Tài liệu Giáo trình Xã hội học tôn giáo (Phần 1): 1
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Tôn giáo là một thực tại khách quan, xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài
người. Tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của cá thể, của cộng đồng và toàn xã hội.
Do vậy, tôn giáo là một yếu tố rất cần phải nghiên cứu, vì qua đó mới hiểu được
đời sống xã hội và văn hóa tinh thần của nhân loại, dân tộc, của một cộng đồng,
hay một cá thể. Tôn giáo vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính xã hội, bản thân tôn
giáo có những đặc trưng riêng biệt và có mối quan hệ với nhiều lĩnh vực của đời
sống. Tôn giáo lại có những biểu hiện rất khác nhau giữa các cộng đồng, các cá
thể trong một cộng đồng; chẳng hạn, các nghi thức, cấm kỵ, hiến tế, cầu xin, thờ
cúng và nơi thờ tự...
Với tính cách như là một hiện tượng xã hội, tôn giáo có thuộc tính xã hội sâu
sắc, phản ánh đời sống xã hội của con người và các yếu tố xã hội mang màu sắc
tôn giáo này, lại tác động trở lại đến đời sống thực tiễn của con người. Vì vậy, việc
nghiên cứu tôn giáo với tư cách là một hiện t...
146 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 544 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo trình Xã hội học tôn giáo (Phần 1), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Tôn giáo là một thực tại khách quan, xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài
người. Tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của cá thể, của cộng đồng và toàn xã hội.
Do vậy, tôn giáo là một yếu tố rất cần phải nghiên cứu, vì qua đó mới hiểu được
đời sống xã hội và văn hóa tinh thần của nhân loại, dân tộc, của một cộng đồng,
hay một cá thể. Tôn giáo vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính xã hội, bản thân tôn
giáo có những đặc trưng riêng biệt và có mối quan hệ với nhiều lĩnh vực của đời
sống. Tôn giáo lại có những biểu hiện rất khác nhau giữa các cộng đồng, các cá
thể trong một cộng đồng; chẳng hạn, các nghi thức, cấm kỵ, hiến tế, cầu xin, thờ
cúng và nơi thờ tự...
Với tính cách như là một hiện tượng xã hội, tôn giáo có thuộc tính xã hội sâu
sắc, phản ánh đời sống xã hội của con người và các yếu tố xã hội mang màu sắc
tôn giáo này, lại tác động trở lại đến đời sống thực tiễn của con người. Vì vậy, việc
nghiên cứu tôn giáo với tư cách là một hiện tượng xã hội là một lĩnh vực quan
trọng của xã hội học. Nếu coi nhẹ hoặc không quan tâm đến khía cạnh xã hội của
tôn giáo, thì không thể lý giải được các đặc điểm và tính chất của hiện tượng xã
hội đặc biệt này. Mặt khác, để biến tôn giáo thành lực lượng xã hội phục vụ cho
những lợi ích chung của dân tộc, đất nước và để hạn chế, khắc phục những mặt tiêu
cực của nó thì việc cần thiết, là phải hiểu biết sâu sắc về đặc trưng và bản chất của
tôn giáo, có nghĩa là phải hiểu những khía cạnh của tôn giáo ảnh hưởng đến niềm
tin, tín ngưỡng, hành vi, lối sống - những khía cạnh xã hội của nó.
Việt Nam là đất nước có nhiều loại hình tôn giáo cùng tồn tại, lại có tính đan
xen, thể hiện khác biệt với nhiều nước khác ngay trong khu vực và trên thế giới.
Trong một không gian nhỏ hẹp, có thể có nhiều tôn giáo, có tôn giáo mang tính
toàn cầu như Kitô giáo, Tin lành giáo, Hồi giáo; có tôn giáo mang tính khu vực như
Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo; có tôn giáo mang tính địa phương như đạo Cao
đài, đạo Hòa Hảo, đạo Dừa... Trong những năm gần đây, tôn giáo ở nước ta có
nhiều biểu hiện phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực là đáp ứng nhu cầu tin
thần của nhân dân, hướng con người sống lành mạnh, lương thiện, đã nảy sinh
những biểu hiện tiêu cực cần khắc phục, như mê tín, dị đoan, buôn bán thánh thần,
cùng một số hủ tục ảnh hưởng đến đời sống văn hóa xã hội... Trong đó, có không ít
những kẻ lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị, để gây trở ngại cho công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Chúng ta thực hiện và tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, nhưng chúng
ta cũng kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực và những hành động
2
lợi dụng tôn giáo vào các mục đích gây trở ngại cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước. Do vậy, nghiên cứu tôn giáo để hiểu đúng, hiểu rõ bản chất những mặt
tích cực và những mặt tiêu cực của hiện tượng xã hội này, đã trở thành một nhiệm
vụ cần thiết hiện nay, như Chỉ thị 24/CT-BCT, ngày 02 tháng 07 năm 1998 của Bộ
Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, về công tác tôn
giáo trong tình hình mới và Nghị định 26/1999/NĐ-CP, ngày 19 tháng 04 năm 1999
của Chính phủ, về các hoạt động tôn giáo.
Điều đáng lưu ý là nghiên cứu tôn giáo dước góc độ xã hội học ở nước ta, còn
là vấn đề khá mới mẻ và có một cách hạn chế những công trình xã hội học nghiên
cứu chuyên sâu về vấn đề này, đặc biệt từ lĩnh vực nghiên cứu lý thuyết.
Xuất phát từ những vấn đề trên, Nhà Xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội cho
xuất bản giáo trình Xã hội học tôn giáo, do Tiến sĩ Vũ Quang Hà, Phó Chủ nhiệm
Khoa Xã hội học, Chủ nhiệm Bộ môn Lý thuyết và Phương pháp nghiên cứu,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh biên soạn, trên cơ sở các bài giảng về xã hội học tôn giáo cho sinh viên
chuyên ngành xã hội học, Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, nhằm cung cấp cho sinh viên,
học viên cao học, nghiên cứu sinh, các cán bộ giảng dạy xã hội học và những độc
giả quan tâm tới xã hội học tôn giáo một số kiến thức cơ bản nhất về tính xã hội,
niềm tin, lối sống và sự biến đổi tôn giáo...
Nội dung của giáo trình Xã hội học tôn giáo, được trình bày trong ba phần,
gồm XXIII chương:
- Phần thứ nhất: Tiếp cận xã hội học tôn giáo;
- Phần thứ hai: Các lĩnh vực xã hội học tôn giáo;
- Phần thứ ba: Biến đổi tôn giáo.
Tìm hiểu những khía cạnh xã hội của một vấn đề rộng lớn và phức tạp như tôn
giáo, là một công việc rất phức tạp; vì vậy, giáo trình này không thể tránh khỏi
những thiếu sót; hơn nữa, đây lại là những bước đi ban đầu. Nhà Xuất bản và Tác
giả, rất mong nhận được những lời chỉ dẫn, những đóng góp của các nhà nghiên
cứu và đông đảo độc giả.
Nhà Xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, trân trọng giới thiệu giáo trình Xã
hội học tôn giáo đến độc giả.
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
3
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với các vấn đề xã hội khác, tôn giáo biểu hiện và thay đổi theo quá
trình diễn biến của lịch sử nhân loại, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh địa lý, kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa của từng cộng đồng xã hội và tôn giáo khác nhau. Diễn
trình của tôn giáo qua lịch sử rất phức tạp, vừa có tính phản ánh, lại vừa có tính
phản kháng xã hội đã sản sinh, nuôi dưỡng và duy trì sự tồn tại của tôn giáo. K.
Marx nhận định: "Nhà nước nào, xã hội nào thì sản sinh ra tôn giáo như thế ấy",
chính vì vậy, bộ mặt tôn giáo của nhân loại qua thời gian và không gian không thể
không có sự biến đổi; mặc dầu, về bản chất, nội dung cơ bản có thể vẫn được giữ
nguyên.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, tồn tại cùng với chiều dài lịch sử xã hội
loài người. Tôn giáo xuất hiện ngay từ khi con người còn ở chốn hoang sơ, là một
nhu cầu của tín đồ và những người theo tôn giáo. Một nhu cầu có tính cộng đồng,
dân tộc, khu vực và toàn nhân loại. Tôn giáo không chỉ là việc đạo, mà còn là
việc đời; nó không chỉ liên quan đến viễn cảnh về cuộc sống ngày mai trên thiên
đường hay nơi địa ngục, mà còn ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại của con người.
Trong đó, lối sống, niềm tin tôn giáo gắn bó chặt chẽ với đời sống văn hóa của
mỗi dân tộc, cộng đồng, nhóm xã hội và mỗi quốc gia.
Nhiệm vụ cơ bản của nghiên cứu tôn giáo, cả ở khía cạnh tôn giáo học, tâm
lý học và xã hội học, là tìm ra cái chung nhất của những tôn giáo trong hình thức
biểu hiện đa dạng. Đồng thời cần đi sâu nghiên cứu tôn giáo cụ thể, trong đó bao
hàm vấn đề niềm tin tôn giáo, lối sống tôn giáo, biến đổi tôn giáo, đang là điều
bức thiết trong thời đại hiện nay. Sở dĩ như vậy, vì diện mạo tôn giáo thế giới nói
chung và từng tôn giáo nói riêng, đang có nhiều biến chuyển to lớn, thể hiện ở
chỗ, nhiều hiện tượng tôn giáo mới liên tục phát sinh.
Tôn giáo luôn có tính khép kín và bảo thủ trong từng cộng đồng, mỗi tôn giáo
lại có cách diễn đạt riêng và cách hiểu khác nhau giữa các tín đồ và của người
khác đạo. Do vậy, khó có thể đưa ra một định nghĩa cụ thể, khả dĩ đại diện cho
các tôn giáo ở tất cả các quốc gia. Về vấn đề này, trong giáo trình Xã hội học tôn
giáo, chúng tôi chỉ có thể đưa ra một định nghĩa tối thiểu, quan tâm đến những đặc
tính cốt lõi nhất của tôn giáo.
Trước tình hình biến động trong đời sống tôn giáo hiện nay, việc đưa ra cách
nhìn, quan điểm nghiên cứu khía cạnh xã hội của tôn giáo lại càng khó khăn. Vì
vậy, khó có một sự thống nhất chung trong nghiên cứu xã hội học tôn giáo giữa
4
các trường phái xã hội học trong các quốc gia, khu vực, thậm chí ngay trong một
quốc gia. Trong giáo trình này, chúng tôi chỉ giới hạn sự quan tâm đến khía cạnh
xã hội, tâm lý của tôn giáo và ảnh hưởng của tôn giáo với các lĩnh vực cụ thể của
đời sống xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu những yếu tố như niềm tin, thực hành tôn
giáo, sự quy thuộc... của từng tôn giáo riêng biệt, hay những tôn giáo khu vực, tôn
giáo của một dân tộc, để tìm ra cái chung nhất, cũng như cái riêng biệt, qua những
tác động lịch đại và đồng đại của từng tôn giáo hay nhiều tôn giáo với nhau và
đối với toàn xã hội.
Trong lĩnh vực xã hội học tôn giáo, việc nghiên cứu một khái niệm dưới góc
độ từ nguyên học là cần thiết, nhằm đưa ra một sự dẫn hướng đến việc tìm ra một
định nghĩa của khái niệm. Thuật ngữ tôn giáo, có nguồn gốc từ phương Tây, đã
trải qua một quá trình biến đổi nội dung của nó và khi nó trở nên phổ quát trên
khắp các nước, lại mâu thuẫn với những khái niệm truyền thống, không tương ứng
của những dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau.
Nội dung tôn giáo, ban đầu được hiểu là sự hàm chứa một bộ phận ý thức hệ
phức tạp của những nền văn minh khác nhau, trải dài từ cổ đại đến hiện đại, tại
tất cả các quốc gia và khu vực. Càng về sau, tôn giáo càng muốn khẳng định sự
thần khải. Vì vậy, nhiều người đã đối lập tôn giáo thần khải với tôn giáo tự nhiên
và cho rằng, sự khác biệt đó là bao hàm sự tôn thờ một Đấng tối cao, một niềm tin
vào sự vĩnh cửu của linh hồn và kì vọng vào sự giải thoát.
Ở Việt Nam, khi đề cập đến tôn giáo, nhiều người hiểu là vấn đề nội dung
của Đạo giáo, đạo Nho, đạo Phật, đạo Kitô... nhưng đồng thời cũng lại hiểu là
việc đề cập đến cách ứng xử làm người trong mối quan hệ cha mẹ, anh em, con
cái, vợ chồng, bè bạn... Nếu để chỉ một tôn giáo cụ thể, ở Việt Nam, phải đặt sau
thuật ngữ đạo - tên gọi của tôn giáo đó. Chẳng hạn, đạo Phật, đạo Nho, đạo Kitô,
đạo Tổ tiên, hoặc khi phải thêm thuật ngữ thờ, như đạo thờ Thành hoàng, đạo thờ
ông bà, đạo thờ vua Hùng, đạo thờ Phật và thậm chí thuật ngữ đạo còn dùng để
chỉ những tín đồ đạo Kitô, để đối lập với lương. Để chỉ một tôn giáo, ta có thể
ghép một bổ ngữ giáo sau tên một tôn giáo cụ thể, như Kitô giáo, Nho giáo, Phật
giáo... Giáo, còn có nghĩa là giáo hóa, dạy bảo, dạy theo giáo lý của Kitô giáo,
hay Nho giáo - lời dạy của các vị thánh thần.
Một vấn đề mang tính xã hội cần được quan tâm, đó là thờ, thờ thường đi đôi
với cúng. Về mặt thuật ngữ, cúng mang ý nghĩa hoàn toàn thế tục. Thuật ngữ cúng
cũng có nhiều nghĩa, vừa có tính tôn giáo, vừa có tính thế tục. Cúng, có nghĩa là
vật dâng tế, là cung phụng, là hiến tế. Trong hầu khắp các dân tộc ở nước ta, cúng
có nghĩa là dâng lễ vật cho các đấng thần linh, cho người đã khuất... Bên cạnh ý
5
nghĩa tôn giáo đó, thuật ngữ cúng còn có nghĩa là đóng góp cho việc công ích, cho
việc từ thiện. Thuật ngữ ghép thờ cúng, lại chỉ dành riêng cho các nội dung và
hành vi mang tính tôn giáo; cũng như thuật ngữ cúng giỗ, được sử dụng trong
phạm vi hẹp hơn.
Tôn giáo theo thuật ngữ thuần tuý Việt, được hiểu là thờ, hay thờ cúng, ngoài
ra còn được hiểu là đạo, là giáo. Cũng chính vì vậy, trong quảng đại quần chúng
nhân dân, thuật ngữ tôn giáo dường như còn rất xa lạ và được hiểu theo nhiều
cách khác nhau. Trong các công trình nghiên cứu tôn giáo nói chung và xã hội học
tôn giáo nói riêng, có hiện tượng sử dụng thuật ngữ tôn giáo để chỉ các tôn giáo
được định nghĩa theo cách của Kitô giáo, tức là các tổ chức như Kitô giáo, Hồi
giáo, Phật giáo,... thậm chí cho cả đạo Cao đài, Hịa Hảo. Ngoài ra, với các hình
thức tôn giáo khác, kể cả đạo Tổ tiên, đạo Ông bà, đạo Mẫu (một biến thể của
Đạo giáo), hay Đạo giáo ở khu vực Đông Bắc, được gọi là tín ngưỡng hay tín
ngưỡng dân gian, thậm chí là mê tín, dị đoan. Theo Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn,
vấn đề cần quan tâm là thuật ngữ tôn giáo, xuất hiện trên báo chí nước ta từ cuối
thế kỷ XX, trong các cuốn Từ điển Khai trí, Tiến đức (1931) và cuốn Dictionnaire
Annamite - Chinois - Francais (1937) của G. Hue. Trong nhân dân, có tâm lý
không muốn nhận là có tôn giáo, có tín ngưỡng; chỉ muốn nhận là theo một đạo
cụ thể, thờ một vị thần cụ thể. Đây cũng chính là sự khác biệt về mặt bản chất,
giữa tôn giáo phương Đông với tôn giáo phương Tây.
Các cư dân ở các khu vực châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Úc, trước thế kỷ
XV, đều có những thuật ngữ riêng của mình để chỉ tôn giáo. Vấn đề này, đến nay
cũng còn được các nhà nghiên cứu tôn giáo tranh luận, vì nội dung đầy đủ của
thuật ngữ chưa được hiểu thống nhất và đầy đủ. Trong đó, nội dung này lại có sự
khác biệt căn bản với quan niệm của châu Âu.
Đối diện với sự đa dạng về nội dung tôn giáo, ở phương Tây có xu hướng
chấp nhận dùng thuật ngữ tôn giáo truyền thống, nhưng tìm ra cho nó một nội
dung có tính phổ quát hơn, mang tính toàn cầu và thích hợp với những biến đổi.
Một số khác, lại đưa ra những khái niệm mới và vẫn đặt cho các tôn giáo truyền
thống ở các châu lục một khái niệm, nhằm chỉ tôn giáo ở một thang bậc thấp hơn.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2002
VŨ QUANG HÀ
6
Phần thứ nhất
TIẾP CẬN
XÃ HỘI HỌC TÔN GIÁO
Chương I
ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I. ĐỐI TƯỢNG CỦA XÃ HỘI HỌC TÔN GIÁO
Việc xác định đối tượng nghiên cứu của các môn học, luôn luôn là vấn đề có
vị trí đầu tiên. Tuy nhiên, việc xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội học tôn
giáo lại có tính đặc thù và rất phức tạp. Từ rất xa xưa, con người đã nghiên cứu
tôn giáo và hiện nay, tôn giáo đang là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học như: triết học, tâm lý học, lịch sử, tôn giáo học... Vì vậy, việc xác định đối
tượng nghiên cứu tôn giáo của xã hội học, còn là sự phân định khác biệt giữa xã
hội học tôn giáo với các môn khoa học khác, nhất là với tôn giáo học. Vì vậy,
trước hết chúng ta cần xác định xã hội học tôn giáo nghiên cứu vấn đề gì?
Thuật ngữ tôn giáo khó có thể hàm chứa được nội dung đầy đủ của cái được
gọi là "tôn giáo", từ cổ đại đến hiện đại; trong thực tiễn, một sự kiện, một khái
niệm, luôn có đời sống riêng của nó. Hiện nay, nhiều khái niệm đang được định
nghĩa lại như: văn hóa, văn minh, văn hiến, thành thị, nông thôn; hay cơ bản hơn,
chính là bản chất con người là gì. Khái niệm tôn giáo mang tính phổ quát toàn cầu
trong giới khoa học, bắt đầu từ các nước phương Tây, xuất hiện từ khoảng thế kỷ
XVIII-XIX, nhưng cũng đang được xem xét lại.
Các lĩnh vực nghiên cứu tôn giáo, thông thường theo hướng:
- Tôn giáo là một thực thể khách quan của lịch sử loài người, là một nhu cầu
của bộ phận tinh thần của từng con người, của từng cộng đồng xã hội;
- Tôn giáo là một yếu tố cần nghiên cứu, vì qua nó mới hiểu được đầy đủ đời
sống xã hội và văn hóa tinh thần của toàn nhân loại, của dân tộc, của một cộng
đồng, hay một cá nhân bất kỳ;
- Tôn giáo vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính xã hội, bản thân tôn giáo có
cuộc sống riêng, nó có mối quan hệ với nhiều lĩnh vực của cuộc sống, có những
biểu hiện rất khác nhau giữa các cộng đồng, các thành viên trong một cộng đồng,
7
như các nghi thức, cấm kỵ, hiến tế, cầu xin, thờ cúng, nơi thờ tự...
Tôn giáo luôn thể hiện tính khép kín, bảo thủ trong từng cộng đồng riêng rẽ,
vì vậy, tôn giáo đứng trước một đối tượng mà sự tồn tại được xác định bằng chính
định nghĩa mà tự nó đưa ra về bản thân mình. Mỗi tôn giáo có cách diễn đạt riêng
và cách hiểu khác nhau, giữa các tín đồ và của người không theo tôn giáo. Do
vậy, khó có thể đưa ra một định nghĩa cụ thể, khả dĩ đại diện cho các tôn giáo
trên trái đất này. Phải chăng, chúng ta chỉ cần đưa ra một định nghĩa tối thiểu,
nhưng lưu ý đến đặc tính cốt lõi nhất của tôn giáo.
Nghiên cứu từng tôn giáo riêng biệt, hay những tôn giáo khu vực, tôn giáo
của một dân tộc là điều cần thiết, nhưng nếu không có sự so sánh để tìm ra cái
chung nhất, cũng như cái riêng biệt, nếu không nghiên cứu những tác động lịch
đại và đồng đại của từng tôn giáo hay nhiều tôn giáo với nhau và đối với xã hội
loài người, thì sẽ là thiếu cơ sở khoa học.
Những nhà xã hội học Mácxít, cũng như những nhà khoa học tiến bộ cho
rằng: nhiệm vụ cơ bản của xã hội học tôn giáo, là tìm ra cái chung nhất của những
tôn giáo trong hình thức biểu hiện đa dạng, đồng thời cũng cần đi sâu nghiên cứu
tôn giáo cụ thể. Vấn đề tôn giáo, khái niệm tôn giáo trong thời đại hiện nay đang
là điều bức thiết. Vì diện mạo tôn giáo thế giới nói chung và từng tôn giáo nói
riêng đang có nhiều biến đổi to lớn, vì những hiện tượng tôn giáo mới liên tục
phát sinh. Trong đó, đáng chú ý là những hiện tượng giả danh tôn giáo nhưng thực
chất chỉ là những hiện tượng "ngoại vi" của tôn giáo, những hiện tượng "giả tôn
giáo", mang tính phản văn hóa hay thực dụng, phục vụ những mưu đồ không lành
mạnh của những lực lượng trần thế. Trong số hàng ngàn hiện tượng tôn giáo xuất
hiện trong thế kỷ XX, thì có khoảng mười tôn giáo tồn tại nhờ có những hoạt động
chính trị.
Muốn định nghĩa được những khái niệm tôn giáo không thể không điểm lại
một cách khái quát diễn trình tôn giáo qua lịch sử, điểm qua những doanh nghiệp
tôn giáo nói chung về phương diện từ nguyên học và của các nhóm tác giả từ khi
tôn giáo trở thành một đối tượng của khoa học, nhất là những thập niên gần đây,
khi diễn biến tôn giáo về nội dung, về những biểu hiện khác hẳn với các thời kỳ
lịch sử trước đây. Từ đó, mới có thể xét đối tượng nghiên cứu của xã hội học tôn
giáo.
Trong cuốn Readings in Sociology an Introduction, McGraw-Hill Ryerson
Limited, 1998, Lorne Tepperman, Nhà nghiên cứu xã hội học, Chủ nhiệm Khoa
Xã hội học, Trường Đại học Tổng hợp Toronto, Canada, đã xác định sự biến đổi
8
tôn giáo, tổ chức tôn giáo, niềm tin tôn giáo và lối sống tôn giáo, là những vấn đề
quan tâm hàng đầu của xã hội học tôn giáo. Ngoài ra, việc xem xét những khía
cạnh xã hội của tôn giáo theo hướng xã hội học cũng được nhiều người quan tâm;
chẳng hạn như, M. Arguler và B. B. Hallahmi, hai nhà nghiên cứu tôn giáo người
Mỹ, đã nghiên cứu theo hướng nhu cầu và sự điều chỉnh hành vi tôn giáo.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đặc biệt, có sự gắn bó chặt chẽ với một
lực lượng huyền bí, đó là lực lượng siêu tự nhiên. Tôn giáo, chính là mối quan hệ
giữa những tín đồ tôn giáo và lực lượng siêu tự nhiên. Mối quan hệ đặc biệt này,
đã quy định những đặc điểm xã hội của những tín đồ tôn giáo, của các cộng đồng
tôn giáo và sự khác biệt về mặt xã hội giữa những tín đồ tôn giáo với những người
không theo tôn giáo.
Như vậy, trọng tâm của xã hội học tôn giáo là nghiên cứu những tác động tôn
giáo mang tính tương hỗ trong cuộc sống của cá thể, tức là nghiên cứu kinh
nghiệm tôn giáo, niềm tin tôn giáo, lối sống tôn giáo. Vì vậy, nghiên cứu tôn giáo
không tách rời khỏi xã hội học.
Phương pháp khoa học để nghiên cứu xã hội học tôn giáo, là sự thống nhất
giữa chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa kinh nghiệm và những nghiên cứu mang
tính hệ thống. Sự nghi ngờ khả năng nhận thức hiện thực khách quan (hoài nghi),
với việc coi kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của tri thức và nghiên cứu thực
nghiệm, là không thể thiếu được khi nghiên cứu nhận thức tôn giáo.
Nhiều nhà xã hội học phương Tây (Ba Lan, Đức...), đã dựa trên nguyên tắc
hoạt động để nghiên cứu xã hội học tôn giáo. Họ đánh giá cao vai trò của các yếu
tố xã hội đối với sự hình thành và phát triển những đặc điểm xã hội của tín đồ và
các nhóm tôn giáo. Theo các nhà xã hội học này, xã hội học tôn giáo cần phải
nghiên cứu các khía cạnh xã hội của tín đồ trên cả hai bình diện xã hội và thực
tiễn.
Như vậy, đối tượng của xã hội học tôn giáo được xác định: Nghiên cứu sự
biến đổi tôn giáo, tổ chức tôn giáo, niềm tin tôn giáo, lối sống tôn giáo, nhu cầu và
sự điều chỉnh hành vi tôn giáo, đặc điểm xã hội của những tín đồ tôn giáo và phân
biệt những đặc điểm này trong hành vi của những tín đồ tôn giáo và những người
không theo tôn giáo.
II. CHỨC NĂNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC TÔN GIÁO
Là một lĩnh vực khoa học xã hội, nghiên cứu một hiện tượng xã hội đặc biệt,
xã hội học tôn giáo có chức năng nghiên cứu về sự thỏa mãn các nhu cầu đa dạng
của tín đồ; bảo tồn chuẩn mực đạo đức và ký ức; phát triển tâm linh (mặt sáng
9
tạo, thiên về khía cạnh văn hóa). Đây là những vấn đề được rút ra trong quá trình
tiến hành tổng kết các cuộc điều tra xã hội học tôn giáo. Việc đi sâu vào mặt chức
năng, nghĩa là coi các tôn giáo như một thành tố của đời sống xã hội, có thể giúp
cho việc nghiên cứu dễ hướng vào những vấn đề trường tồn của đời sống tôn giáo
trong một chỉnh thể xã hội. Trên cơ sở đó, xã hội học tôn giáo tìm ra một phương
pháp luận nghiên cứu tương đối thống nhất, ngay cả khi tôn giáo có những biến
đổi hết sức to lớn trên bình diện xã hội.
