Giáo trình Quản trị doanh nghiệp (Phần 2)

Tài liệu Giáo trình Quản trị doanh nghiệp (Phần 2): 104 CHƯƠNG 4 QUẢN TRỊ CHI PHÍ, KẾT QUẢ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH TRONG DOANH NGHIỆP I. QUẢN TRỊ CHI PHÍ, KẾT QUẢ 1.1 Các khái niệm cơ bản 1.1.1.Doanh thu và hoạt động doanh thu 1.1.1.1. Doanh thu a. Khái niệm doanh thu Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán phát sinh từ các hoạt động SXKD thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu (Chuẩn mực “ Doanh thu và Thu nhập” – Chuẩn mực kế toán Việt Nam). Doanh thu được phát sinh từ giao dịch, sự kiện được xác định bởi thoả thuận giữa doanh nghiệp và bên mua hoặc bên sử dụng tài sản. Nó được xác định bằng giá trị hợp lý của các khoản đã thu được hoặc sẽ thu được sau khi trừ đi (-) các khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán và giá trị hàng bán bị trả lại. b. Phân loại doanh thu Hoạt động của doanh nghiệp được chia thành hoạt động SXKD thông thường và hoạt động khác. Thuộc hoạt động SXKD thông thường bao gồm hoạt động sản xuất...

pdf80 trang | Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 5505 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo trình Quản trị doanh nghiệp (Phần 2), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
104 CHƯƠNG 4 QUẢN TRỊ CHI PHÍ, KẾT QUẢ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH TRONG DOANH NGHIỆP I. QUẢN TRỊ CHI PHÍ, KẾT QUẢ 1.1 Các khái niệm cơ bản 1.1.1.Doanh thu và hoạt động doanh thu 1.1.1.1. Doanh thu a. Khái niệm doanh thu Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán phát sinh từ các hoạt động SXKD thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu (Chuẩn mực “ Doanh thu và Thu nhập” – Chuẩn mực kế toán Việt Nam). Doanh thu được phát sinh từ giao dịch, sự kiện được xác định bởi thoả thuận giữa doanh nghiệp và bên mua hoặc bên sử dụng tài sản. Nó được xác định bằng giá trị hợp lý của các khoản đã thu được hoặc sẽ thu được sau khi trừ đi (-) các khoản chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán và giá trị hàng bán bị trả lại. b. Phân loại doanh thu Hoạt động của doanh nghiệp được chia thành hoạt động SXKD thông thường và hoạt động khác. Thuộc hoạt động SXKD thông thường bao gồm hoạt động sản xuất-tiêu thụ sản phẩm; mua-bán vật tư hàng hoá; thực hiện-cung cấp lao vu dịch vụ và hoạt động đầu tư tài chính. Còn hoạt động khác là những hoạt động thuộc các nghiệp vụ được quan niệm là phát sinh một cách không thường xuyên phổ biến của doanh nghiệp như thanh lý, nhượng bán TSCĐ, vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật, các khoản nợ khó đòi, ghi nhầm, bỏ sót, gian lận trốn lậu thuế... Tương ứng với các hoạt động nêu trên của doanh nghiệp là các loại doanh thu và thu nhập, bao gồm: 105 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ - Doanh thu tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi nhuận đựoc chia - Doanh thu kinh doanh bất động sản. - Thu nhập khác Căn cứ vào phương thức bán hàng, doanh thu còn được chia thành: - Doanh thu bán hàng thu tiền ngay. - Doanh thu bán hàng người mua chưa trả - Doanh thu bán hàng trả góp - Doanh thu bán hàng đại lý (ký gửi) - Doanh thu chưa thực hiện (nhận trước) Ngoài ra, căn cứ vào yêu cầu quản trị doanh nghiệp, doanh thu còn được chia thành: doanh thu bán hàng ra ngoài, doanh thu tiêu thụ nội bộ, doanh thu xuất khẩu và doanh thu nội địa. 1.1.1.2. Hoạt động doanh thu Hoạt động doanh thu là lĩnh vực hoạt động kinh doanh tạo ra doanh thu cho doanh nghiệp. - Hoạt động tạo ra doanh thu bao gồm : + Hoạt động sản xuất công nghiệp gồm hai nhiệm vụ cụ thể : • Sản xuất theo catalogue hàng ( tức là sản xuất sản phẩm theo mẫu có sẵn, không có người đặt hàng trước sau đó mới tìm người mua ). Sản xuất theo catalogue tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất sản phẩm với số lượng lớn, liên tục và ổn định. • Sản xuất theo các đơn đặt hàng trước. Doanh nghiệp sản xuất theo địa chỉ của khách hàng vì vậy doanh nghiệp không phải lo việc tiêu thụ sản phẩm: sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đó, thu tiền ngay. Tuy nhiên cách sản xuất này không ổn định, không liên tục được. Muốn sản xuất theo cách trên phải tuỳ thuộc vào năng lực của doanh nghiệp. 