chữ Hán từ lâu đã
trở thành tài sản tinh thần chung không chỉ của
nhân dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc, mà
của cả nhân loại trên toàn thế giới.
Văn hoá cổ đại Trung Quốc phong phú, từ lâu đã
có ảnh hưởng sâu rộng tới các nước trong khu
vực. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng
giềng gần gũi, núi liền núi sông liền sông, giao
lưu văn hoá có từ rất sớm. Xã hội phong kiến Việt
Nam, nhất là tầng lớp trí thức chịu ảnh hưởng sâu
sắc tư tưởng văn hóa cổ đại Trung Quốc mà chủ
yếu là tư tưởng Nho giáo.
Năm 1070 nhà Lý xây dựng Văn miếu ở thành
Thăng Long và khởi xướng việc tôn thờ Khổng
Tử. Năm 1075 vua Lý Nhân Tông mở khoa thi đầu
tiên, tuyển chọn những người giỏi về Nho học.
Tiếp đó nhà Lý lại cho xây Quốc tử giám, thành
lập Hàn lâm học viện, Mật thư các. Vị thế của Nho
học ngày càng được đề cao, tầng lớp Nho sĩ được
trọng dụng, nắm giữ những trọng trách trong bộ
máy lãnh đạo của nhà nước phong kiến. Đến thời
kỳ nhà Trần (1225-1400), Nho học bắt đầu giữ vai
trò chủ đạo trong hệ tư tưởng phong kiến Việt
Nam. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã xây dựng
một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh, chế độ khoa
cử nghiêm ngặt, đặc biệt nội dung dạy học và thi
cử đều lấy từ những tác phẩm kinh điển của Nho
học. Tầng lớp quan lại xuất thân từ Nho sĩ ngày
đông đảo, chiếm ưu thế trong bộ máy thống trị
của nhà nước phong kiến Việt Nam. Những bậc
đại Nho như Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Phạm Sư
Mạnh v.v là những người có những đóng góp
to lớn trong việc truyền bá Nho học ở Việt Nam.
Nho học bắt đầu từ Khổng Tử, trải qua hàng ngàn
năm phát triển nên nội dung của Nho học ở những
thời đại khác nhau không hoàn toàn giống nhau,
ngay cả khi cùng trong một thời đại cũng tồn tại
nhiều trường phái Nho học khác nhau, chính vì
thế khái niệm Nho học hàm chứa nhiều nội dung
phức tạp. Đơn cử một ví dụ, khi bàn về tính cách
của con người, Nho học có nhiều cách giải thích
khác nhau như: tính thiện; tính ác; thiện ác hoà
trộn v.v. Cũng do vậy mà các học thuyết về chính
trị, đạo đức xây dựng trên cơ sở những quan điểm
ấy càng phức tạp, thậm chí là mâu thuẫn nhau. Dù
vậy, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, Nho
52 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
học vẫn cứ giữ được những sắc thái riêng không
giống với bất cứ trường phái tư tưởng nào khác,
điều ấy phần nào nói lên rằng Nho học cho dù
ở thời đại nào, đất nước nào cũng đều có những
đặc trưng cơ bản giống nhau. Nhìn một cách
tổng thể thì Nho học có mấy đặc trưng cơ bản là:
Tôn sùng Khổng Tử, cho rằng Khổng Tử là ngưòi
đầu tiên sáng lập ra Nho giáo và phàm những tư
tưởng trái ngược với tư tưởng của Khổng Tử đều
không thuộc Nho học; coi Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh
Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Xuân Thu, Kinh Dịch là những
tác phẩm kinh điển của Nho học; coi đạo đức là
sự phản ánh giá trị cuộc sống; lấy việc tích đức để
trở thành thánh nhân là mục tiêu phấn đấu; chủ
trương lấy nhân đức để trị dân.