Như vậy, cùng với chức năng nghiên cứu lý luận, xã hội học tôn giáo có chức
năng nghiên cứu ứng dụng. Xã hội học tôn giáo là một ngành khoa học mới, cho
nên cả hai chức năng nghiên cứu lý luận và ứng dụng đều rất phức tạp, còn nhiều
vấn đề cần phải làm sáng tỏ và phải giải quyết. Vì vậy, một số chức năng nghiên
cứu của xã hội học tôn giáo dưới đây, chỉ là những phác thảo ban đầu.
II. 1. Chức năng bảo tồn các giá trị đạo đức và ký ức tập thể
Trong một số cuộc điều tra xã hội học, trong quá trình phỏng vấn, có những
câu hỏi hướng về sự tìm hiểu hành vi và hoạt động tinh thần cụ thể để xác định
xem việc phát triển công nghiệp và áp dụng nó trong sản xuất xã hội, có phải là
tội lỗi hay không; rồi với chính những hành vi được coi là tội lỗi đó, có thể được
cứu chuộc lại tội lỗi hay không?. Kết quả thu được cho thấy, số khá lớn hành vi,
người trả lời thường có mặt cảm tội lỗi và trong số những người cảm thấy có lỗi
đó thì số đông cho rằng, sai lầm đó không thể chuộc lại được. Với hai hành vi: "cố
ý làm người khác đau khổ" và "quan hệ tình dục ngoài hôn nhân", đại đa số người
trả lời đều cho là tội lỗi. Trong đó, hơn một nửa cho điều này là một sai lầm
không thể chuộc lại được. Tỷ lệ này cũng khá cao trong những vấn đề khác, điều
này trái với cái nhìn "lạc quan", rút ra từ kết quả câu hỏi "chuộc lại lỗi được
không?", được thực hiện trong một số cuộc điều tra khác. Như vậy, chỉ có dưới
10% khẳng định là có những việc làm sai không thể sửa chữa được. Kết hợp với
các phỏng vấn trực tiếp, có thể thấy sự ràng buộc của các chuẩn mực đạo đức đối
với việc đánh giá hành vi có một vai trò rất lớn. Phải chăng, cái cơ chế của sự
ràng buộc đạo đức này, bắt nguồn một phần từ tôn giáo? Nếu đúng là như vậy, thì
cái tôn giáo của số đông phải chăng là tôn giáo hường về tu dưỡng bản thân và
làm việc, bảo tồn các giá trị cơ bản của đời sống xã hội?
Chức năng nghiên cứu nền tảng của đời sống tôn giáo là bảo tồn những
truyền thống xã hội. Ở đây, chúng ta có thể nói đến một nét đặc biệt quan trọng
của nó, đó là sự trung thành với ký ức tập thể. Chính ở điểm này mà tôn giáo phát
huy vai trò của nó là tạo thành những chất keo dính kết tình đoàn kết xã hội,
nhằm thiêng liêng hóa các quan hệ bởi sự gắn bó những người đang sống với nhau
10
và đặc biệt với những người đã chết. Trong các cuộc phỏng vấn, câu trả lời đơn
giản nhưng phổ biến là: thờ cúng ông bà để "Nhớ người đã khuất". Mệnh đề này
hé lộ một nội dung quan trọng, đích thực của việc thờ cúng là bảo tồn ký ức qua
đó mà mỗi tập thể có thể tiếp tục tự mình tái tạo và phát triển.
II. 2. Phát triển các phẩm chất tâm linh
Chức năng thứ hai của xã hội học tôn giáo, là nghiên cứu sự hính thành, phát
triển và hoàn thiện các phẩm chất tâm linh ở mỗi các thể, thường thấy trong nhóm
tôn giáo theo đạo Phật. Các tín đồ đạo Phật, cho rằng, việc tu dưỡng bản thân
(bước đầu của sự hình thành phẩm chất tâm linh), là điều kiện cần thiết để duy trì
các chuẩn mực đạo đức. Nhưng ở đây, chúng ta cần phân biệt một bên là chuẩn
mực được coi như những ràng buộc từ bên ngoài, ảnh hưởng đến thế giới tinh thần
của người trong cuộc và một bên là phẩm chất tâm linh được coi như những đòi
hỏi sâu sắc, xuất phát từ bên trong, thường có mục đích vị tha. Có bộ phận đáng
kể tín đồ đi lễ với mục đích sâu xa, như để phúc cho con người, đa số tín đồ theo
đạo Phật là do đòi hỏi bên trong của bản thân để làm việc thiện, hoặc vì yêu thích
những điều tốt đẹp trong tôn giáo này. Động cơ theo đạo, do thấy cuộc sống là
đau khổ chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Sự tư dưỡng bản thân và phát triển các phẩm
chất tâm linh, còn thể hiện rộng rãi ở những đóng góp tích cực của các tôn giáo và
đời sống, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự phát triển tốt đẹp của xã hội thể hiện
qua việc khơi dậy các truyền thống văn hóa tâm linh tôn giáo trên cả các lĩnh vực
của đời sống tinh thần.
II. 3. Sử dụng tôn giáo phục vụ các nhu cầu cá nhân
Chức năng thứ ba của xã hội học tôn giáo là nghiên cứu sự an ủi, khơi dậy
lòng khao khát sống ở những người gặp bất hạnh, cũng như giúp đỡ những người
có mong muốn làm được những điều vượt quá khả năng của mình. Loại hình này
của tôn giáo, thể hiện một cách sinh động trong các hành vi đủ loại của mối quan
hệ giữa con người với thế giới huyền bí. Rõ ràng, nếu vai trò đầu của tâm linh dễ
được xã hội chấp nhận một cách phổ biến do tính chất chuẩn mực và lý tưởng của
nó, thì vai trò thứ ba này lại nhận được một thái độ đối xử khá phức tạp vì nó là
một nhu cầu cá nhân hơn, sát thực tế hơn nhiều và vì thế đa dạng hơn. Động lực
lợi ích cá nhân, dù xấu hay tốt, được ủng hộ hay lên án về mặt xã hội, thường thúc
đẩy người ta đến với tôn giáo. Đây cũng chính là cơ sở, trung tâm tạo nên chất
men trực tiếp của đời sống tôn giáo hàng ngày, là một trong những động lực chính
của "không gian tôn giáo mới". Chức năng này của tôn giáo, dường như được biểu
hiện một cách sôi động nhất trong sự phát triển của tôn giáo những năm gần đây.
11
Một cách tổng thể, có thể nhận định là sự phai nhạt dần của tôn giáo truyền
thống, với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, một số giá trị tôn
giáo có ý nghĩa tích cực đối với việc củng cố các quan hệ cộng đồng vẫn được nỗ
lực bảo tồn và khôi phục. Việc nhận diện đúng hiện tượng tôn giáo trong đời
sống, do đó, là bước đi quan trọng hàng đầu để có thể tiếp cận đúng với đối tượng
nghiên cứu đang trong giai đoạn chuyển biến mạnh mẽ. Giả thuyết về sự khác
biệt giữa bộ phận Kitô giáo với bộ phận các tôn giáo truyền thống, đã giúp ích
cho việc rút ra một số đặc trưng của các hệ thống tôn giáo này. Tuy nhiên, nếu chỉ
như vậy, sẽ không đủ để nhận thức được những thay đổi lớn của tình hình tôn giáo
đương đại. Để tiếp tục tiến hành những nghiên cứu mới, không thể không nhận
thấy sự xuất hiện "một không gian tôn giáo mới", là kết quả của những biến đổi
xã hội gần đây. Trên bình diện đó, có một số điểm đáng chú ý sau: vai trò của tôn
giáo trong các mối quan tâm hàng ngày, sự chuyên môn hóa các biểu tượng tôn
giáo có tính thực dụng, sự hình thành một không gian tôn giáo mang tính cá thể
ngày càng cao, chiều sâu tâm lý là một lĩnh vực quan trọng khiến tôn giáo ăn sâu
vào xã hội, bên cạnh những ánh hưởng trên quy mô lớn, mối quan hệ giữa tôn
giáo và khoa học ngày càng trở nên một trong những động lực phát triển của tôn
giáo, sự biến đổi của các biểu tượng tôn giáo truyền thống, sự kết hợp giữa các
truyền thống tôn giáo tạo nên sức sống mới, sự phân hóa theo các mức độ đối với
tôn giáo ở mỗi tầng lớp xã hội, giữa các trình độ học vấn khác nhau, giữa các thế
hệ khác nhau, giữa các địa phương... Cùng với việc khẳng định rõ, một số yếu tố
nền tảng và gắn với bản chất của đời sống tôn giáo như: sự bảo tồn truyền thống,
sự phát triển các phẩm chất tâm linh, việc đáp ứng các nhu cầu thực dụng... Trong
sự đa dạng đó, việc tiếp cận tổng hợp bằng các phương pháp xã hội học và nghiên
cứu liên ngành sẽ là những hỗ trợ quý báu để đạt đến các nghiên cứu toàn diện về
đời sống tôn giáo hiện nay.
Như vậy, xã hội học tôn giáo là một ngành khoa học mới, nên việc xác định
chức năng nghiên cứu có vai trò đặc biệt quan trọng; đồng thời, cần thể hiện ở các
nhiệm vụ như:
- Xác lập hệ thống khái niệm cơ bản trong cấu trúc môn học, trên cơ sở đó
hoàn chỉnh lý luận về xã hội học tôn giáo;
- Nguyên nhân hình thành các đặc điểm xã hội của những tín đồ tôn giáo và
các cộng đồng giáo dân;
- Tìm hiểu sự hình thành và phát triển những đặc điểm xã hội của các loại
hình tôn giáo có tính đặc thù trong mỗi quốc gia;
12
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa các đặc điểm xã hội của tôn giáo và văn hóa
của dân tộc;
- Tìm hiểu vai trò của các yếu tố xã hội tôn giáo trong đời sống của cộng
đồng xã hội đương đại.
III. XÃ HỘI HỌC TÔN GIÁO TRONG HỆ THỐNG CÁC LĨNH VỰC XÃ
HỘI HỌC
Cùng với sự phát triển của xã hội, xã hội học ngày càng hình thành các phân
ngành mới của mình. Đến nay đã có hơn 200 phân ngành của xã hội học. Trong
hệ thống này, xã hội học tôn giáo đứng ở khu vực nào của khoa học xã hội nói
chung và xã hội học nói riêng, đó là một câu hỏi cần được giải đáp.
Việc xác định xã hội học tôn giáo trong hệ thống của khoa học xã hội, phải
xuất phát từ phươg pháp nghiên cứu, từ đặc điểm chủ yếu của các yếu tố tôn giáo.
Những yếu tố xã hội học tôn giáo không chỉ phản ánh tính xã hội của các tín
đồ tôn giáo, mà còn phản ánh tính xã hội của các nhóm tôn giáo; và sự phản ánh
tính xã hội của các nhóm tôn giáo là một trong những nội dung cơ bản của những
yếu tố cấu thành xã hội học tôn giáo. Các tín đồ và những người theo tôn giáo nói
chung, không thực hiện hành vi tôn giáo của mình một cách đơn lẻ mà thực hiện
trong các nhóm nhất định. Sự hình thành, phát triển và tính tổ chức của các nhóm
này có thể ở những mức độ khác nhau. Có những nhóm hình thành một cách tự
phát, nhưng có những nhóm lại có tính tổ chức chặt chẽ và mang tính cộng đồng
cao (chẳng hạn như Kitô giáo, Hồi giáo...). Những quan điểm, quan niệm, cảm
xúc và hành vi tôn giáo đều được hình thành qua giao tiếp và hoạt động chung
trong cộng đồng tôn giáo.
Các tín đồ, những người theo tôn giáo là một kiểu nhân cách xã hội đặc biệt.
Các đặc điểm nhân cách của họ là kết quả tiếp thu các quan điểm, các hình thức
của hành vi tôn giáo của người khác từ gia đình, môi trường xã hội... Như vậy, tìm
hiểu các đặc điểm xã hội tôn giáo dựa trên nguyên tắc hoạt động của mối quan hệ
tương hỗ giữa cá nhân và nhóm (nhóm và cá nhân là vấn đề cần phải đặt ra).
Mặt khác, những phương pháp luận nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu
của xã hội học có ý nghĩa quyết định đối với xã hội học tôn giáo. Nguyên tắc hoạt
động, cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản để nghiên cứu xã hội học tôn
giáo. Các phương pháp của xã hội học như phương pháp triết học, phương pháp
nghiên cứu tài liệu, phương pháp phỏng vấn, phương pháp quan sát... được sử
dụng như những phương pháp chính của xã hội học tôn giáo.
13
Từ sự phân tích như vậy, cho thấy việc nghiên cứu xã hội học tôn giáo được
dựa trên bình diện của xã hội học. Có thể nói, xã hội học tôn giáo là một lĩnh vực
của xã hội học, như xã hội học dân tộc, xã hội học môi trường, xã hội học pháp
luật, xã hội học quản lý...
Như vậy, không có nghĩa là nghiên cứu những khía cạnh xã hội của tôn giáo
tách rời các phân ngành khác của xã hội học. Những thành tựu nghiên cứu của xã
hội học đại cương, xã hội học về giới, tâm lý học xã hội và cả sinh lý học... cũng
có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu những đặc điểm xã hội của tín đồ
tôn giáo. Chẳng hạn, từ sinh lý học, đã cho phép chúng ta hiểu được nhiều đặc
điểm tâm lý xã hội của tín đồ, đặc biệt là những hành vi sùng đạo, đồng thời giải
thích một số khía cạnh của hành vi tôn giáo, trong đó sự phức tạp, xung đột trong
đời sống của tín đồ, những hành vi bắt chước trong quá trình thực hiện các lễ nghi
tôn giáo.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC TÔN GIÁO
Là một lĩnh vực của xã hội học, xã hội học tôn giáo sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cơ bản của xã hội học, triết học, tâm lý học xã hội... để nghiên
cứu lối sống, ý thức hành vi tôn giáo, thực hành tôn giáo và sự biến đổi tôn giáo.