106 + Hoạt động thương mại: Đây là hoạt động mua, bán hàng hoá (không trải qua quá trình chế biến sản phẩm). Bộ phận này được hạch toán độc lập với hoạt động sản xuất công nghiệp + Hoạt động sửa chữa, bảo hành sản phẩm. Đây là hoạt động có thu, có chi, hạch toán độc lập. Cả ba hoạt động trên đều là hoạt động doanh thu vì đều đem lại doanh thu cho doanh nghiệp. Mỗi hoạt động đều có hoá đơn thu riêng và số thu được đưa vào quỹ chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần lưu ý: Hoạt động nào không đem lại doanh thu trực tiếp cho doanh nghiệp thì không thuộc về khái niệm hoạt động doanh thu ở đây. Doanh nghiệp cần xác định tỷ trọng và vị trí từng loại hoạt động. Phân tích xem khả năng hoạt động nào đem lại doanh thu lớn nhất, nhỏ nhất; hoạt động nào lãi, hoạt động nào lỗ. Thông thường hoạt động phải hạch toán riêng biệt, độc lập với nhau, tức là phải phân bổ chi phí, xác định doanh thu không trùng lặp. 1.1.2. Thương vụ Thương vụ là một lĩnh vực hoạt động có phát sinh chi phí trong quá trình tiến hành và mang lại doanh thu cho doanh nghiệp. Trong từng hoạt động có một hay nhiều thương vụ khác nhau Thương vụ được chia làm ba loại: - Thương vụ trong sổ (là thương vụ mới ký kết), đặc điểm của thương vụ này là chưa có thu nhập, cũng chưa phải phân bổ bất kỳ chi phí nào cho nó. Nếu xoá thương vụ này cũng không gây hậu quả xấu cho doanh nghiệp. - Thương vụ đang thực hiện: là thương vụ bắt đầu phải phân bổ chi phí cho nó. Ví dụ: sản phẩm đang trong quá trình sản xuất, công trình xây dựng cơ bản 107 đang tiến hàng thi công ...Nếu thương vụ này không hoàn thành sẽ gây hậu quả đáng kể cho doanh nghiệp. - Thương vụ đã hoàn thành (hoàn tất): là thương vụ không còn bất kỳ một thu nhập hay chi phí nào phân bổ cho nó nữa. Nếu lại phân bổ chi chí cho nó sẽ làm sai lệch kết quả hoạt động. 1.1.3. Chi phí sản xuất kinh doanh - Khái niệm: chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí vật chất và lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. (Hay nó chính là sự tiêu hao những giá trị cần thiết về vật phẩm và dịch vụ để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong một thời kỳ nhất định). - Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh: gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp + Chi phí sản xuất kinh doanh trực tiếp: là chi phí có liên quan mật thiết đến việc chế tạo từng loại sản phẩm, không liên quan đến loại sản phẩm khác, nó được tính thẳng vào giá thành sản phẩm từng loại, thuộc loại này gồm: • Chi phí nguyên vật liệu (nguyên vật liệu chính, nhiên liệu, vật liệu phụ, động lực ... công cụ dụng cụ...), các loại chi phí này được tính dựa vào giá mua cộng thêm chi phí vận chuyển, nhập kho. • Chi phí thuê ngoài chế biến • Chi phí nhân công trực tiếp (chi phí về tiền lương, tiền công sản xuất sản phẩm, BHXH, BHYT, KPCĐ). + Chi phí gián tiếp: ( Còn gọi là chí quản lý hoặc chi phí chung ) Là những chi phí không có liên quan trực tiếp đến việc sản xuất từng loại sản phẩm; mà có liên quan đến hoạt động chung của phân xưởng, của toàn doanh nghiệp. Nó được tính vào giá thành sản phẩm một cách gián tiếp, thông qua phương pháp phân bổ phù hợp nhất. Thuộc loại này bao gồm: chi phí sản xuất chung và chi phí quản lý doanh nghiệp cụ thể gồm: 108 • Tiền lương, BHXH... của cán bộ quản lý doanh nghiệp, quản lý phân xưởng. • Tiền thuê đất, thuê nhà • Điện nước, dịch vụ chung • Chi phí quảng cáo, bưu điện, thông tin, tiếp khách... • Chi phí thuê chuyên gia, cố vấn • Tiền đào tạo tay nghề cho người lao động... • Các chi phí quản lý khác • Tiền khấu hao TSCĐ: Khấu hao là số tiền phải trích hàng năm nhằm mục đích bù đắp nguyên giá TSCĐ. Mức khấu hao không liên quan trực tiếp đến sản xuất từng sản phẩm. Vì vậy, muốn tính chi phí khấu hao cho từng sản phẩm phải dùng phương pháp phân bổ thông qua các chìa khoá phân bổ khác nhau. 1.1.4. Lợi nhuận Lợi nhuận thực hiện trong năm của doanh nghiệp là tổng của lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và lợi nhuận hoạt động khác. Lợi nhuận hoạt động kinh doanh bao gồm: - Chênh lệch giữa doanh thu từ việc bán sản phẩm hàng hoá, cung cấp dịch vụ với tổng giá thành toàn bộ sản phẩm, hàng hoá tiêu thụ hoặc chi phí dịch vụ tiêu thụ trong kỳ. - Chênh lệch giữa doanh thu hoạt động tài chính với chi phí hoạt động tài chính phát sinh trong kỳ - Lợi nhuận hoạt động khác: là chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt động khác với chi phí từ hoạt động khác phát sinh trong kỳ. 1.2. Quản trị chi phí, kết quả theo phương thức sử dụng các chìa khoá phân bổ truyền thống 109 Chi phí trực tiếp được tính trực tiếp vào giá thành sản phẩm: chi phí NVL trực tiếp, chi phí tiền lương... còn chi phí gián tiếp thì được phân bổ vào giá thành thông qua các chìa khoá phân bổ: chi phí sản xuất chung, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí khấu hao TSCĐ... Các chìa khoá phân bổ thường dùng để phân bổ chi phí chung: - Phân bổ chi phí chung theo doanh thu - Phân bổ chi phí chung theo chi phí trực tiếp - Phân bổ chi phí chung theo giờ công sản xuất. 1.2.1. Phân bổ chi phí chung theo doanh thu (K1) - Ý nghĩa: phương pháp này cho thấy doanh thu một sản phẩm chịu bao nhiêu đồng chi phí chung - Công thức : CPC K1i = x Pi TR Trong đó : + K1i : Chi phí chung phân bổ cho 1 sản phẩm i theo doanh thu + CPC: Tổng chi phí chung phát sinh để sản xuất và tiêu thụ các loại sản phẩm cần phân bổ trong kỳ. + TR: Tổng doanh thu của các loại sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. + Pi: giá bán 1 sản phẩm i n Mà TR =  (Pi x Qi) i=1 + Qi: số lượng sản phẩm loại i sản xuất và tiêu thụ trong kỳ + i: loại sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ 110 1.2.2. Phân bổ chi phí chung theo chi phí trực tiếp (K2) - Ý nghĩa: phương pháp này cho thấy cứ một đồng chi phí trực tiếp chịu bao nhiêu đồng chi phí chung - Công thức : CPC K2i = x CPi CPTT Trong đó : + K2i : Chi phí chung phân bổ cho 1 sản phẩm i theo chi phí trực tiếp + CPTT : Tổng chi phí trực tiếp để sản xuất và tiêu thụ các loại sản phẩm trong kỳ. + CPi: Chi phí trực tiếp để sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm i Trong đó: CPTT =   n i 1 Qi: Số lượng sản phẩm loại i sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. 1.2.3. Phân bổ chi phí chung theo giờ công sản xuất (K3) - Ý nghĩa: phương pháp này cho thấy giờ công sản xuất một sản phẩm chịu bao nhiêu đồng chi phí chung. - Công thức : CPC K3i = x ti T Trong đó : + K3i : Chi phí chung phân bổ cho 1 sản phẩm i theo giờ công sản xuất [CPi x Qi] 111 + T :Tổng giờ công để sản xuất các loại sản phẩm trong kỳ ti: Giờ công để sản xuất 1 sản phẩm i trong kỳ. Trong đó: T=  n i 1 + Qi : Số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ loại i * Ví dụ tổng hợp : Có tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp “A” tháng 10 năm “ N “ như sau : STT Yếu tố chi phí Sản phẩm A Sản phẩm B Sản phẩm C 1 Chi phí vật chất trực tiếp (đ ) 7.500 14.000 25.000 2 Giờ công sản xuất 1 SP ( giờ ) 2,5 4 6 3 Giá trị 1 giờ công SX ( đ/giờ ) 13.000 13.000 13.000 4 Số lượng SPSX và tiêu thụ (cái) 5000 6000 3500 5 Giá bán 1 SP ( đ/cái ) 60.000 90.000 146.000 - Cho biết: chi phí chung để sản xuất và tiêu thụ các loại sản phẩm trong kỳ phải phân bổ là 240.000.000đ - Yêu cầu: Tính chi phí chung phân bổ cho một sản phẩm từng loại dựa trên 3 loại chìa khoá phân bổ đã học và tính giá thành, lợi nhuận của một sản phẩm từng loại, tính tổng lợi nhuận của các loại sản phẩm trong doanh nghiệp, sau đó lập bảng tính giá thành, lợi nhuận theo từng cách phân bổ chi phí chung Bài giải 1. Phân bổ chi phí chung theo doanh thu ( K1 ) của một sản phẩm từng loại: - Tổng doanh thu của các loại sản phẩm (Qi x ti ) 112 TR = ( 5000 x 60.000 ) + ( 6000 x 90.000 ) + ( 3500 x 146.000 ) = 1.351.000.000đ - Phân bổ chi phí chung theo doanh thu của 1 sản phẩm từng loại 240.000.000 K1 ( A ) = x 60.000 = 10.658,77đ 1.351.000.000 240.000.000 K1 ( B ) = x 90.000 = 15.988,16đ 1.351.000.000 240.000.000 K1 ( C ) = x 146.000 = 25.936,34đ 1.351.000.000 - Tính tổng chi phí trực tiếp cho một sản phẩm từng loại + 1 sản phẩm A = 7.500 + ( 2,5 x 13.000 ) = 40.000đ + 1 sản phẩm B = 14.000 + ( 4 x 13.000 ) = 66.000đ + 1 sản phẩm C = 25.000 + ( 6 x 13.000 ) = 103.000đ - Tổng chi phí trực tiếp để sản xuất các loại sản phẩm ( 40.000 x 5000 ) + ( 66.000 x 600 0) + ( 103.000 x 3500 ) = 956.500.000đ - Tính giá thành 1 sản phẩm từng loại + 1 sản phẩm A = 40.000 + 10.658,77 = 50.658,77đ + 1 sản phẩm B = 66.000 + 15.988,16 = 81.988,16đ + 1 sản phẩm C = 103.000 + 25.936,34 = 128.936,34đ - Tính lợi nhuận cho 1 sản phẩm từng loại + 1 sản phẩm A = 60.000 - 50.658,77 = 9.341,22đ + 1 sản phẩm B = 90.000 - 81.988,16 = 8.011,84đ 113 + 1 sản phẩm C = 146.000 - 128.936,34 = 17.063,66đ - Tính tổng lợi nhuận của các loại sản phẩm: ( 5000 x 9.341,22 ) + ( 6000 x 8.011,84 ) + ( 3500 x 17.063,66 ) = 154.499.950đ - Lập bảng giá thành - lợi nhuận 1 sản phẩm từng loại SP Chi phí trực tiếp 1 SP (đ) Chi phí chung phân bổ(đ)1SP  chi phí 1SP ( Z SP - đ ) Giá bán 1 SP ( đ ) Lợi nhuận 1 SP ( đ ) A 40.000 10.658,77 50.658,77 60.000 9.341,22 B 66.000 15.988,16 81.988,16 90.000 8.011,84 C 103.000 25.936,34 128.936,34 146.000 17.063,66 2. Phân bổ chi phí chung theo chi phí trực tiếp (K2) cho một sản phẩm từng loại: - Phân bổ chi phí chung : 240.000.000 + K2 (A) = x 40.000 = 10.036,59đ 956.500.000 240.000.000 + K2 (B) = x 66.000 = 16.560,38đ 956.500.000 240.000.000 + K2 (C) = x 103.000 = 25.844,22đ 956.500.000 - Tính giá thành một sản phẩm từng loại + 1 sản phẩm A = 40.000 + 10.036,59 = 50.036,59đ + 1 sản phẩm B = 66.000 + 16.560,38 = 82.560,38đ + 1 sản phẩm C = 103.000 + 25.844,22 = 128.844,22đ 114 - Tính lợi nhuận cho 1 sản phẩm từng loại + 1 sản phẩm A = 60.000 – 50.036,59 = 9.963,41đ + 1 sản phẩm B = 90.000 – 82.560,38 = 7.439,62đ + 1 sản phẩm C = 146.000 – 128.936,34 = 17.063,66đ - Tính tổng lợi nhuận của các loại sản phẩm ( 5000 x 9.963,41 ) + ( 6000x 7.439,62 ) + ( 3500x 17.063,66 ) = 154.177.580đ - Lập bảng giá thành, lợi nhuận cho 1 sản phẩm từng loại SP Chi phí trực tiếp 1 SP (đ) Chi phí chung phân bổ 1SP(đ) Tổng CF 1 SP ( đ ) Giá bán 1 SP ( đ ) Lợi nhuận 1 SP ( đ ) A 40.000 10.036,59 50.036,59 60.000 9.936,41 B 66.000 16.560,38 82.560,38 90.000 7.439,62 C 103.000 25.844,22 128.936,34 146.000 17.063,66 3. Phân bổ chi phí chung theo giờ công sản xuất (K3) của một sản phẩm từng loại: - Phân bổ chi phí chung : T = ( 5000 x 2,5 ) + ( 6000 x 4 ) + ( 3500 x 6 ) = 57.500 giờ 240.000.000 + K3 (A) = x 2,5 = 10.434,78đ 57.500 240.000.000 + K3 (B) = x 4 = 16.695,65đ 57.500 240.000.000 + K3 (C) = x 6 = 25.043,48đ 57.500 - Tính giá thành 1 sản phẩm từng loại + 1 sản phẩm A = 40.000 + 10.434,78 = 50.434,78đ 115 + 1 sản phẩm B = 66.000 + 16.695,65 = 82.695,65đ + 1 sản phẩm C = 103.000 + 25.043,48 = 128.043,48đ - Tính lợi nhuận 1 sản phẩm từng loại + 1 sản phẩm A = 60.000 – 50.434,78 = 9.565,22đ + 1 sản phẩm B = 90.000 – 82.695,65 = 7.304,35đ + 1 sản phẩm C = 146.000 – 128.043,48 = 17.956,52đ - Tính tổng lợi nhuận của các loại sản phẩm ( 5000 x 9.565,22 ) + ( 6000 x 7.034,35 ) + ( 3500 x 17.956,52 ) = 152.878.970đ - Lập bảng giá thành , lợi nhuận 1 sản phẩm từng loại SP Chi phí trực tiếp 1 SP (đ) Chi phí chung phân bổ1SP(đ) Tổng CF 1 SP ( đ ) Giá bán 1 SP ( đ ) Lợi nhuận 1 SP ( đ ) A 40.000 10.434,78 50.434,78 60.000 9.565,22 B 66.000 16.695,65 82.695,65 90.000 7.304,35 C 103.000 25.043,48 128,043,48 146.000 17.956,52 Nhận xét: Giá thành và lợi nhuận của một sản phẩm từng loại qua ba cách phân bổ chi phí chung như trên cho thấy kết quả rất khác nhau, do đó lãnh đạo khó biết được mức lãi đích thực, hơn nữa việc tính toán phức tạp, khối lượng tính toán lớn mà việc phân bổ chi phí chung là để xác định giá thành, trên cơ sở đó xác định giá bán cho sản phẩm. Song trong nhiều trường hợp giá bán không phụ thuộc vào giá thành sản phẩm mà phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Tức là người ta không cần biết giá thành mà vẫn xác định được giá bán. Xuất phát từ tình hình trên, ta thấy cần thiết phải dùng một phương pháp tính lợi nhuận mới phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay, để đảm bảo cho giám đốc nắm bắt chính xác lợi nhuận thực tế của doanh nghiệp là bao nhiêu. 116 Nguyên tắc của phương pháp này là gạt chi phí chung sang một bên. Như vậy, ba chìa khoá phân bổ trên (K1, K2, K3) sẽ không sử dụng nữa mà dùng một chìa khoá mở, đó là phương pháp tính mức lãi thô. 1.3. Quản trị chi phí kết quả theo phương thức mới (phương pháp tính mức lãi thô) 1.3.1. Khái niệm mức lãi thô Mức lãi thô là phần chênh lệch giữa giá bán sản phẩm và chi phí sản xuất trực tiếp của sản phẩm đó. 1.3.2. Các loại mức lãi thô: Mức lãi thô được chia thành 6 loại cơ bản sau : a. Mức lãi thô đơn vị: - Là phần chênh lệch giữa thu nhập đơn vị sản phẩm và chi phí trực tiếp đơn vị sản phẩm - Công thức tính: Mức lãi thô đơn vị = Thu nhập đơn vị - Chi phí trực tiếp đơn vị b. Mức lãi thô đơn hàng - Là phần chênh lệch giữa thu nhập đơn hàng và chi phí trực tiếp đơn đặt hàng - Công thức tính: Mức lãi thô đơn hàng = Thu nhập đơn hàng - Chi phí trực tiếp đơn đặt hàng c. Mức lãi thô thương vụ - Là phần chênh lệch giữa thu nhập thương vụ và chi phí trực tiếp thương vụ Mức lãi thô thương vụ = Thu nhập thương vụ - Chi phí trực tiếp thương vụ d. Mức lãi thô tổng quát 117 Mức lãi thô tổng quát = Tổng mức lãi thô của các hoạt động Hoặc Mức lãi thô tổng quát = Tổng mức lãi thô của các thương vụ. Hoặc Mức lãi thô tổng quát =  (Mức lãi thô đơn vị X số lượng sản phẩm từng loại). * Nhận xét: Qua ví dụ ở phần trên ta thấy ở cùng 1 sản phẩm thì lãi (lợi nhuận) có khác nhau (ví dụ: 1 sản phẩm A thì mức lãi ở 3 cách phân bổ đó là : 9.341,22đ; 9.963,41đ; 9.565,22đ. Nhưng nếu lãi thô ở 1 sản phẩm thì chỉ có 1 mức mà thôi. Ví dụ: Mức lãi thô : 1 sản phẩm A : 60.000 - 40.000 = 20.000đ. Như vậy: - Mức lãi thô đơn vị là cơ sở để tính mức lãi thô khác: mức lãi thô đơn hàng, mức lãi thô thương vụ và mức lãi thô tổng quát. - Mức lãi thô là chìa khoá mới để xác định lợi nhuận chính xác - Mỗi sản phẩm đều có mức lãi thô riêng của nó Vì vậy, chìa khoá