Chế độ phong kiến Việt Nam cực thịnh vào thời
kỳ nhà Lê (1428-1527), giai cấp thống trị lấy Nho
học làm tư tưởng chỉ đạo trong việc giữ nước trị
dân, lấy Nho học làm cơ sở lý luận để xây dựng
các luật lệ, chế độ của nhà nước, coi tư tưởng
Nho giáo là khuôn vàng thước ngọc mà trên dưới
đều phải tuân theo. Nền giáo dục dưới thời nhà
Lê phát triển vượt bậc về mọi mặt, đào tạo ra đội
ngũ nho sĩ đông đảo. Quốc tử giám, Thái học viện
trở thành cơ quan giáo dục cao nhất trong cả
nước, các phủ, châu, huyện đều xây dựng trường
học. Các trường học đều lấy các tác phẩm kinh
điển của Nho giáo làm tài liệu dạy học, việc thi
cử ngày càng chính quy và được tổ chức thường
xuyên hơn. Từ năm 1487, nhà vua đích thân ra
đề thi điện, cử hành lễ xướng danh, lễ vinh quy
và lập bia tiến sĩ tại Văn miếu. Nhà nước phong
kiến Việt Nam tích cực xúc tiến các hoạt động
giáo dục xã hội với nội dung chủ yếu là các quan
điểm luân lý đạo đức của Nho giáo. Vua Lê Huyền
Tông (1663-1671) từng tuyên truyền rằng: “làm
thần phải tận trung, làm con phải tận hiếu, anh
em phải hoà thuận, vợ chồng phải quý mến”
càng làm cho tư tưởng Nho giáo phổ cập đến
toàn dân, thâm nhập vào đời sống tinh thần của
dân chúng. Thời kỳ này cũng xuất hiện nhiều nhà
nho nổi tiếng như Phan Phù Tiên, Ngô Sĩ Liên, Lê
Quý Đôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm v.v Đọc những
tác phẩm của họ dù là thơ ca hay sử ký đều chất
chứa những tư tưởng Nho học. Ngô Sĩ Liên trong
“Biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “học
cách viết biên niên của “Sử ký” nhưng thẹn vì chỉ
là chắp vá, làm theo thể lệ sách “Xuân thu” dám
mong ngôn từ nghiêm cẩn”. “Xuân thu” là cuốn
sách sử biên niên của Trung Quốc, sau khi được
Khổng Tử chỉnh sửa đã trở thành cuốn sách sử
mang đậm tư tưởng Nho giáo, khuyên người ta
nên làm điều thiện, từ bỏ điều ác. Cuốn “Sử ký”
của Tư Mã Thiên là bức tranh lịch sử sống động về
một đất nước Trung Hoa cổ đại, không chỉ có giá
trị to lớn về mặt sử học, mà còn là một tuyệt tác
trong kho tàng văn học Trung Quốc. Bút pháp của
Tư Mã Thiên có ảnh hưởng sâu rộng tới các thế
hệ sử gia đời sau. Là người tinh thông Hán học,
nhà sử học Ngô Sĩ Liên chắc hẳn cũng muốn cuốn
“Đại Việt sử ký toàn thư” của ông ngang tầm thời
đại, và sự thật nó đã trở thành một tác phẩm mẫu
mực trong kho tàng sử học Việt Nam. Tầng lớp tri
thức phong kiến Việt Nam có thế giới quan, nhân
sinh quan và phương pháp tư duy độc đáo chính
do được tôi luyện bằng tư tưởng Nho giáo. Luân
lý Nho giáo đã góp phần không nhỏ bồi dưỡng
nên những phẩm chất cao quí của người Việt
Nam như trọng tín nghĩa, trọng khí tiết, kính già
trọng hiền
Trong quá trình giao lưu văn hóa luôn tồn tại
vấn đề vị thế cao thấp giữa các nền văn hóa, nền
văn hóa tân tiến hơn thường có những tác động
không nhỏ đến những nền văn hoá lạc hậu hơn.