IV. 1. Phương pháp triết học
Các phương pháp triết học, liên quan đến mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của
triết học, nghĩa là việc phủ nhận hoặc thừa nhận khả năng nhận thức của con
người. Triết học có nhiều phương pháp, nhưng những phương pháp ấy, đều quy về
hai phương pháp chung nhất, phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
Xã hội học nói chung, đã sử dụng cả hai phương pháp này trong nghiên cứu của
mình, tuy nhiên, phương pháp biện chứng thường được sử dụng như là phương
pháp nền tảng của xã hội học Mác-xít. Phương pháp biện chứng, cho phép chúng
ta nhận thức đối tượng trong các mối quan hệ với nhau, ảnh hưởng qua lại với
nhau.
Phương pháp biện chứng, trong nghiên cứu tôn giáo, cho chúng ta nhận thức
đối tượng ở trạng thái vận động, biến đổi và phát triển. Mọi sự biến đổi của tôn
giáo, hành vi của tín đồ... đều có nguồn gốc từ sự tương tác mang tính xã hội, mà
thực chất là xuất phát từ sự xung đột và giải quyết các xung đột.
IV. 2. Phương pháp quan sát
Quan sát là một phương pháp nghiên cứu của xã hội học tôn giáo. Những
người nghiên cứu, quan sát hành vi của các cá thể hay cộng đồng tôn giáo trong
14
việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Chẳng hạn, quan sát hành vi trong thời gian
thực hiện các nghi lễ cúng tế, cầu nguyện. Để quan sát đạt hiệu quả cao, cần thực
hiện các yêu cầu như: vạch kế hoạch nghiên cứu, cách thức ghi chép dữ liệu, tìm
hiểu đặc điểm của đối tượng quan sát và địa bàn quan sát. Quan sát cần phải được
tiến hành một cách tự nhiên, tức là người nghiên cứu không can thiệp vào hành vi
của tín đồ. Người quan sát cần có những kỹ năng, sự khéo léo trong quá trình
nghiên cứu. Việc ghi chép dữ liệu có thể tiến hành bằng nhiều hình thức khác
nhau: ghi chép bằng sổ sách, bằng chụp ảnh, quay camera quá trình thực hiện các
hành vi tôn giáo. Việc sử dụng camera giúp cho người nghiên cứu có điều kiện
xem lại, phân tích kỹ các hành vi, trạng thái cảm xúc của tín đồ trong các thời
điểm sau đó.
Do hạn chế của phương pháp quan sát là chỉ ghi lại được các trạng thái cảm
xúc, hành vi của tín đồ thể hiện ra bên ngoài nên phương pháp này cần kềt hợp
với một số phương pháp nghiên cứu khác.
IV. 2. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu xã hội học tôn giáo, chủ yếu
được thực hiện dưới dạng thực nghiệm tự nhiên. Do không dùng những tác động
bên ngoài ảnh hưởng đến đời sống xã hội của tín đồ, nên nó có thể thu được
những kết quả có tính khách quan. Đối tượng nghiên cứu là các tín đồ riêng lẻ, tập
đoàn, nhóm xã hội và cộng đồng tôn giáo.
IV. 3. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Đây là phương pháp thường được sử dụng nhiều trong nghiên cứu các hiện
tượng xã hội của tôn giáo. Việc nghiên cứu các tài liệu, hiện vật có thể giúp
chúng ta làm sáng tỏ sự hình thành và phát triển của một tôn giáo hay một cộng
đồng tôn giáo nào đó, sự hình thành các đặc điểm xã hội của một tín đồ hay thủ
lĩnh tôn giáo. Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng nhiều ở Pháp, Nga và
Ý. Ngay từ thế kỷ thứ XIX, nhiều nhà xã hội học đã nghiên cứu những tài liệu ghi
chép công việc hàng ngày của các nhà thần học, những người tu hành theo chủ
nghĩa khổ hạnh, các tu sĩ ẩn dật... trong việc tìm hiểu tính xã hội của tôn giáo. kết
quả nghiên cứu các tài liệu này, đã giúp họ hoàn thành nhiều công trình về hành
vi tôn giáo, kinh nghiệm tôn giáo... Các kết quả nghiên cứu này, đã trở thành cơ sở
cho nghiên cứu tôn giáo (tôn giáo học và xã hội học tôn giáo).
IV. 4. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn, được sử dụng nhiều trong xã hội học tôn giáo.
Phỏng vấn được tiến hành dưới hai hình thức: phỏng vấn sâu và phỏng vấn viết
15
bằng bảng ankét. Các câu hỏi có thể dưới dạng câu hỏi đóng hoặc câu hỏi mở.
Việc sử dụng phương pháp này, có thể làm sáng tỏ nhận thức, tình cảm của tín đồ
đối với tôn giáo mà họ tham gia. Đối với phỏng vấn miệng, cần chú ý cách thức
đặt câu hỏi, xây dựng bầu không khí cởi mở, thân thiện và hiểu biết lẫn nhau giữa
người phỏng vấn và người được phỏng vấn.
Mỗi phương pháp, đều có những ưu điểm và hạn chế riêng; vì vậy, khi
nghiên cứu một vấn đề nào đó của xã hội học tôn giáo cần phải kết hợp nhiều
phương pháp khác nhau. Có như vậy kết quả thu được mới có tính khoa học, tính
chân thực và độ tin cậy cao.
16
Chương II
HỌC THUYẾT MARX-LENINE
VỚI Ý NGHĨA NỀN TẢNG
CỦA XÃ HỘI HỌC TÔN GIÁO
I. K. MARX VÀ F. ENGELS BÀN VỀ TÔN GIÁO
Marx và Engels, cùng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước Đức nửa đầu
thế kỷ XIX có nhiều biến động về mặt kinh tế - xã hội. Trong đời sống chính trị, ở
Đức xuất hiện nhiều tổ chức dân chủ - tự do. Trong đời sống tư tưởng, luôn luôn
diễn ra những cuộc tranh luận giữa các trường phái khác nhau về học thuyết của
Hégel. Tác phẩm “Bản chất đạo Cơ đốc” của L. Feuerbach, thuộc phái Hégel trẻ,
xuất bản năm 1984, có nhiều ảnh hưởng đặc biệt tới K. Marx và F. Engels trong
lĩnh vực tôn giáo. Năm 1842, hai ông còn đứng trên lập trường duy vật siêu hình
của L. Feuerbach. Nhưng sau khi tiếp thu tư tưởng của L. Feuerbach có phê phán,
bổ sung, đến 1844, K. Marx và F. Engels đã chuyển sang lập trường duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
Ngay trong thời kỳ đầu hình thành các quan điểm duy vật biện chứng, K.
Marx và F. Engels đã kiên quyết đấu tranh bảo vệ quyền lãnh đạo của triết học
đối với tư duy và sự độc lập hoàn toàn của triết học đối với tôn giáo. Hai ông chỉ
ra rằng, triết học duy tâm có lợi cho tôn giáo, nó là hệ thống các khái niệm được
hoàn thiện và có sức thuyết phục hơn tôn giáo; giữa chúng không có sự khác nhau
căn bản trong việc giải quyết những vấn đề cơ bản của triết học. Chúng cũng đem
lại cho con người một thế giới quan giả dối. Hai ông phê phán học thuyết duy tâm
biện chứng của Hégel và kiên quyết cải tạo nó. Việc lập luận triết học phủ định
tôn giáo, việc kế thừa có chọn lọc tư tưởng duy vật của các trường phái, các hệ
thống tư tưởng duy vật chủ nghĩa tiền bối theo tinh thần duy vật biện chứng, đã
giúp cho K. Marx và F. Engels khắc phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy
vật siêu hình.
Quá trình phát triển của khoa học tự nhiên, của lực lượng sản xuất và kỹ
thuật, giúp cho chủ nghĩa duy vật biện chứng có thêm luận cứ và làm sụp đổ bức
tranh thế giới giả dối của tôn giáo. Từ các thành tựu của khoa học tự nhiên đương
thời, F. Engels đã khái quát ba phát minh quan trọng nhất: phát minh về cấu tạo tế
bào, định luật bảo toàn năng lượng và tiến hóa luận của Darwin, là những thành
17
tựu to lớn của khoa học tự nhiên, đã giúp cho chủ nghĩa duy vật biện chứng làm
lung lay tham vọng độc quyền nắm giữ chân lý của Cơ đốc giáo, đã phá không chỉ
lý thuyết linh hồn bất tử mà cả thuyết cho rằng, thế giới và con người do Chúa
sáng tạo ra. Theo các quan niệm của tôn giáo, lịch sử xã hội loài người là do
Thượng đế làm nên. Song, chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng phá bỏ nốt dinh luỹ cuối
cùng đó của tôn giáo. Như vậy, tư tưởng vô thần của K. Marx và F. Engels, đã dựa
trên nền tảng vững chắc của cả chủ nghĩa duy vật biện chứng lẫn chủ nghĩa duy
vật lịch sử.
K. Marx và F. Engels, đã liên tục đấu tranh chống lại luận điểm duy tâm và
tôn giáo về xã hội cho rằng, sự tồn tại của các nhà nước và các nền văn minh nhất
thiết phải gắn liền với sự tồn tại của những tôn giáo nhất định. Bằng các dẫn
chứng lịch sử, các ông khẳng định rằng, chính những lúc nền văn minh phát triển
lại là những lúc tôn giáo đi vào con đường suy vong, rằng không phải sự suy vong
của tôn giáo kéo theo sự suy vong của các quốc gia, mà ngược lại sự suy vong của
các quốc gia kéo theo sự suy vong của tôn giáo. Thực tế, mỗi bước ngoặt lịch sử
trong các chế độ xã hội lại đưa đến sự thay đổi trong quan điểm và quan niệm của
con người. Tôn giáo đã có những thay đổi để thích nghi với chế độ chiếm hữu nô
lệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản. Nhưng, sự thay đổi của tôn giáo trong chủ
nghĩa xã hội không phải là thay đổi để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa như trước
đây. Nó phải tiêu biến khỏi ý thức xã hội vì chủ nghĩa xã hội không có áp bức,
bóc lột nên không cần đến sự biện hộ của tôn giáo; vì con người, như Marx nói:
“Là thực thể cao nhất, cần phải được giải phóng khỏi ảo tưởng tôn giáo để họ có
thể suy nghĩ, hành động xây dựng hiện thực của họ với tính cách là những con
người có lý trí”1. Trong chủ nghĩa xã hội, các căn nguyên xã hội của tôn giáo
không còn, nên cũng không còn cơ sở tồn tại của tôn giáo. Song điều đó không có
nghĩa rằng, những người Mác-xít không cần phải đấu tranh chống tôn giáo. Trong
quá trình xây dựng xã hội mới, giai cấp công nhân phải đấu tranh chống lại ảnh
hưởng của tàn dư tôn giáo, tác động tiêu cực của giáo hội. Điều đó làm cho các
đảng vô sản chân chính, khác căn bản với các đảng xã hội hữu khuynh. Những
đảng này, không những khẳng định sự hòa hợp giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo
mà còn tỏ ra trung thành với tôn giáo. Họ đã rời bỏ thế giới quan khoa học, duy
vật biện chứng. K. Marx và F. Engels, trong khi đề ra nhiệm vụ tuyên truyền chủ
nghĩa vô thần, cũng luôn luôn nhấn mạnh rằng, công tác tuyên truyền chủ nghĩa
vô thần cần phải phụ thuộc vào các nhiệm vụ chung của giai cấp công nhân,
không được thổi phồng ý nghĩa của công tác đó để đưa nó lên hàng đầu. Khi đề ra
1 K. Marx và F. Engels, Toàn tập, tập 6, NXB Tiến bộ, M. 1974, tr. 78.
18
cương lĩnh cho rằng, trong tương lai, mọi nhà nước cần phải tách giáo hội ra khỏi
nhà nước, trường học ra khỏi giáo hội, K. Marx và F. Engels kiên quyết đứng trên
lập trường tự do tín ngưỡng. Một đảng Mác-xít, phải tôn trọng tự do tín ngưỡng
nhưng không khước từ việc tác động tới ý thức của đông đảo tín đồ bằng thế giới
quan của mình. Con người xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể là những con
người tin tưởng vào các lực lượng siêu tự nhiên. Đó là những con người tin tưởng
vào lực lượng của chính mình, của nhân dân, của các dân tộc khác, tin tưởng vào
sự lãnh đạo sáng suốt của tổ chức đảng được vũ trang bằng học thuyết Marx-
Lenine, tin vào sức mạnh của khoa học. Lòng tin ấy, giúp con người chiến thắng
và chinh phục thiên nhiên với tính cách là những con người như Marx nói: “Thoát
ra khỏi ảo tưởng tôn giáo, để xây dựng cuộc sống hiện thực của chính mình”.