mức lãi thô không bị ảnh hưởng của bất kỳ yếu tố ngoại lai nào, nên phản ánh chính xác kết quả hoạt động của doanh nghiệp, tính toán lại đơn giản. Đây là vấn đề quan trọng, rất cần thiết đối với người quản lý, người lãnh đạo doanh nghiệp. e. Mức lãi thô điểm hoà vốn - Khái niệm: mức lãi thô điểm hoà vốn là mức lãi thô mà tại đó mức lãi thô tổng quát bằng mức chi phí chung cuả doanh nghiệp - Chú ý : + Doanh nghiệp hoà vốn khi : mức lãi thô tổng quát = chi phí chung + Doanh nghiệp có lãi khi : mức lãi thô tổng quát > chi phí chung + Doanh nghiệp bị lỗ khi : mức lãi thô tổng quát < chi phí chung 118 - Mức lãi thực : Mức lãi thực (lợi nhuận) = Mức lãi thô tổng quát - Tổng chi phí chung Hoặc: Mức lãi thực = Tổng doanh thu - Tổng chi phí trực tiếp - Tổng chi phí chung - Nếu gọi MLT1 là mức lãi thô của hoạt động(1) - Nếu gọi MLT2 là mức lãi thô của hoạt động(2) - Nếu gọi MLT3 là mức lãi thô của hoạt động(3)... Ta có thể biểu diễn mức lãi thô ở điểm hoà vốn và mức lãi thực bằng sơ đồ sau: MLT5 MLT4 MLT3 MLT2 Chi phí SXC CPQLDN MLT1 Chi phí chung Mức lãi thô thể hiện bằng tiền, nó là giá trị kết quả đích thực đưa vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp. - Chú ý: Muốn xác định mức lãi thô tổng quát của doanh nghiệp, phải chuyển kết quả mức lãi thô ở từng thương vụ tổng hợp lại (Có thương vụ có lãi, có thể có thương vụ bị lỗ). Nếu doanh nghiệp có mức lãi thô tổng quát lớn hơn chi phí chung thì doanh nghiệp lãi và ngược lại. Còn chi phí chung cứ để trọn gói không cần phân bổ. Lãnh Mức lãi thô tổng quát Mức lãi thô hoà vốn Lợi nhuận 119 đạo không cần biết cách phân bổ mà chỉ cần biết giá trị trọn gói và từ đó tìm biện pháp quản lý và giảm từng yếu tố của nó. g. Mức lãi thô theo giờ công sản xuất - Để lãnh đạo có hiệu quả, người ta còn tính mức lãi thô theo giờ công sản xuất Mức lãi thô Mức lãi thô đơn vị sản phẩm theo = giờ công SX Giờ công để sản xuất 1 đơn vị sản phẩm * Ví dụ tổng hợp: tính mức lãi thô thương vụ, mức lãi thô 1 đơn vị, mức lãi thô 1 giờ của 1 thương vụ ở 1 doanh nghiệp có số lượng sản phẩm sản xuất là 20.000 sản phẩm, giá bán 110.000đ/1SP, chi phí NVL chính là: 45.000đ/1SP, VL phụ: 4000đ/1SP. Giờ công: 3 giờ/1 SP. Giá trị giờ công 14.000đ/1giờ. Bài giải - Mức lãi thô đơn vị sản phẩm = Giá bán - CP trực tiếp. Ta có: + Chi phí trực tiếp 1 SP = 45.000 + 4.000 + (3 x 14.000) = 91.000đ/1 SP + Mức lãi thô đơn vị sản phẩm = 110.000- 91.000 =19.000đ/1 SP - Mức lãi thô 1 giờ công sản xuất = 19.000 3 = 6.333,33đ/giờ - Mức lãi thô một thương vụ = 19.000 x 20.000 = 380.000.000đ Chú ý: Mức lãi thô có thể được doanh nghiệp đặt ra theo kế hoạch, từ đó tìm biện pháp để thực hiện. Mức lãi thô sau này khi đã bù đắp được chi phí chung thì phần còn lại là lợi nhuận. Khi có mức lãi thô kế hoạch của một đơn hàng, người ta có thể dựa vào đó để đàm phán giá bán cho sản phẩm. Khi doanh nghiệp đã dự kiến được mức lãi thô đơn hàng, dự kiến được chi phí chung thì việc đàm phán giá bán sản phẩm 120 sẽ thuận lợi vì nó đều liên quan đến lợi nhuận của sản phẩm. Doanh nghiệp có thể có sự con người giãn trong đàm phán giá cả sản phẩm với khách hàng. Từ mức lãi thô, doanh nghiệp có thể quyết định nên áp dụng giá bán ở mức nào là phù hợp, có lợi nhất. Ngược lại khách hàng có thể chấp nhận được giá mà doanh nghiệp nghiệp đàm phán hay không chứng tỏ rằng đơn hàng đó đã được thực hiện . II. QUẢN TRỊ CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Quản trị tài chính là một lĩnh vực có tính chất trọng yếu trong quản trị và điều hành kinh doanh trong các doanh nghiệp. Đặc biệt, quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế hiện vật - khép kín sang cơ chế tài chính - mở cửa thì sự giao thoa các hoạt động tài chính doanh nghiệp với nền tài chính quốc gia, quốc tế ngày càng trở nên phức tạp. Việc nghiên cứu quản trị tài chính đã trở thành một ngành học lớn cùng với sự phát triển hết sức nhanh chóng của nó. 2.1. Khái niệm, vai trò và nội dung của quản trị các chính sách tài chính doanh nghiệp 2.1.1. Khái niệm quản trị tài chính doanh nghiệp - Khái niệm tài chính doanh nghiệp: Trong các sách viết về quản trị tài chính, người ta đưa ra rất nhiều khái niệm khác nhau về tài chính doanh nghiệp. Các tác giả đã tìm kiếm khái niệm tài chính doanh nghiệp trên các vấn đề có tính nguyên lý khác nhau của họ, chủ yếu thường tập trung vào 5 vấn đề sau: + Cơ cấu nguồn vốn ( giữa vốn tự có và vốn vay) + Sự bảo đảm có tính hợp lý lợi ích cho những người bỏ vốn dưới các hình thức khác nhau. + Khía cạnh thời hạn của các loại vốn. + Sự diễn giải các khái niệm về vốn như là tổng giá