Tuy không có sự phân biệt văn hóa tốt xấu, nhưng
sự khác nhau về trình độ là rất rõ ràng. Quá trình
giao lưu văn hóa luôn mang xu thế hai chiều, tức
vừa chịu ảnh, lại vừa phát sinh ảnh hưởng. Lịch
sử cũng đã chứng minh, những biện pháp cưỡng
bức xâm lược hay thôn tính văn hóa đều là vô
hiệu, chỉ có bình đẳng giao lưu mới là con đường
tốt nhất để phát triển văn hóa. Các dân tộc cần
phải thông qua giao lưu đối thoại để giải quyết
những xung đột về văn hóa, cố gắng giảm thiểu
những hậu quả tiêu cực. Để tiến hành giao lưu
văn hóa, thì đại biểu của mỗi nền văn hóa cần
được đặt trong bối cảnh chung của văn hóa khu
vực, trong quá trình so sánh với các nền văn hóa
khác đánh giá lại chính mình và hiểu rõ hơn về
các nền văn hóa trong khu vực, trên cơ sở đó phát
huy những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân
tộc và tiếp thu những tinh hoa của văn hóa thế
giới. Việc nghiên cứu những ảnh hưởng giữa các
nền văn hóa khác nhau không ngoài mục đích
53KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
giới thiệu với thế giới những nét đặc sắc của văn
hóa mỗi dân tộc, xác định rõ giá trị và vị trí của
nó trong văn hóa cộng đồng các dân tộc. Cùng
với điều đó, chúng ta sẽ học hỏi được nhiều hơn
những nét đẹp về văn hóa từ những dân tộc khác,
tìm kiếm những quy luật có thể áp dụng trong
hoạt động học tập của chúng ta.
Trên thực tế, nghiên cứu ảnh hưởng ngôn ngữ
thuộc phạm trù giao lưu văn hoá, và nó được phát
triển trên cơ sở của việc giao lưu văn hoá ngày
càng sôi động. Thông qua việc nghiên cứu ảnh
hưởng ngôn ngữ, nền văn hóa chữ Hán rực rỡ của
Việt Nam có cơ hội để trở thành tài sản tinh thần
chung của nhân dân thế giới, phát huy vai trò tích
cực trong tiến trình giao lưu hội nhập văn hóa thế
giới. Bất kỳ một ngôn ngữ nào cũng có những giá
trị thẩm mỹ riêng, mỗi dân tộc đều có cách sáng
tạo độc đáo của mình, và mỗi nền văn hóa cũng
đều có những quy luật phát triển không giống
với những nền văn hóa khác.
Văn hóa truyền thống chữ Hán là quý giá và
thiêng liêng, nó tạo nên nét đặc thù của một dân
tộc ngàn năm văn hiến. Nó được hình thành trong
lịch sử lâu dài, được đúc kết từ kinh nghiệm sống,
được lưu truyền qua nhiều thế hệ, tồn tại tự nhiên
không ép buộc, có khi thể được biểu hiện ra bên
ngoài nhưng cũng có khi ẩn sâu trong tâm hồn
người Việt. Những tác phẩm văn học viết bằng
chữ Hán là tài sản vô giá của cha ông ta để lại.
Chúng ta chỉ mới tôn vinh, biểu dương những tác
phẩm tiêu biểu cho hào khí dân tộc, đó cũng là
điều dễ hiểu, nhưng một nền văn học được xem
là hoàn thiện, không phải chỉ có những tráng ca.
Những mất mát đau thương, những nỗi thống
khổ của dân đen, những suy tư trăn trở về nhân
tình thế thái vẫn chưa được đánh giá đầy đủ, chưa
được nhìn nhận đúng với giá trị đích thực của nó.