I. 1. Sự phát sinh của tôn giáo
Theo F. Engels, trong thời kỳ xa xưa, tôn giáo nảy sinh từ quan niệm sơ sài
không hiểu biết của con người về bản chất của chính con người và bản chất của
giới tự nhiên xung quanh họ. Tôn giáo nảy sinh một cách tự phát và “không có sự
lừa dối”2. Nguyên nhân làm tôn giáo xuất hiện trong thời đại nguyên thuỷ, là do
nền kinh tế thấp kém lúc đó. Chính vì vậy, chủ nghĩa Marx, coi sự ra đời của tôn
giáo là một điều hợp quy luật. Ý thức của người nguyên thuỷ trực tiếp gắn bó với
sản xuất, không tách rời sản xuất. Người nguyên thuỷ đã thần thánh hóa chúng,
coi các vật và các hiện tượng cụ thể trong tự nhiên có sự gắn bó trực tiếp với thực
tiễn cuộc sống của họ. Nhận thức của họ về thiên nhiên mang nhiều tính tự nhiên,
đơn sơ. Quan điểm này, không cho phép các nhà duy tâm và thần học muốn hiện
đại hóa ý thức nguyên thuỷ, tìm ở người nguyên thuỷ những nhân tố của linh báo
cao siêu.
Quan điểm sai lầm về tôn giáo của các nhà nghiên cứu xã hội học tư sản,
xuất phát từ quan điểm duy tâm cho rằng, người nguyên thuỷ trước hết là một
thực thể tư duy, rồi sau đó mới là thực thể hành động và sản xuất. Các nhà sáng
lập chủ nghĩa Marx, coi cơ sở vật chất có ý nghĩa quan trọng nhất trong sự hình
thành các quan niệm tôn giáo nguyên thuỷ, song không phiến diện, một chiều.
Marx và F. Engels cho rằng, trong điều kiện đời sống tinh thần tuy còn nghèo nàn,
nhưng do tính độc lập tương đối của ý thức, tư tưởng, các quan niệm tôn giáo của
người nguyên thuỷ cũng vẫn chịu sự tác động của một số những nhân tố khác, gắn
với đặc điểm tâm sinh lý của con người, với hoạt động ý thức của con người
nguyên thuỷ. Mặc dầu hai ông không chuyên nghiên cứu về tôn giáo nguyên
2
Sđd, tr. 20.
19
thuỷ, nhưng qua những ý kiến của hai ông về vấn đề này, là những chỉ dẫn cụ thể
về cơ chế hình thành các tín ngưỡng nguyên thuỷ, cùng những hình thức của
chúng. Cơ chế qua sự phản ánh hoang đường các lực lượng tự nhiên trong xã hội
nguyên thuỷ sau này của các lực lượng xã hội trong xã hội có giai cấp, là việc
nhân cách hóa chúng. Điều căn bản là cần phải coi sự phản ánh hoang đường
trong ý thức người nguyên thuỷ về môi trường xung quanh, về các vật và các hiện
tượng mà họ tiếp xúc trong quá trình lao động là nguồn gốc của họ.
Về sự ra đời của Cơ đốc giáo, có nhiều quan điểm được thể hiện trong nhiều
tác phẩm của các nhà sử học, triết học, xã hội học tư sản. Nhưng họ đều bị bế tắc
trong cách giải thích, do đó không tìm được chân lý. F. Engels đã giải quyết một
cách khoa học vấn đề này, trong khi dựa vào chính các tác phẩm của họ
3
. Đây
cũng chính là nền tảng, cơ sở cho các nhà xã hội học Mác-xít nghiên cứu về tôn
giáo.
I. 2. Tôn giáo - một sự phản ánh không đúng
hiện thực trong ý thức con người
Các nhà xã hội học Mác-xít, lúc đầu nghiên cứu về tôn giáo, thường cho tôn
giáo là kết quả của sự lừa bịp. Nhưng như K. Marx và F. Engels chỉ rõ, nguồn gốc
của tôn giáo chính là xã hội, là tồn tại xã hội, là cuộc sống của con người bị phản
ánh một cách hoang đường, kỳ dị. Đứng trên quan điểm đó, K. Marx và F. Engels
cũng phê phán L. Feuerbach, cho tôn giáo là sự phản ánh hoang đường về bản
thân con người và các biểu tượng tôn giáo cũng phát sinh từ con người. Thần
thánh, theo L. Feuerbach, là kết quả việc con người tách bản chất của con người
ra khỏi con người. Nhưng con người ở L. Feuerbach, chỉ là một hiện tượng sinh vật
học, một cơ thể, chứ không phải là một thực thể xã hội, không biến chuyển theo
lịch sử. K. Marx và F. Engels cho rằng, cần phải thay con người trừu tượng của L.
Feuerbach, bằng “con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội”4, của một
giai đoạn lịch sử nhất định, của một trình độ nhất định trong sự phát triển của lực
lượng sản xuất, của nền văn hóa vật chất và tinh thần, của tính chất quan hệ sản
xuất, của chế độ chính trị, v.v... Tóm lại, trong tôn giáo được phản ánh hoang
đường không phải là bản chất con người nói chung, mà là xã hội hiện thực với nội
dung xã hội do lịch sử quyết định.
Như vậy, theo cách nói của Marx, tôn giáo là một “sản phẩm xã hội”. Nó
được quy định và quyết định bởi lịch sử. Và vì cơ sở của quá trình lịch sử là sự
phát triển của các điều kiện vật chất của đời sống xã hội, nên nguồn gốc phát sinh
3 K. Marx-Engels, Toàn tập, tập1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 56.
4 Sđd, tr. 56.
20
các biểu tượng tôn giáo cũng ở ngay trong điều kiện sinh sống của con người.
Những lực lượng trần tục thống trị con người, đè nặng lên ý thức của họ và được
phản ánh vào trong ý thức của họ một cách hoang đường, đã sinh ra những biểu
tượng siêu tự nhiên. Những hình ảnh và biểu tượng tôn giáo trong ý thức của con
người, chính là tồn tại được phản ánh. Học thuyết của K. Marx và F. Engels về sự
phản ánh hoang đường hiện thực, với tính cách là nguồn sản sinh và nội dung của
lòng tin tôn giáo, đã giáng một đòn quyết định vào các quan niệm thần học, vào
các quan niệm tầm thường, nông cạn của chủ nghĩa siêu hình trong vấn đề nguồn
gốc của tôn giáo.
Nếu trong thế giới quan tôn giáo, tồn tại trần tục của con người được phản
ánh một cách hoang đường, thì những quan điểm tôn giáo cùng các hệ thống tín
điều hay các giáo điều, đều có cơ sở của chúng là tình hình kinh tế, hạ tầng cơ sở
vật chất của một xã hội nhất định. Tuy nhiên, chúng cũng tác động trở lại hạ tầng
cơ sở và trong một chừng mực nào đó chúng cũng giữ vai trò chủ động. Bức tranh
càng trở nên phức tạp hơn một khi các quan điểm, biểu tượng tôn giáo không phải
chỉ chịu sự chịu sự tác động của cơ sở hạ tầng mà còn cả những yếu tố khác của
kiến trúc thượng tầng. Không thể không thấy rằng, tác động vào tôn giáo còn là
đạo đức, là triết học, là các quan điểm chính trị và pháp quyền. Trong vấn đề này,
giữa vai trò quan trọng là chính trị, nhà nước, các hoạt động của nhà nước, các
hình thức khác nhau của đấu tranh giai cấp, đều có ảnh hưởng trực tiếp đến tôn
giáo. Trật tự ở trên trời, chính là sự phản ánh cái trật tự dưới đất. Lối sống, đạo
đức thế tục cũng được phản ánh hoang đường thành lối sống, đạo đức của vương
quốc nhà trời cùng với những ước vọng, nỗi đau buồn của các tập đoàn, các giai
cấp xã hội khác nhau trong cuộc sống hiện thực. Mặt khác, tôn giáo cũng có ảnh
hưởng đến mọi mặt, mọi yếu tố của kiến trúc thượng tầng. Ảnh hưởng có biểu
hiện ra trong đời sống chính trị, trong sự phát triển của các quan điểm triết học,
đạo đức, mỹ học, xã hội học, trong sự phát triển của nghệ thuật, v.v... Thông
thường, ảnh hưởng đó mang tính chất phản động và là một gánh nặng đè lên mọi
yếu tố và mọi mặt của đời sống xã hội. Trong đời sống thực tế, có một số lớn các
yếu tố chằng chéo nhau, tác động lẫn nhau hết sức phức tạp. Tôn giáo là một
trong những yếu tố đó. Vào những năm tháng cuối đời, F. Engels đã làm sáng tỏ
vấn đề này trong các thư từ trao đổi.
Theo F. Engels, tôn giáo đứng cách rất xa đời sống vật chất và dường như xa
lạ với đời sống vật chất nhất. Giữa tôn giáo và cơ sở vật chất, có sự tác động của
các khâu trung gian. Cho nên, không thể tách biệt thẳng và trực tiếp tất cả mọi
biểu tượng tôn giáo từ cơ sở vật chất xã hội. Nếu việc tách ra đó, không đúng với
21
những yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng thì lại càng không đúng với tôn giáo,
hình thái ý thức xã hội cũng giống như triết học, đứng rất xa hiện thực. Tôn giáo
giống như bất cứ một yếu tố kiến trúc thượng tầng nào khác, cũng có tính độc lập
tương đối trong sự phát triển của nó. Mọi yếu tố đó, xét cho cùng đều do cơ sở hạ
tầng quyết định, nhưng mỗi yếu tố đó cũng có lô-gích nội tại riêng. Áp dụng vào
tôn giáo, điều đó có nghĩa rằng, các biểu tượng tôn giáo này có thể ảnh hưởng tới
các biểu tượng tôn giáo khác. Mặc dù tôn giáo không có lịch sử riêng, không phải
do linh báo, nhưng trong khuôn khổ và phạm vi của sự phụ thuộc vào cơ sở hạ
tầng, các biểu tượng tôn giáo theo một ý nghĩa nào đó, cũng có cuộc sống bên
trong của chúng. Trong sự độc lập tương đối với cơ sở hạ tầng, các biểu tượng tôn
giáo, vì đứng rất xa hiện thực nên càng biểu hiện tính lạc hậu nhiều hơn so với
các yếu tố ý thức, tư tưởng khác. Tính bảo thủ của tôn giáo, thể hiện rõ nét trong
thực tế là có những biểu tượng nào đó vẫn tồn tại rất lâu, sau khi các điều kiện
vật chất sinh ra chúng đã từ lâu không còn tồn tại.
Để hiểu thêm về bản chất tôn giáo, cần chú ý đến phần cuối trong định nghĩa
tôn giáo của F. Engels: “Sự phản ánh hoang đường, là sự phản ánh trong đó, các
lực lượng trần tục mang hình thức các lực lượng siêu phàm”5. Nét đặc trưng của
quan niệm hoang đường tôn giáo, so với các quan niệm hoang đường trong truyện
cổ tích ngụ ngôn, là cùng với quan niệm hoang đường tôn giáo còn có lòng tin vào
sự hiện hữu của những cái hoang đường đó như tin rằng, thế giới siêu tự nhiên tồn
tại song song với thế giới tự nhiên. Từ chỗ tin vào các lực lượng siêu tự nhiên, con
người vì thế cũng đi vào việc sùng bái chúng. Trong sự sùng bái đó, đức tin là cơ
sở của sự sùng bái. Vì không thấy đặc trưng của tôn giáo là việc tin và sùng bái
cái siêu tự nhiên, nên nhiều nhà tư tưởng tư sản cùng thời với K. Marx, F. Engels
và nhiều nhà tư tưởng tư sản hiện nay, coi tư tưởng của K. Marx và F. Engels, chủ
nghĩa xã hội khoa học, là những hình thức tôn giáo.
K. Marx và F. Engels, tiếp đó là Lenine, đã khẳng định rằng, các quan niệm
và tín ngưỡng tôn giáo được sinh ra do sự bất lực và hèn yếu của con người. Sự áp
bức của các lực lượng thiên nhiên và xã hội làm nảy sinh trong con người cảm
giác bất lực và hèn yếu. Những cảm giác này, đến lượt chúng, lại áp bức ý thức
con người, làm con người mất khả năng phê phán bằng tư duy, mất tỉnh táo và
không dám tìm hiểu những hiện tượng để phân tích chúng dưới ánh sáng của thực
tiễn và lý trí. Sự nghèo khổ, đã biến cuộc sống thành những chuyện hoang đường,
biến cái tự nhiên thành cái siêu tự nhiên. Trong cuộc sống khổ cực, con người
luôn luôn bám lấy những ảo tưởng để tự an ủi. Họ được hứa hẹn thêm bằng những
5 K. Marx-Engels, Toàn tập, tập1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 13.
22
điều tốt lành không bao giờ đến, vì nó ở mãi tận... thế giới bên kia, để bằng lòng
với cuộc sống hiện thực trong xã hội có các giai cấp đối kháng.
I. 3. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân
Công thức đó của Marx, được Lenine coi là: “Hòn đá tảng của toàn bộ thế
giới quan của chủ nghĩa Marx về tôn giáo”6. F. Engels viết rằng: “Trong lịch sử,
đại đa số nhân dân bị dùng làm công cụ đơn giản để làm giầu cho một nhóm
người có đặc quyền đặc lợi”7. Nhưng cái hệ thống hút máu đó, được che đậy dưới
những khẩu hiệu khác nhau của đạo đức, tôn giáo, chính trị. Các tu sĩ, các nhà
triết học, xã hội học, các nhà hoạt động chính trị khẳng định với nhân dân rằng, sự
nghèo khổ của họ là do ý thượng đế? Tôn giáo là chất ma tuý làm tê liệt tinh thần
đấu tranh của nhân dân với thuyết thiên định của nó. Trong khi làm con người mê
muội, tôn giáo hạ thấp nhân phẩm. Mác nói, tình cảm của con người thể hiện về
mặt phẩm giá của mình, về tự do, bị lấp kín trong những đám mây đen của thượng
đế.