trị của các loại tài sản dưới hai dạng: “vốn trừu tượng” và “vốn cụ thể” 121 + Chỉ ra các trường hợp thay đổi của vốn trong các trường hợp tăng, giảm và thay đổi cấu trúc của nó. Trên cơ sở nguyên lý các vấn đề nêu trên, có thể hiểu tài chính doanh nghiệp như sau; Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị phản ánh sự vận động và chuyển hoá các nguồn tài chính trong quá trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. - Khái niệm quản trị tài chính doanh nghiệp là việc nghiên cứu, phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, nhằm đưa ra các quyết định điều chỉnh các mối quan hệ tài chính nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất. ở đây, cần phân biệt hai khái niệm quản trị tài chính và quản trị đầu tư. Mặc dù tài chính và đầu tư đều nghiên cứu các quan hệ kinh tế liên quan đến vốn sản xuất, song vì tính chất, phạm vi và quá trình thực hiện chúng, người ta phân biệt: + Quản trị tài chính xem xét, quyết định quá trình tạo lập các nguồn vốn (bao gồm các tạo lập ban đầu và tạo lập trong suốt quá trình kinh doanh) và thực trạng tài chính tại các thời điểm nhất định để bảo đảm tốt khả năng thanh toán, hiệu suất vốn kinh doanh và sự ổn định của cơ cấu tài chính tổng thể. + Đầu tư là việc sử dụng nguồn vốn tạo lập được dưới khía cạnh hoạt động kinh tế - kỹ thuật cụ thể để đảm bảo sự hợp lý, tính kinh tế trong cơ cấu tổng thể của doanh nghiệp. Trong quản trị tài chính doanh nghiệp, người ta phân biệt sự tạo lập các nguồn vốn từ 2 nguồn: Tạo lập từ bên trong và tạo lập từ bên ngoài, phù hợp với thực trạng tài chính tại các thời điểm và hoàn cảnh nhất định của doanh nghiệp. 2.1.2. Vai trò - Một mặt, quản trị tài chính doanh nghiệp giữ vai trò quyết định trong việc sử dụng tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp, trên cơ sở phân tích, hoạch định và kiểm soát trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh. 122 - Mặt khác, quản trị tài chính doanh nghiệp là cơ sở cho việc phân phối và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong nền kinh tế, vì tài chính doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành tổng thể nền tài chính quốc gia. 2.1.3. Các nội dung chủ yếu của quản trị tài chính doanh nghiệp Xét một cách toàn diện, các nội dung chủ yếu có thể kể đến là; - Tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp - Hoạch định và kiểm soát tài chính doanh nghiệp - Quản trị các nguồn tài trợ - Chính sách phân phối - Quản trị hoạt động đầu tư Tuy nhiên, do sự phát triển mạnh mẽ của các lý thuyết đầu tư nên nó nhanh chóng trở thành một ngành nghiên cứu riêng, bởi vậy khi nghiên cứu quản trị tài chính doanh nghiệp, người ta tập trung vào các nội dung trên và đầu tư được coi như một nội dung song hành. Xuất phát từ mục tiêu và phạm vi nghiên cứu chương này đề cập đến một số chính sách sau : - Chính sách nguồn vốn - Chính sách mắc nợ của doanh nghiệp - Chính sách thay thế tín dụng - Chính sách khấu hao TSCĐ - Chính sách bán chịu - Chính sách quản trị dự trữ 2.2. Một số chính sách tài chính quan trọng của doanh nghiệp 2.2.1. Chính sách nguồn vốn a. Các loại nguồn tài chính của doanh nghiệp 123 Nền kinh tế thị trường phát triển song hành với một nền tài chính đa dạng, phức tạp. Quá trình tích tụ và tập trung tư bản là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự hội nhập của tư bản tài chính và tư bản công nghiệp càng làm cho bức tranh tổng thể tài chính phức tạp hơn. Một mặt tư bản tài chính tham gia vào lĩnh vực công nghiệp bằng việc góp vốn rồi dẫn đến tự kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác. Mặt khác, các tập đoàn công nghiệp lớn cũng tự mình tổ chức ra các công ty tài chính để nhằm ổn định nguồn tài chính cho mình và tiến đến kinh doanh trên cả lĩnh vực tài chính. Tuy nhiên, không vì thế mà không thể mô tả một cách mạch lạc các nguồn tài chính cho một doanh nghiệp. Nếu ở cơ chế kinh tế chỉ huy, nguồn tài chính được hình thành duy nhất từ quỹ tài chính tập trung là ngân sách, thì ở cơ chế thị trường nguồn này ngày càng mất dần ý nghĩa đối với các doanh nghiệp và chỉ đóng vai trò là “nguồn tài chính bao cấp”. Tổng hợp các nguồn tài chính được mô tả theo sơ đồ sau : Nguồn tài chính từ bên ngoài Nguồn tài chính từ bên trong Nguồn TC được tài trợ từ bên ngoài thông qua tham gia trên TT TC Nguồn TC được tài trợ từ ngân sách nhà nước Nguồn tài chính đi vay Nguồn TC có được từ doanh thu, từ giá trị khấu hao, từ lợi nhuận Nguồn TC từ các biện pháp quản trị tài chính khả thi Các loại nguồn tài chính của DN 124 Việc xem xét các nguồn tài chính cho phép thấy rõ hơn