Thơ văn viết bằng chữ Hán của ông cha ta, tuy
chưa thể cẩn luật bằng thơ Đường, nhưng nó là
tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Thời Lý -
Trần, từ thống soái tối cao như Trần Hưng Đạo,
Trần Quang Khải... đến các tướng lĩnh như Phạm
Ngũ Lão, Trương Hán Siêu đều đồng thời là
những nhà văn, nhà thơ rất nổi tiếng. Trần Hưng
Đạo, chỉ với bài Hịch tướng sĩ cũng đã đủ tạo nên
một tượng đài văn học. Hịch tướng sĩ đi vào lịch
sử văn học Việt Nam như một trong những áng
hùng văn tiêu biểu nhất, một bản anh hùng ca
yêu nước bất diệt. Rất nhiều những tác phẩm văn
học viết bằng chữ Hán thời kỳ này vừa có nghệ
thuật tinh diệu, lại vừa có tư tưởng lớn, thể hiện
được tầm vóc tâm hồn và ý chí của dân tộc, khi
thịnh thì hào sảng, khi suy thì thâm trầm, chiêm
nghiệm, nghĩ suy. Thời Trần, Nho giáo đã chiếm
địa vị trọng yếu, nhưng lại có sự hòa điệu của tam
giáo đồng nguyên. Nho, Phật, Lão có khi được
biểu hiện rất sinh động trong một bài thơ cụ thể,
ví như bài thơ Yên Tử sơn am cư của Huyền Quang
Lý Đạo Tái, khi ông đã bỏ quan lên núi Yên Tử tu
thiền, rồi trở thành vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử. Đó chính là điểm thú vị, hiếm thấy ở
thơ văn các triều đại khác.
Vấn đề thực tiễn đang đặt ra là, trong quá trình
phát triển đất nước, việc gìn giữ và phát huy giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc có xu hướng
chạy theo phong trào, làm nghèo nàn bản sắc
văn hóa vốn có của các dân tộc. Đây là nguy cơ tự
đánh mất mình, đánh mất những giá trị văn hóa
truyền thống quí báu của dân tộc trong quá trình
phát triển kinh tế-xã hội. Nguyên nhân sâu xa của
vấn đề này chính là ý thức tự tôn dân tộc và ý thức
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa thật sự có
chỗ đứng vững chắc trong đời sống tinh thần của
người dân. Công tác giáo dục, tuyên truyền và
biện pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chưa
thật sự đi vào chiều sâu một cách có hệ thống,
mới chỉ là những giải pháp tình thế trước mắt.
Giao lưu quốc tế là một quá trình chứa đựng
nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt
tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh, tạo ra
một môi trường phát triển, đồng thời cũng phân
chia thế giới thành hai cực giàu nghèo, dẫn đến sự
phụ thuộc khó tránh khỏi của các nước kém phát
triển vào các nước phát triển. Đó cũng là nguyên
nhân của sự bất bình đẳng giữa các quốc gia dân
tộc có trình độ phát triển khác nhau. Sự bất bình
đẳng này không chỉ biểu hiện trong lĩnh vực kinh
tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa. Ngoài ra, quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường cũng làm
phát sinh một số hiện tượng tiêu cực, như hình
thành lối sống hưởng thụ, coi nhẹ những giá trị
tinh thần thuộc về dân tộc. Trong điều kiện kinh
54 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, nêu
cao tinh thần tự tôn dân tộc không chỉ để khẳng
định mình với dân tộc khác mà còn giúp chung
ta có thái độ đúng mực với cái mới, cái hiện đại,
không quá tự ti hay quá tự cao tự đại để khép kín,
bảo thủ hay phủ định sạch trơn những giá trị văn
hóa truyền thống trước cái mới lạ xâm nhập từ
bên ngoài trong quá trình hội nhập quốc tế. Giữ
gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc
là để khẳng định sự độc lập tự chủ của dân tộc về
mọi mặt, đồng thời cũng tạo niềm tin và là cơ sở
vững chắc cho các quan hệ hợp tác quốc tế.
Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống
chữ Hán của dân tộc là hướng tới một nền văn
hóa dân tộc đa dạng, phong phú về sắc thái chứ
không phải là một nền văn hóa nghèo nàn, giống
nhau, cùng khuôn mẫu. Đa dạng, phong phú về
bản sắc là một thuộc tính của văn hóa, thể hiện
khả năng sáng tạo của các dân tộc trong những
điều kiện lịch sử cụ thể. Hội nhập quốc tế, một
mặt, tạo điều kiện để các nền văn hóa dân tộc
được giao lưu, hợp tác và phát triển; mặt khác,
cũng tạo ra xu hướng toàn cầu hóa về ngôn ngữ,
về văn hóa, về lối sống và quan niệm giá trị. Giữ
gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân
tộc phải gắn liền với chống lạc hậu, lỗi thời “trong
phong tục, tập quán”, đồng thời phải biết bổ sung
và phát triển một cách sáng tạo, phù hợp với đời
sống hiện đại. Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc là để xây dựng một nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở
phát huy tính sáng tạo của dân tộc. Mọi sự thụ
động, bảo thủ, trì trệ đều kìm hãm phát triển. Chỉ
có tư duy sáng tạo, chúng ta mới làm chủ được
quá trình giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn, kế
thừa và phát triển, mối quan hệ giữa cái cũ và cái
mới, cái truyền thống và cái hiện đại.
Trải qua thăng trầm của lịch sử, mỗi dân tộc hun
đúc cho mình rất nhiều giá trị văn hóa trở thành
truyền thống tốt đẹp. Những truyền thống đó
được lưu giữ, bổ sung, phát triển phù hợp với
điều kiện mới và đáp ứng những yêu cầu phát
triển của lịch sử. Trong thực tế, nhiều những giá
trị nhân văn sâu sắc tiềm ẩn trong di sản Hán Nôn
Việt Nam đã tỏa sáng và trở thành sức mạnh tinh
thần to lớn để dân tộc ta vượt qua khó khăn thử
thách và phát triển ngày càng vững mạnh. Những
giá trị tinh thần đó tiếp tục được bổ sung những
nhân tố mới, cách thức biểu hiện mới để đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập. Ngày
nay yêu nước không chỉ để chiến thắng kẻ thù
xâm lược mà còn là để xây dựng một dân tộc phát
triển về mọi mặt để có thể “bình đẳng” cùng các
dân tộc khác trên trường quốc tế, yêu nước là để
bảo vệ sự ổn định không chỉ cho mỗi dân tộc mà
còn cho một thế giới tốt đẹp hơn.
Được biết mới đây, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã
cho ra mắt cuốn Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tập
thành, công trình là kết quả của sự hợp tác khoa
học của nhiều đơn vị và cá nhân trong và ngoài
nước, trong đó có Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Đại
học Sư phạm Thượng Hải, Đại học Thành Công
Đài Loan (Trung Quốc) và Trung tâm Nghiên cứu
Khoa học xã hội (Cộng hòa Pháp). Việt Nam Hán
văn tiểu thuyết tập thành gồm 20 tập do Nhà xuất
bản Cổ tịch Thượng Hải, Trung Quốc ấn hành,
được phân thành 5 loại lớn: Tiểu thuyết Thần
thoại như Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh tập
gồm 17 loại; Tiểu thuyết truyền kỳ như Truyền kỳ
mạn lục, Truyền kỳ tân phả, Việt Nam kỳ phùng sự
lục gồm 14 loại; Tiểu thuyết lịch sử như Hoàng Việt
xuân thu, Việt Nam khai quốc chí truyện, An Nam
nhất thống chí, Hoan Châu ký gồm 5 loại; Tiểu
thuyết bút ký như Nam quốc dị khai lục, Đại Nam
kỳ truyện, Nam thiên trung nghĩa thực lục, Nhân
vật chí gồm hơn 10 loại; Tiểu thuyết cận đại, tập
hợp tiểu thuyết Hán văn trong Nam phong tạp
chí... Hơn 80 tác phẩm tiểu thuyết Hán văn Việt
Nam được biên tập, nghiên cứu và giới thiệu lần
này với tiêu đề Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tập
thành do Nhà xuất bản Cổ tịch Thượng Hải ấn
hành có một qui mô rất lớn, là nguồn tài liệu mới
quý báu vô giá của giới học thuật, nhằm quảng bá
văn hóa Việt Nam với bạn đọc trên thế giới. Cuốn
Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tập thành ra đời là
biểu hiện sinh động của hoạt động hợp tác cùng
nhau gìn giữ và phát huy những giá trị quý báu
của di sản văn hóa truyền thống chữ Hán Việt
Nam trong bối cảnh giao lưu văn hoá khu vực và
quốc tế.