Trong lịch sử loài người, đôi khi tâm trạng cách mạng của quần chúng và cả
những phong trào cách mạng nữa, cũng chiến đấu dưới ngọn cờ tôn giáo, như vậy,
phải chăng tôn giáo cũng đóng vai trò tích cực? F. Engels nhấn mạnh rằng, trong
bất cứ trường hợp nào, hình thức tôn giáo cũng đều mâu thuẫn với nội dung cách
mạng của phong trào cách mạng. Hình thức tôn giáo của các phong trào cách
mạng Trung thế kỷ XIX, của một số phong trào cuối thế kỷ XIX, là “kẻ thù bên
trong” của phong trào đó. Hình thức mâu thuẫn sâu sắc với nội dung cách mạng
của chúng, làm lu mờ mục tiêu đấu tranh cũng như nội dung thực tế của chúng,
khiến cho chúng đi đến tan rã. K. Marx và F. Engels, luôn luôn nhấn mạnh rằng,
thế giới quan giả dối của tôn giáo không phải là vô hại mà là một chất ma tuý tinh
thần, bất lợi cho người lao động.
I. 4. Giáo hội và giới tu sĩ
K. Marx và F. Engels nhận xét rằng, giáo hội luôn luôn là một bộ phận của
giai cấp bóc lột, luôn luôn tìm cách củng cố sự thống trị của giai cấp và của giới tu
sĩ là giải thích và bênh vực cho chế độ đó. Ngày nay, mặc dầu tương quan lực
lượng đã thay đổi, nhiều biến cố chính trị, kinh tế, xã hội nảy sinh, tòa thánh
Vatican vẫn luôn luôn tuyên bố, chế độ tư hữu là do ý Chúa, là phù hợp với tư
tưởng Thiên chúa giáo.
Về giới tu sĩ, K. Marx và F. Engels lên án cái đạo đức giả của các cha cố, sẵn
6 V. I. Lenin, Toàn tập, tập 5, NXB Tiến bộ, M. 1974, tr. 35.
7 V. I. Lenin, Toàn tập, tập 5, NXB Tiến bộ, M. 1974, tr. 89.
23
sàng phản bội lời thề, là biểu hiện của sự vô nguyên tắc và đạo đức giả, chính là
đặc trưng phong cách đạo đức của giới tu sĩ. Bằng những sự kiện lịch sử, Marx đã
đưa ra những dẫn chứng rõ ràng, không những về sự vô nguyên tắc và cái đạo đức
giả của giới tu sĩ, mà còn cả về sự dã man và khát máu đến mức không thể tin
được của họ trong thời Trung cổ. Marx chú ý nhiều tới các tài liệu nói về các cuộc
Thập tự chinh, những cuộc hành quân ăn cướp có qui mô to lớn được tiến hành
dưới ngọn cờ tôn giáo. K. Marx và F. Engels, cũng còn nói đến cả giới tu sĩ trong
thế kỷ XIX. Nhưng lối sống đạo đức của giới giáo sĩ sau này, về cơ bản vẫn không
thay đổi. Có chăng, chỉ là sự thay đổi chút ít trong hình thức thể hiện lối sống đó.
Giới tu sĩ vẫn tiến hành đấu tranh điên cuồng chống lại cách mạng. Các giáo phái
vẫn tiến hành chiến tranh duới các lý do tôn giáo để tranh giành quyền lợi vật
chất. Các cuộc phân tranh tôn giáo được dùng làm chiêu bài che đậy các quyền
lợi kinh tế, chính trị của các quốc gia. Trong mấy chục năm gần đây, có nét đặc
biệt là sự tham gia của giới giáo sĩ vào đời sống chính trị, với vai trò “những người
bảo vệ giai cấp công nhân”. Song, không phải vì thế mà bản chất của giáo hội,
với tính cách là lực lượng phản động, là tay sai của giai cấp bóc lột đã thay đổi.
Đặc điểm của bản chất ấy, mà K. Marx và F. Engels đã phân tích trước đây, về
nguyên tắc đến nay vẫn như cũ, mặc dầu trong thực tế có thể có những cá nhân
hoặc những nhóm giáo sĩ thật tâm muốn là những người bảo vệ quyền lợi của
quần chúng nhân dân lao động.
II. V. I. LENINE BÀN VỀ TÔN GIÁO
Trong khi đi sâu vào nghiên cứu chủ nghĩa duy vật lịch sử, Lenine đặc biệt
chú ý đến vấn đề tôn giáo và sự phát triển của tôn giáo trong đời sống đương đại.
Lenine đã phân tích, phát triển những nguyên lý khoa học của K. Marx và F.
Engels trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Học thuyết của Lenine về tôn giáo có tầm quan trọng to lớn, trước hết là
nguyên tắc tính đảng.
II. 1. Tôn giáo và tính đảng
Lenine thường nhấn mạnh đến tính đảng của triết học. Điều đó được thể hiện
rõ ràng trong tác phẩm: “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,
Lenine viết: “Triết học hiện đại cũng có tính đảng như hai ngàn năm về trước”8.
Lenine nhắc lại rằng, về triết học, K. Marx và F. Engels thuỷ chung bao giờ cũng
là người có tính đảng. Hai ông phê phán L. Feuerbach, đã không triệt để áp dụng
chủ nghĩa duy vật, đấu tranh với tôn giáo để tạo ra một thứ tôn giáo mới. Không
8 Sđd, tr. 45.
24
phải ngẫu nhiên mà Lenine đã phê phán thuyết tìm thần và thuyết tạo thần của
Lunasarski, Bazarov, Valentinov, những người theo chủ nghĩa Ma-khơ ở Nga.
Người cho rằng, những lý thuyết đó dưới những hình thức tinh vi, còn tai hại nguy
hiểm hơn là các quan niệm thô kệch, hình tượng hóa, giáo điều về thượng đế. Mặt
khác, Người cũng phản đối L. Tolstoi chống lại chính thống giáo bằng một thứ tôn
giáo mới và cho rằng, những mâu thuẫn trong các quan điểm của L. Tolstoi phản
ánh những mâu thuẫn trong đời sống của nước Nga cuối thế kỷ XIX. Đồng thời,
chúng cũng nói lên tư tưởng và tâm trạng của nông dân Nga thời kỳ tiền cách
mạng (1905). Lý thuyết của L. Tolstoi, theo Lenine, không những là tấm gương
phản ánh tinh thần cách mạng của người nông dân Nga, mà cũng còn nói lên mặt
yếu trong tinh thần cách mạng của họ là tính chất gia trưởng của nó.
Tính đảng của triết học có ý nghĩa chính trị trực tiếp. Tôn giáo, như Marx
nói, là “thuốc phiện của nhân dân”. Lenine coi công thức đó của Marx là “hòn đá
tảng” của thế giới quan Mác-xít trong vấn đề tôn giáo. Theo cách nói của Lenine,
tôn giáo là “một loại rượu mạnh tinh thần”. Trong bài “Sự phá sản của Quốc tế
II”, Lenine tán thành ý kiến của L. Feuerbach, coi sự an ủi của tôn giáo mang tính
chất phản động: “Không khuấy động người nô lệ nổi lên chống bọn chủ nô mà lại
đi an ủi họ, tức là giúp đỡ bọn chủ nô”9. Thái độ của Lenine đối với tôn giáo có
liên quan đến chân lý, vấn đề này đã được Lenine đã đề cập đến nhiều trong các
tác phẩm của người, đặc biệt trong tác phẩm: “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán”.
Chân lý, luôn thể hiện tính khách quan, chân lý là sự phản ánh thực tế khách
quan, được thực tế đó kiểm nghiệm và con người ta trong quá trình nhận thức thế
giới có thể đi từ chân lý tương đối đến chân lý tuyệt đối. Quan điểm về chân lý
đó, bác bỏ các quan điểm các nhà xã hội học tư sản và tôn giáo.
Thần học coi chân lý thuộc “Kinh nghiệm bên trong”, là kết quả của những
cảm giác, biểu tượng, khái niệm của chủ thể và hoàn toàn mang tính chất tương
đối. Con đường tất yếu của nó là thuyết “không thể biết”, phủ nhận khả năng
nhận thức của con người với những đại biểu từ Berkley, Ma-khơ, Avenarius, đến
Bogdanov, v.v... nó xóa mờ ranh giới giữa chân lý và sự giả dối, giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa khoa học và tôn giáo. Lenine phê phán thuyết
“không thể biết” là phi lý về mặt lý thuyết, phản động trên mặt tư tưởng và chính
trị. Đối với triết học duy tâm chủ quan, Lenine vạch ra rằng, trong lịch sử triết
học, các nhà duy tâm chủ quan không thừa nhận sự tồn tại khách quan của vật
chất, vì thế đã đi đến nhượng bộ thượng đế. Phủ nhận thế giới khách quan, đồng
9 Sđd, tr. 341.
25
thời bác bỏ sự tồn tại của thượng đế chỉ là một thủ đoạn mị dân.
Triết học duy tâm khách quan cũng như tôn giáo nói chung, đều thừa nhận sự
tồn tại của thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, chúng vẫn đối lập với triết học duy vật,
đặc biệt với triết học duy vật biện chứng. Theo triết học duy tâm khách quan,
ngoài con người và ý thức con người ra, còn có một loại ý thức không gắn bó với
con người, với thực tiễn dưới các dạng “linh hồn”, “ý niệm”, “lý trí thế giới”.
Những khái niệm đó bị tách hẳn ra khỏi cơ sở vật chất, không thể không dẫn đến
sự tồn tại của thần linh, thượng đế. Như vậy, triết học duy tâm khách quan cũng
như tôn giáo, cuối cùng là qui thế giới khách quan phụ thuộc vào ý thức của con
người được thần thánh hóa như nhận định của L. Feueurbach.
Xuất phát từ luận điểm coi tinh thần là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai,
triết học duy tâm trong nhiều thế kỷ, thường giải thích tôn giáo là cảm xúc bên
trong của con người, là “kinh nghiệm tôn giáo”, là tình cảm kho âng đòi hỏi ý nghĩa
khách quan. Thật ra, những cảm xúc tôn giáo “kinh nghiệm tôn giáo”, dù mạnh
mẽ đến mức độ như thế nào, cơ sở của chúng vẫn là những quan niệm sai lầm,
phản khoa học, không phù hợp với chân lý khách quan. Chân lý khách quan cũng
không phải là do “kinh nghiệm cá nhân”, “kinh nghiệm xã hội”, dẫn đến sự thừa
nhận một hiện tượng phổ biến. Như Lenine nói, tôn giáo cũng có nghĩa phổ biến
của nó và tuy nó còn được đông đảo mọi người thừa nhận, nhưng vẫn không phải
là chân lý. Chân lý không phải do con người tạo ra mà là kết quả việc phát hiện,
tìm tòi trong quá trình hoạt động thực tiễn nhờ có trí tuệ và khoa học. Chỉ có khoa
học mới thực sự đem đến chân lý, Lenine đã vạch ra thực chất và ý nghĩa của tư
tưởng thần linh, thượng đế, một trong những đặc điểm cơ bản nhất của tôn giáo.
II. 2. Bản chất, ý nghĩa của tư tưởng thần linh và thượng đế
Theo M. Gorki, thần linh, thượng đế là sự phức hợp các ý niệm được các bộ
lạc, dân tộc, con người tạo ra để thức tỉnh và tổ chức tình cảm nhằm gắn bó cá
nhân với xã hội, kìm hãm cá nhân động vật học. Lenine bác bỏ định nghĩa đó, cho
rằng căn nguyên của tôn giáo hoàn toàn không có tính chất dân tộc hay chủng tộc.
Theo Người, thần linh, thượng đế, trước hết là sự phức hợp các tư tưởng phát sinh
do con người bị sự áp bức của giới tự nhiên và sự áp bức giai cấp; những tư tưởng
đó củng cố sự chèn ép này, ru ngủ tinh thần đấu tranh giai cấp.
Căn nguyên của tôn giáo, trước hết phải nói đến căn nguyên xã hội và sau
đó là căn nguyên nhận thức. Những vấn đề này, được Lenine đề cập đến trong
các bài “Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo”, “Về thái độ của đảng công nhân đối với
tôn giáo” và đặc biệt trong “Bút ký triết học”.
26
Việc đi sâu tìm hiểu các căn nguyên của tôn giáo, theo quan điểm của
Lenine, có ý nghĩa lớn về nguyên lý và thực tiễn. Nó giúp cho việc hiểu biết tính
tôn giáo trong nhân dân, bao giờ cũng mang dấu ấn của lịch sử; do đó hiểu biết
nguyên nhân của các tàn dư tôn giáo trong xã hội và nhằm khắc phục chúng.
II. 3. Đảng vô sản đối với tôn giáo
Thái độ của đảng vô sản đối với tôn giáo, được Lenine đề cập vào thời kỳ
cách mạng 1905 và thời kỳ tiền khởi nghĩa tháng Mười năm 1917. Lập trường của
đảng vô sản đối với tôn giáo, là một trong những vấn đề có tính nguyên tắc.
Trong bài “Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo”, Lenine phê phán những quan điểm cơ
hội, thỏa hiệp thể hiện ở luận điểm của S. F. Shtamfler. Ông ta cho rằng, những
người dân không hề gắn bó với thế giới quan duy vật. Khẳng định thế giới quan
duy vật là thế giới quan của đảng vô sản, Lenine viết: “Chủ nghĩa Mác là chủ
nghĩa duy vật, cho nên nó có thái độ không khoan nhượng đối với tôn giáo giống
như chủ nghĩa duy vật của các nhà bách khoa từ điển thế kỷ XVIII, hay của L.