bức tranh tài chính tổng thể mà doanh nghiệp có thể nghiên cứu để huy động các nguồn cần thiết phù hợp cho quá trình kinh doanh. b. Sự tập hợp các loại nguồn tài chính trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp - Các nguồn tài chính doanh nghiệp huy động được phản ánh vào bên phải của bảng cân đối kế toán (nguồn vốn) và được tuân theo nguyên tắc sau: Tài sản Nguồn vốn - Việc quyết định huy động nguồn tài chính nào đó đều có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp và qua đó ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. + Huy động nguồn vốn chủ sở hữu: Tuy có ích lợi trong việc tự chủ về tài chính song các hình thức huy động lại có tác động rất khác nhau. Giả sử phát hành thêm cổ phần thì chi phí phát hành cao, có thể bị chia quyền kiểm soát, phần lợi nhuận tái tích luỹ bị giảm sút, hơn nữa có thể gây tâm lý thụ động. + Huy động nguồn vốn vay: Trước hết là ảnh hưởng đến quyền tự chủ về tài chính, sau nữa là gánh nặng vì phải trả lãi vay nhất là trong điều kiện kinh doanh khó khăn.Hơn nữa, cơ cấu trong bản thân vốn vay (vay dài hạn và ngắn hạn) sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thì dễ có nguy cơ phá sản. Vay ngắn hạn Tài sản ngắn hạn Tài sản dài hạn Vay ngắn hạn Vay dài hạn Nguồn vốn chủ sở hữu Vốn thường xuyên dài hạn 125 Tóm lại, huy động các nguồn tài chính cho doanh nghiệp luôn là một trong những quyết định căn bản của quản trị tài chính doanh nghiệp nói chung. Nó phảI xuất phát từ những phân tích, tính toán xác đáng. c. Chính sách huy động các nguồn tài chính cho doanh nghiệp - Phân tích các nguồn vốn: + Trước hết xem xét lại tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm cần huy động bằng việc tính toán lại các chỉ tiêu tài chính cơ bản. Đồng thời xác định lại các chỉ tiêu theo các phương án huy động khác nhau. Trên cơ sở đó khẳng định mục tiêu, phương án huy động cụ thể. + Phân tích, nghiên cứu các luận chứng kinh tế kỹ thuật với các khoản tài chính cần huy động, tính toán đến các rủi ro có thể xảy ra: rủi ro về mệnh giá, tỷ suất, tỷ giá... + Nghiên cứu tỷ mỷ các chủ nợ. Nếu đó là các ngân hàng, các tổ chức tài chính thì tiềm lực, sức mạnh kinh doanh của họ là một đảm bảo cần thiết trong trường hợp doanh nghiệp cần kéo dài các khoản nợ vì một lý do nào đó. Hơn nữa cũng cần xem xét động cơ tham gia vào nguồn tài chính doanh nghiệp của họ. Đối với các trái chủ và cổ chủ thì việc xem xét động cơ, tính trung thành, các động thái, trình độ nhận thức của họ cũng rất có ý nghĩa trong việc làm ổn định và lành mạnh các nguồn tài chính huy động. + Một quyết định huy động các nguồn tài chính luôn là vấn đề với doanh nghiệp, do vậy trước hết cần tập trung nghiên cứu và khai thác triệt để các biện pháp quản trị khả thi, để có thể hoặc coi đó như một “dự trữ an toàn”, hoặc đó chính là phần nguồn vốn được tính toán khấu trừ trong tổng lượng tài chính cần phải huy động từ các nguồn khác. Điều này càng có ý nghĩa to lớn trong các hoàn cảnh hiểm nghèo về tài chính của doanh nghiệp. - Lựa chọn các nguồn huy động vốn. Việc lựa chọn các nguồn vốn có thể dựa vào các chính sách sau: 126 + Dùng chính sách huy động tập trung nguồn: Tức là doanh nghiệp chỉ tập trung huy động vào một hay một số ít nguồn. Trong trường hợp đó, chi phí huy động có thể giảm, song có thể xảy ra các rủi ro sau: • Phá vỡ cơ cấu tài sản nợ (tài sản) dẫn đến làm thay đổi đột ngột các chỉ số tài chính . • ảnh hưởng đến lợi tức cổ phần( nếu huy động bằng cổ phiếu) hoặc sẽ làm cho doanh nghiệp lệ thuộc hơn vào chủ nợ (nếu là vốn vay). + Chính sách huy động phân tán: Tức là việc doanh nghiệp đồng thời huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Trong trường hợp này, chi phí huy động có thể rất lớn song lại tránh được các rủi ro như trên, làm giảm nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. d. Chính sách tài trợ Việc thực hiện chính sách huy động phải dựa trên sự lựa chọn chính sách tài trợ. Có 3 chính sách tài trợ cơ bản sau: - Chính sách tài trợ cân bằng: Tức là tài sản cố định và tài sản lưu động thường xuyên được tài trợ từ các nguồn vốn dài hạn. Chính sách này cho phép doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên và thanh toán nhanh một cách an toàn, bởi vì các tài sản lưu động biến đổi thường xuyên gắn liền với chu kỳ kinh doanh và gắn liền với các khoản phải thu của doanh nghiệp. - Chính sách tài trợ vững chắc: Tức là không những cả tài sản cố định và tài sản lưu động thường xuyên mà ngay cả một phần của tài sản lưu động biến đổi cũng được tài trợ bằng nguồn vốn dài hạn. Chính sách này không những đảm