Di sản văn hóa truyền thống chữ Hán là tài sản
quý báu kết tinh sự sáng tạo lâu dài của dân tộc,
55KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
bao gồm các di sản văn hóa vật thể và di sản văn
hóa phi vật thể. Di sản văn hóa truyền thống chữ
Hán không chỉ là cơ sở để liên kết cộng đồng, mà
còn là nền tảng để sáng tạo các giá trị văn hóa
mới, là tiền đề để mở rộng giao lưu văn hóa với
các dân tộc khác trên thế giới. Những giá trị của
văn hóa truyền thống không chỉ nhằm thoả mãn
nhu cầu tinh thần của nhân dân, góp phần khẳng
định niềm tự hào dân tộc, mà còn là nguồn lực để
phát triển kinh tế - xã hội. Việc giáo dục tinh thần
yêu nước và ý thức tự tôn dân tộc qua hệ thống
di sản văn hóa truyền thống chữ Hán có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với thế hệ trẻ hiện nay.
Chính vì vậy, đầu tư cho việc gìn giữ và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống nói chung và
văn hóa truyền thống chữ Hán nói riêng là công
việc vừa cơ bản, vừa cấp bách, cần phải được tiến
hành nghiêm túc, kiên trì và thận trọng.
Trong bài viết này, tác giả cũng không định chỉ
đơn thuần chỉ ra những điểm dị đồng trong các
hiện tượng ngôn ngữ và văn hóa, mà muốn thảo
luận và hiểu sâu sắc hơn những vấn đề mang
tính quy luật trong giao lưu văn hóa chữ Hán nói
chung, tìm kiếm những phương thức hiệu quả
nhất trong việc giao lưu và học hỏi lẫn nhau giữa
các dân tộc, nhằm góp phần làm phong phú và
phát triển ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam. Chúng
ta chỉ có thể gìn giữ và phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống chữ Hán của Việt Nam khi đã
nhận thức đầy đủ ý nghĩa và xác định rõ vị trí của
nó trong lịch sử phát triển của văn hóa khu vực
và thế giới, bởi lẽ bất kỳ một nền văn hoá nào
đơn độc và bưng bít đều sẽ bị nhân loại bỏ qua
và lãng quên./.
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Văn Giáp (1971), Tìm hiểu kho sách Hán
Nôm, Thư viện Quốc gia Hà Nội.
2. Trần Nghĩa (1993), Di sản Hán Nôm Việt Nam thư
mục đề yếu, Nxb Khoa học Xã hội.
3. Lê Sĩ Thắng (1994) Nho giáo Việt Nam, Nxb Khoa
học Xã hội.
4. 陈玉龙 (1993)《汉文化论纲》,北京大学出
版社。
5. 郭延以 (1987)《中越文化论集》,台湾中华
文化出版事业。
6. 林明华 (1984)《越南文字浅谈》,《中国东
南亚研究会通讯》,第1期。
7. 塔 娜 (1983)《越南科举制的产生和发展》
,《印支研究》,第4期。
8. 吴士连 (1998)《大越史记全书》,河内社会
科学出版社。
PRESERVATION AND PROMOTION OF THE
TRADITIONAL AND CULTURAL VALUES OF
CHỮ HÁN (OLD CHINESE SCRIPT)
Abstract: Language is a significant means to
convey culture. Han ideogram culture has for
a long time become common property of the
human spirit. There is no cultural discrimination
in the process of cultural exchange. The study
on influences between different cultures is to
introduce to the world the unique characteristics
of individual nations, as well as to look into
issues and find out rules in cultural exchanges,
contributing to preserving and promoting the
cultural characteristics of nations.
Keywords: Han ideogram, cultural exchange
Ngày nhận: 23/5/2016
Ngày phản biện: 14/7/2016
Ngày duyệt đăng: 21/7/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16_1405_2137201.pdf