Feuerbach”10. Chủ nghĩa Marx, theo Lenine, cần phải “đấu tranh với tôn giáo”,
việc đấu tranh với tôn giáo là vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật và do đó của
chủ nghĩa Marx. Khuynh hướng chống tôn giáo của chủ nghĩa Marx, không phải
chỉ vì tính chất giả dối của thế giới quan tôn giáo, mà cũng còn vì lợi ích của quá
trình cách mạng. Lenine còn phê phán luận điểm của Ma-khơ cho rằng, triết học
của Ma-khơ ở bên ngoài các đảng cách mạng, đứng trên sự đối lập giữa chủ nghĩa
duy tâm và chủ nghĩa duy vật, giữa thái độ trung lập đối với tôn giáo. Lenine vạch
ra rằng, không thể có sự trung lập đó và chủ nghĩa Ma-khơ chỉ là một biến dạng
của chủ nghĩa duy tâm và do đó, của chủ nghĩa tín ngưỡng.
II. 4. Đấu tranh triệt để với tôn giáo là một nhiệm vụ của giai cấp vô sản
Chủ nghĩa xã hội giải quyết hạnh phúc hiện thực, giải phóng con người ra
khỏi hạnh phúc ảo tưởng. Nhưng phải chăng, cuộc đấu tranh chống tôn giáo, hoãn
lùi cho đến khi phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa thắng lợi? Trong bài: “Chủ
nghĩa xã hội và tôn giáo”, Lenine có nói đến việc thoát ly các thành kiến tôn giáo
trong công nhân đại công nghiệp, do những điều kiện sinh hoạt văn hóa của họ
trong xã hội tư bản. Những điều đó hoàn toàn không có nghĩa rằng, giai cấp vô
sản nói chung, trước hết là đội tiền phong của giai cấp đó, đã đoạn tuyệt được với
tôn giáo; và tôn giáo không còn là một hiện tượng xã hội thật sự. Thực tế giới
giáo sĩ đông đảo, với các hệ thống tổ chức của họ vẫn tiếp tục duy trì, củng cố ảnh
hưởng của tôn giáo trong quần chúng.
10 Sđd, tr. 390.
27
Vần đề đó giải quyết như thế nào? Một mặt, Lenine cho rằng, sự thống nhất
của quần chúng bị áp bức để tạo ra thiên đường hạ giới còn quan trọng hơn là sự
thống nhất ý kiến của những người vô sản về thiên đường trên trời. Mặt khác,
Lenine cũng nhắc rằng, đảng cần phải đấu tranh chống lại việc mê hoặc công
nhân bằng tôn giáo. Đồng thời, Lenine cũng giải thích ý kiến của K. Marx và F.
Engels trong khẩu hiệu “Tôn giáo là công việc riêng”: tôn giáo là công việc riêng
đối với chủ nghĩa Marx, đối với đảng công nhân. Sau khi phân tích những nguyên
nhân dẫn đến việc giải thích theo tinh thần cơ hội chủ nghĩa, khẩu hiệu “Tôn giáo
là công việc riêng”. Ở phương Tây, lúc đó Lenine cho rằng, giai cấp vô sản vì là
lãnh tụ tư tưởng của cuộc cách mạng dân chủ tư sản, nên đảng của giai cấp đó cần
phải đấu tranh với mọi biểu hiện của thời Trung cổ, trong đó có những hình thức
tôn giáo hoặc cũ hoặc mới. Điều đó cũng còn do vì giai cấp tư sản Nga và theo
Lenine, ngay cả phái dân chủ tiểu tư sản (dân tuý), tiến hành đấu tranh với tôn
giáo còn quá ít so với phương Tây. Nhiệm vụ đấu tranh chống tôn giáo do giai cấp
vô sản Nga gánh vác. Đấu tranh với tôn giáo là cần thiết, nhưng theo Lenine, là
phải biết đấu tranh với nó.
Trong đấu tranh với tôn giáo, Lenine phản đối việc tuyên chiến với tôn giáo
cũng giống như F. Engels đã phản đối cách chống tôn giáo của phái Bơ-lăng-ki,
Bit-mác, Đuy-rinh. Người cũng không tán thành việc cường điệu hóa ý nghĩa của
cuộc đấu tranh chống tôn giáo, đưa cuộc đấu tranh đó lên hàng đầu và coi nó có ý
nghĩa quyết định. Biện pháp duy nhất, thực tế để khắc phục tôn giáo là xóa bỏ
căn nguyên xã hội của nó. Đó là việc thủ tiêu chế độ bóc lột và xây dựng một xã
hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Nói một cách khác, cuộc đấu tranh về chính trị -
kinh tế thắng lợi, sẽ tạo những điều kiện cần thiết cho cuộc “cách mạng ý thức”
để đi đến hoàn toàn thủ tiêu tôn giáo. Đây cũng là điều phân biệt giữa chủ nghĩa
duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Đối với chủ nghĩa duy tâm, viêc cải tạo tư tưởng là
một quá trình diễn ra trong vòng khép kín của bản thân ý thức; nó coi việc cải tạo
ý thức tư tưởng là yếu tố quyết định cuộc cải tạo xã hội. Mặt khác, cũng cần phải
thấy mối quan hệ giữa căn nguyên xã hội và căn nguyên nhận thức của tôn giáo:
nếu căn nguyên xã hội bị xóa bỏ thì căn nguyên nhận thức cũng trở thành trừu
tượng, mất khả năng hiện thực. Khi con người thấy được hạnh phúc thật sự của
mình trên trái đất, thì sẽ không còn đất cho các ảo tưởng về cuộc sống hoang
đường mai sau, không cần tới sự giúp đỡ của bất cứ một lực lượng siêu tự nhiên
nào khác.
Tuy nhiên, cũng không phải vì thế mà không đấu tranh với tôn giáo. Trong
khi xác định việc đấu tranh với chủ nghĩa tư bản, chống lại chế độ chuyên chế
28
quan trọng hơn nhiều so với việc tuyên truyền, cổ động cho chủ nghĩa vô thần,
Lenine cũng nhắc rằng, việc xuất bản các sách báo khai sáng tôn giáo, không
phải là thừa và có hại. Nhưng việc xuất bản những sách báo phải phục tùng lợi ích
của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản, giúp cho cuộc đấu tranh đó thắng lợi.
Trong chủ nghĩa xã hội, tôn giáo một mặt đựơc chính ngay cuộc sống khắc
phục; mặt khác, cuộc đấu tranh tư tưởng chống tôn giáo cũng giúp cho việc xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Trong đấu tranh với tôn giáo, Lenine kêu gọi, cần phải làm cho quần chúng
hiểu biết những sự kiện của các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, bằng tài
liệu vô thần để thức tỉnh ra khỏi giấc mơ tôn giáo. Người nhắc lại ý kiến của F.
Engels, khuyên những người xã hội chủ nghĩa Nga đương thời, dịch và phổ biến
các sách báo vô thần khai sáng Pháp thể kỷ XVIII, chỉ ra rằng, các sách báo đó
tuy lạc hậu so với sự phát triển của khoa học và của cuộc sống, nhưng đó không
phải là nguyên nhân để không xuất bản những sách báo đó. Trong đấu tranh với
tôn giáo, Lenine cũng đặt vấn đề sử dụng các tài liệu có khuynh hướng vô thần
của các nhà vô thần phi Mác-xít. Việc sử dụng sách báo tư sản này, không loại trừ
mà còn trái lại, đặt ra việc phê phán khuynh hướng phản động của các tác giả gắn
bó với giai cấp tư sản thống trị trên các mặt chính trị, kinh tế và tư tưởng.
Những cơ sở lý luận của việc tuyên truyền chủ nghĩa vô thần, phải là nền
khoa học hiện đại, trên các bình diện tự nhiên, công nghệ và xã hội. Trong thời
đại của mình, Lenine đã khuyên Skvorcov Stepanov, viết những tập sách về lịch
sử tôn giáo, lịch sử chủ nghĩa vô thần và mối liên hệ của giáo hội với giai cấp tư
sản, nhưng Skvorcov Stepanov đã không kịp thực hiện lời khuyên đó. Ý nghĩa của
lời khuyên trên, là việc xóa bỏ vòng hào quang của tôn giáo. Công việc này
không phải chỉ là công việc của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu tôn giáo,
đó cũng là công việc của các nhà Mác-xít, hay những người gần với chủ nghĩa
Marx ở tất cả các nước.
II. 5. Tự do lương tâm và xã hội học tôn giáo
Xã hội học tôn giáo, không mâu thuẫn với vấn đề tự do lương tâm. Lương
tâm không thể có tự do trong xã hội cũ, vì áp bức lương tâm là sự bổ sung cho áp
bức kinh tế, chính trị. Cũng như Marx và Engels, Lenine trước và sau cách mạng
tháng Mười, đã đấu tranh không mệt mỏi cho vấn đề tự do lương tâm. Trong thư
“Gửi bần nông”, Lenine đã đưa ra yêu sách về tự do lương tâm với tính cách là
khẩu hiệu đấu tranh chính trị của Đảng Xã hội dân chủ. Những người xã hội dân
chủ, theo Lenine, cần phải đấu tranh cho quyền tự do tín ngưỡng của mọi người.
29
Lenine coi những đạo luật chống những người không theo Chính thống giáo là
“bất công nhất”, “ô nhục nhất”. Vấn đề tự do lương tâm, chỉ thực hiện đầy đủ
dưới xã hội dân chủ. Sắc lệnh “Về việc tách Giáo hội ra khỏi Nhà nước và trường
học ra khỏi Giáo hội”, được đích thân Lenine trực tiếp tham gia khởi thảo. Trong
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ), việc đấu tranh chống lại các tàn dư tôn giáo
được tiến hành trong những điều kiện của sắc lệnh nói trên, tôn giáo trở thành
công việc riêng của mỗi công dân. Vấn đề tự do lương tâm như Lenine nói, không
có nghĩa là một sự “ký kết hòa bình” với tôn giáo. Lenine nhiều lần chỉ thị cho
các cơ quan tuyên truyền, cổ động và báo chí của Đảng, phải tuyên truyền chủ
nghĩa Marx về tôn giáo, vì việc tuyên truyền đó là cuộc đấu tranh để phổ biến thế
giới quan của Đảng trong quần chúng. Trong chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản, tôn giáo một mặt được chính thực tế cuộc sống khắc phục, mặt khác, quá
trình tuyên truyền chủ nghĩa Marx thúc đẩy thêm sự tiêu vong của các tàn dư tôn
giáo, góp phần vào sự thành công của quá trình xây dựng xã hội mới.
II. 6. Về giáo hội và giới giáo sĩ
Tôn giáo, với tính cách là một hiện tượng xã hội không những chỉ là tổng thể
các biểu tượng, mà cũng còn có hệ thống các tổ chức và giới giáo sĩ của nó.
Khi phân tích vai trò của giáo hội, trước hết cần phải thấy bản chất phản
động của hệ tư tưởng được giáo hội tuyên truyền, phổ biến.
Trong lịch sử, mọi tôn giáo đều là phản động, nhưng không phải mọi giáo hội
đều có chung một vai trò chính trị trong một tình hình chính trị nào đó. Lenine cho
rằng, đối với các tổ chức tôn giáo và hoạt động của các tôn giáo đó cần phải có
cách nhìn biện chứng, cụ thể. Về giáo hội, trong bài “Từ đời sống kinh tế của
nước Nga” và thư “Gửi bần nông”, Lenine vạch ra rằng, giáo hội thống trị thuộc
vào giai cấp hữu sản với những đặc quyền, đặc lợi của nó.
Đối với giáo sĩ nói chung, Lenine khẳng định vai trò của họ bên cạnh đao
phủ trong việc phục vụ giai cấp bóc lột. Tuy nhiên, Lenine cũng nhấn mạnh đến
giới giáo sĩ sống ở nông thôn, cho rằng do địa vị kinh tế, chính trị của họ, họ vẫn
có thể đứng về phía nông dân đấu tranh chống lại địa chủ. Mặt khác, thực tế lịch
sử cũng chứng minh một số cá nhân giáo sĩ có địa vị trong giáo hội, cũng có thể
đứng về phía quần chúng. Lenine đã đánh giá cao vai trò của giáo sĩ T. Khvinskij
ở Đu-ma trong việc thông qua dự án về ruộng đất do “Nhóm lao động” đưa ra,
Người cũng chỉ ra rằng, giới giáo sĩ tự do cũng có thể ủng hộ yêu sách về tự do
lương tâm, với việc tách giáo hội ra khỏi nhà nước, tách trường học ra khỏi giáo
hội. Đối với những giáo sĩ nói trên, Lenine cho rằng, cần phải hợp tác với họ, giúp
30
cho họ củng cố lập trường tiến bộ và Người cũng không loại trừ khả năng việc họ
gia nhập Đảng Xã hội dân chủ, nếu họ thật tâm muốn đấu tranh cho lợi ích cách
mạng; còn nếu họ gia nhập Đảng chủ yếu để truyền bá các quan điểm tôn giáo,
thì phải loại họ ra khỏi hàng ngũ của mình. Hệ tư tưởng chiến lược và sách lược
chính trị gắn bó với nhau chặt chẽ, nhưng không thể vì thế mà đồng nhất chúng
với nhau. Sách lược mềm dẻo hợp tác với các tổ chức tôn giáo, với giới lãnh đạo
tiến bộ của các tổ chức đó trong những nhiệm vụ cụ thể là một sự liên minh hiện
thực. Nhưng như Lenine, không thể vì sự liên minh đó để đi đến chỗ “làm hỗn loạn
tổ chức, che giấu sự khác nhau về lợi ích”.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO
III. 1. Những vấn đề chung
Khác với lịch sử của nhiều quốc gia, trong lịch sử Việt Nam không có chiến
tranh giữa các tôn giáo, mà lại diễn ra quá trình "đồng nguyên", "đồng quy" của
các tôn giáo ngoại nhập trên cơ sở tín ngưỡng với tôn giáo bản địa. Ngay cả sự
đấu tranh về mặt giáo lý, cũng không có tính sâu sắc, mà chủ yếu là mối quan hệ
giữa tôn giáo và dân tộc, giữa các cộng đồng tôn giáo với toàn thể cộng đồng dân
tộc trước sự an nguy của Tổ quốc.
Khi Kitô giáo được truyền bá vào Việt Nam, cùng với quá trình xâm lược của
chủ nghĩa thực dân, thì mới bắt đầu phát sinh sự xung đột gay gắt giữa hai lối sống
tâm linh, văn hóa khác biệt nhau; và nhất là sự xung đột giữa một quốc gia dân
tộc đang có nguy cơ bị mất độc lập, với một giáo hội đang ra sức cấu kết với bọn
thực dân xâm lược để thôn tính nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tôn giáo từ rất sớm, có thể phân quan
điểm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo thành hai thời kỳ:
thời kỳ Việt Nam còn là một dân tộc mất nước và thời kỳ nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa ra đời. Cái chung giữa hai thời kỳ là mối quan hệ giữa tôn giáo và dân
tộc, cái riêng, cái khác biệt, là nhiệm vụ của cách mạng trong mỗi thời kỳ.
Vẫn một con người ấy, nhưng khi Nguyễn Ái Quốc viết về Chủ nghĩa giáo
hội (trong tác phẩm Bản án chế độ thức dân Pháp), là nhằm vạch trần sự cấu kết
tội lỗi giữa Giáo hội Kitô với bọn thực dân xâm lược để cướp nước ta, bóc lột
nhân dân ta, bất kể lương, giáo. Các đoàn truyền giáo là những kẻ nhân danh
Chúa để đồng lõa, tham gia một cách tích cực, thậm chí có khi còn hăng hái hơn,
vào việc thiết lập sự thống trị của chủ nghĩa thực dân, vơ vét cướp bóc tài sản,
nhất là ruộng đất làm giàu cho Giáo hội và cho một số cá nhân. "Các sứ giả" của
Chúa, đã không chùn tay trước bất cứ hành vi dã man nào. Nguyễn Ái Quốc đã
31
viết: "Đây là những hành động phúc âm mà các "cha nhà ta" nỗ lực làm hàng
ngày và bao giờ cũng nhân danh Chúa".
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngay trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề nghị Chính phủ tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết, coi
đó là một trong sáu nhiệm vụ của Nhà nước; tiếp đó, ngày 23-9-1945, đã công bố
Sắc lệnh về tự do tín ngưỡng.
Trong những lần gặp gỡ các đại biểu của các tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thường nói: dân tộc có được giải phóng thì tôn giáo mới được giải phóng. Nước
không độc lập, thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta phải làm cho nước
được độc lập đã.
Qua đó ta thấy trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vận mệnh, tiền đồ
của dân tộc và của tôn giáo gắn liền với nhau. Lương, giáo và những tín đồ thuộc
các tôn giáo khác nhau, đều là những người con của một dân tộc, đều có nghĩa vụ,
bổn phận như nhau với dân tộc. Để đoàn kết được với nhau trong cộng đồng dân
tộc, thì phải thực hiện đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng.
Là kiến trúc sư và là linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xây dựng sự thống nhất, đoàn kết vững chắc của dân tộc; bao gồm sự
đoàn kết của các giai cấp, tầng lớp xã hội, sự đoàn kết giữa dân tộc Kinh với các
dân tộc thiểu số, sự đoàn kết giữa những người theo đạo và những người không
theo đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh, thấm nhuần cơ sở phê phán tôn giáo của Marx:
"Con người tạo ra tôn giáo. Con người chính là thế giới của những con người, là
nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo".
Nhà nước mới ra đời và phát triển trong quá trình cách mạng, luôn tôn trọng
tự do tín ngưỡng, tức là tôn trọng nhân dân, tôn trọng nhu cầu tâm linh tôn giáo có
ở một bộ phận nhân dân, tôn trọng mọi yêu cầu về tự do dân chủ trong đời sống
tinh thần - văn hóa của xã hội (mà tín ngưỡng, tôn giáo là một bộ phận trong đó).
Điều đó hoàn toàn phù hợp với nhận xét của F. Engels về sai lầm cấp tiến cực
đoan của những người theo chủ nghĩa vô thần Bơ-lăng-ki: họ muốn xóa bỏ thượng
đế bằng sắc lệnh. Điều chắc chắn là bằng cách biến chủ nghĩa vô thần thành một
niềm tin bắt buộc, chính người ta đã phục vụ cho sự nghiệp của thượng đế.
Không chỉ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chủ
trương chăm lo chu đáo cả phần xác và phần hồn của các tín đồ tôn giáo theo
phương châm: Tốt đời, đẹp đạo, phần xác no ấm, phần hồn thong dong. Tạo cho
các tín đồ tôn giáo tìm thấy sự kết hợp hài hòa giữa bổn phận trước Chúa và nghĩa
32
vụ công dân với Tổ quốc, bằng phương châm: Sống phúc âm trong lòng dân tộc;
Thể hiện đạo pháp, hướng về dân tộc.
Điều cần lưu ý là một số thiếu sót, sai lầm trước đây trong chính sách tôn
giáo của chúng ta, ngoài nguyên nhân chưa thấu suốt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo, còn bắt nguồn từ quan điểm về một sự quá độ trực tiếp, nhanh
chóng lên một chủ nghĩa xã hội "thuần khiết", từ căn bệnh quan liêu của những
người lãnh đạo các cấp.
Tín ngưỡng, tôn giáo từ cách hiểu Mácxít, là sự phản ánh hư ảo của thế giới
hiện thực; vì vậy, sự giải quyết căn bản, tận gốc vấn đề tôn giáo, chính ở chỗ cải
tạo một cách căn bản xã hội, làm cho nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo không còn
nữa, không còn làm nảy sinh ở con người nhu cầu để phản ánh hư ảo; dĩ nhiên,
đây còn là cả một quá trình phát triển rất lâu dài của xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói một cách giản dị, về sự tương đồng trong mục
tiêu tối hậu của tôn giáo và cách mạng:
- Giải phóng nhân dân khỏi đói rét và khỏi dốt;
- Đem lại cho nhân dân tự do sống, tự do tín ngưỡng;
- Bảo vệ nền độc lập của tổ quốc.
Cũng theo chiều hướng tư tưởng đó, trong bài Mừng ngày Chúa giáng sinh
(1953), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Đồng bào ta, lương cũng như giáo, đoàn kết
kháng chiến, ủng hộ chính sách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, tức là
làm đúng lời dạy của Chúa Giê-su"
11
.
Lênin, đã từng phải giải đáp câu hỏi: Một linh mục có thể trở thành đảng
viên của Đảng Dân chủ xã hội Nga không?
Trong một lớp chỉnh huấn của các nhân sĩ và tri thức, có người hỏi: Một
người Công giáo có thể vào Đảng Lao động không? Hồ Chủ tịch nói: "Có, người
Công giáo nào cũng vào được, miễn là trung thành, hăng hái làm nhiệm vụ, giữ
đúng kỷ luật của Đảng. Nước ta kinh tế lạc hậu, kỹ thuật kém, tôn giáo là duy
tâm, cộng sản là duy vật, nhưng trong điều kiện hiện tại, người theo đạo vẫn vào
Đảng được"
12
.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ dành riêng mấy chữ Cần, Kiệm, Liêm,
Chính để nói tới đảng viên, cán bộ, viên chức, mà cả với những chức sắc của Giáo
hội Công giáo. Trong điện văn của Người gửi Linh mục Lê Văn Yên (Giáo phận
11 Hồ Chí Minh, Về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng..., sđd, tr. 60.
12 Hồ Chí Minh, Về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng..., sđd, tr. 162.
33
Bắc Ninh) có đoạn viết: "Ngài đã luôn luôn ra sức củng cố tinh thần đại đoàn kết
giữa đồng bào lương và giáo. Ngài luôn luôn quan tâm chăm sóc các anh em
thương binh. Ngài lại không nhận lương, phụ cấp. Như thế là Ngài đã nêu cao các
gương Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho mọi người"
13
Trong lời điếu cụ Phạm Bá Trực, Phó Trưởng Ban Thường trực Quốc hội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Trong mọi việc, Cụ đã kết hợp đạo đức bác ái theo
lời Chúa dạy, với tinh thần nồng nàn yêu nước của người đại biểu chân chính cho
nhân dân Việt Nam"
14
.
Ở đây, ta nhận thấy sự khoáng đạt của một tầm nhìn văn hóa hiểu thấu đáo
sự giao thoa giữa các giá trị đạo đức - văn hóa khác nhau.
Từ tầm nhìn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý uốn nắn các khuyết điểm
của cán bộ, trong Thư gửi các đồng chí ở Trung bộ, Người viết: "Tư tưởng hẹp hòi
thì hành động cũng hẹp hòi. Tư tưởng hẹp hòi thì nhiều thù ít bạn (như vấn đề tôn
giáo). Người mà hẹp hòi thì ít kẻ giúp. Đoàn thể hẹp hòi thì không phát triển"
15
.
Trong Báo cáo tại Hội nghị Trung ương lần thứ 3, khóa II, khi nói về sự hoài
nghi của một số giáo dân đối với chính sách của Đảng và Chính phủ, Người chỉ ra:
"Đó là địch dùng chính sách chia rẽ, song một phần cũng vì chúng ta chưa có
chính sách thích hợp để vận động đồng bào Công giáo. Đồng thời, vì cán bộ ta
kém, có nơi đã có hành động lố lăng, phạm đến tín ngưỡng và quyền lợi của đồng
bào tôn giáo".
Tại Hội nghị cán bộ Liên hiệp Phụ nữ toàn quốc, Hồ Chủ tịch nói: "Thường
cán bộ có thành kiến rằng, đồng bào Công giáo là lạc hậu, là khó vận động. Nói
vậy là sai". Rồi Người kể về tấm gương của đồng chí Lý An, giỏi làm công tác
vận động quần chúng trong một thôn Công giáo ở Thanh Hóa. Hôm lễ Giáng sinh,
đồng bào mời đồng chí lên ngồi ngang hàng với cha, họ nói: "Cha là cha tinh thần,
anh An là cha vật chất của chúng tôi". "Nói tóm lại, đồng bào thiểu số hay đa số,
lương hay giáo, cán bộ biết làm thì đều vận động được"
16
.
Sự đối xử bình đẳng, tôn trọng quyền làm chủ của đồng bào có đạo, còn thể
hiện ở chỗ, Hồ Chí Minh yêu cầu khuyến khích họ giúp đỡ cán bộ sửa chữa sai
lầm, khuyết điểm: "Hãy ra sức giúp đỡ cán bộ hăng hái thực hiện mọi công tác
của Chính phủ, chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng". "Tôi tỏ
lòng khen ngợi các giáo sĩ và đồng bào, đã thân ái giúp cán bộ sửa chữa sai lầm,
13 Hồ Chí Minh, Về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng..., sđd, tr. 169.
14 Hồ Chí Minh, Về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng..., sđd, tr. 237.
15 Hồ Chí Minh, Về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng..., sđd, tr. 147.
16 Hồ Chí Minh, Về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng..., sđd, tr. 45.
34
thực hiện đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của Chính phủ, như thế là đã
làm theo lời phán truyền của Chúa Kitô: "Hỡi anh em, khi có ai mắc sai lầm, anh
em hãy dịu dàng giúp anh em ấy sửa chữa".
"Sống phúc âm trong lòng dân tộc", "Thể hiện Đạo pháp, hướng về Dân tộc,
vì Đạo pháp, Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội", những tiếng nói đồng vọng đó từ phía
các tôn giáo, đã chứng minh rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo đã thực sự
khai hoa kết quả.
Trong dịp về nước dự Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV, Hòa thượng
Thích Thiện Châu, Tiến sĩ triết học, Tiến sĩ văn học và khoa học nhân văn, Trụ trì
Trúc Lâm Thiền viện ở Pari; khi trả lời phỏng vấn, đã nói đầy xúc động và tự
hào: "Tôi không lúc nào quên mình là người Việt Nam... Có thể nói, Việt Nam ta
có vua Bụt Trần Nhân Tông, thống nhất các hệ phái trong nước... Trong tôi, Bác
Hồ là Bồ tát, là vị La hán, bởi Người đã dành tất cả cho mọi người, không giữ gì
cho riêng mình cả. Cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ như đóa sen giữa rừng hoa
dân tộc Việt Nam, hội tụ đức tài của đất nước"
17
.
Trong dòng tín ngưỡng truyền thống của dân tộc, tôn thờ những người có
công với đất nước và nhân dân cho đến nay; ở nhiều địa phương, nhân dân đã xây
dựng trên 70 đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đền thờ này làm sâu đậm thêm
hình ảnh của Người trong đời sống tâm linh của người Việt Nam.
III. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghiên cứu tôn giáo
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, là một yêu cầu quan
trọng đối với tất cả chúng ta, để có thể tổng kết việc thực hiện Nghị quyết
24/NQTW của Bộ Chính trị ở quan điểm, tư tưởng, qua đó làm tốt công tác tôn
giáo trong tình hình mới.
Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp luận Mácxít, di sản tư tưởng của
Marx, Engels, Lenine về vấn đề tôn giáo để
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_xa_hoi_hoc_ton_giao_phan_1_092_2127907.pdf