bảo một khả năng thanh toán nhanh vững chắc, mà còn cho phép doanh nghiệp kinh doanh trên phần vốn tạm thời nhàn rỗi bằng việc tham gia vào các hoạt động thương mại, đầu tư chứng khoán có lãi cao. Tuy nhiên, cách tài trợ này thường ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh chung vì thông thường chi phí cho việc tài trợ bằng vốn dài hạn cao hơn chi phí cho tài trợ bằng vốn ngắn hạn. 127 - Chính sách tài trợ mạo hiểm: Tức là dùng nguồn vốn vay ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động thường xuyên, thậm chí cho cả tài sản cố định. Chính sách này rất dễ đẩy doanh nghiệp vào tình trạng mất khả năng thanh toán, màtrước hết là khả năng thanh toán nhanh. Nó có thể được áp dụng đối với doanh nghiệp được nhà cung cấp cho chịu với kỳ hạn dài và số lượng lớn. Tuy nhiên cũng vì thế mà doanh nghiệp khó có thể áp dụng chính sách bán chịu, làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nói chung. 2.2.2. Chính sách mắc nợ của doanh nghiệp Việc huy động các nguồn vốn dẫn đến thay đổi cơ cấu nguồn vốn và do đó làm thay đổi hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy, chính sách mắc nợ được coi như chìa khoá đảm bảo cho doanh nghiệp tránh rủi ro phá sản, đồng thời đạt được hiệu quả kinh doanh thoả đáng. a.Hệ số mắc nợ và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp - Công thức xác định hệ số mắc nợ của doanh nghiệp: Hệ số mắc nợ (Hệ số huy động vốn của DN ) = Vốn vay Vốn chủ sở hữu Hệ số mắc nợ có liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cụ thể là hiệu quả vốn chủ sở hữu. Để biểu diễn mối quan hệ này ta cần đi xác định một số chỉ tiêu sau: + Chỉ số doanh lợi vốn: Lợi nhuận vốn kinh doanh ( chỉ số doanh lợi vốn) = Lợi nhuận ròng + lãi vay Tổng vốn kinh doanh Trong đó: Vốn kinh doanh = Vốn chủ sở hữu + Vốn vay + Chỉ số doanh lợi vốn chủ sở hữu: 128 Chỉ số doanh lợi vốn chủ sở hữu = Chỉ số doanh lợi vốn + Hệ số huy động vốn x Chỉ số doanh lợi vốn - Lãi suất vay vốn bình quân Như vậy, chỉ số doanh lợi vốn chủ sở hữu phụ thuộc vào ba tham số, trong đó: • Chỉ số doanh lợi vốn là kết quả nỗ lực kinh doanh của toàn doanh nghiệp. • Hệ số huy động vốn là nhân tố nhạy cảm nhất phụ thuộc vào chính sách huy động vốn của doanh nghiệp. • Lãi suất vay vốn bình quân được quyết định bởi rất nhiều yếu tố của nền kinh tế quốc dân, nói cách khác đây là yếu tố khách quan nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp. Thông thường lãi suất vay vốn do ngân hàng trung ương quyết định. b. Chính sách mắc nợ Chính sách mắc nợ của doanh nghiệp thực chất là việc điều chỉnh hệ số mắc nợ nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất cho vốn đầu tư của chủ sở hữu. - Có hai chính sách mắc nợ cần được áp dụng: + Chính sách mắc nợ linh hoạt: Là việc điều chỉnh linh hoạt hệ số nợ trong từng thời kỳ. Cụ thể nếu doanh lợi vốn đạt cao có thể tăng vốn vay để tăng lợi nhuận. Ngược lại, nếu doanh lợi vốn đạt thấp thì giảm vốn vay, tăng vốn chủ sở hữu (phát hành thêm cổ phiếu) sẽ là một sự điều chỉnh đem lại lợi ích hơn cho doanh nghiệp. Điều kiện thực hiện. • Doanh nghiệp phải hường xuyên theo dõi và phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh • Thị trường vốn, thị trường tài chính đã phát triển • Doanh nghiệp có thể chủ động trong việc huy động hoặc dãn nợ khi cần thiết 129 + Chính sách mắc nợ ổn định: Là việc doanh nghiệp chủ trương duy trì một hệ số mắc nợ tương đối ổn định phù hợp với hoạt động kinh doanh, văn hoá kinh doanh cũng như các chủ trương dài hạn của doanh nghiệp. Chính sách này có ưu điểm là tránh được rủi ro mất khả năng thanh toán, vì hệ số mắc nợ được đặt trong “một khung an toàn nhất định”. Song áp dụng chính sách này doanh nghiệp có thể vô tình bỏ lỡ các cơ hội trong kinh doanh trong những thời kỳ nhất định. 2.2.3. Chính sách thay thế tín dụng Trong hoạt động kinh doanh, để tránh các rủi ro tín dụng do việc huy động vốn vay đem lại. Doanh nghiệp có thể sử dụng đến các chính sách tài chính thay thế tín dụng. Hiện nay, các doanh nghiệp thường áp dụng hai chính sách thay thế tín dụng chủ yếu sau: a. Chính sách thay thế tín dụng bằng thuê mua - Khái niệm: Tín dụng thuê mua là việc doanh nghiệp tạo vốn bằng cách thuê các trang thiết bị và tài sản cố định để sử dụng trong kinh doanh. Đây là hình thức tạo vốn khá phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Với hình thức này, doanh nghiệp được sử dụng vốn như chính mình là người sở hữu với giá thuê định trước trong hợp đồng. Sau thời hạn hợp đồng thuê mua, doanh nghiệp có thể mua với giá còn lại , trả lại tài sản đã thuê hoặc tiếp tục thuê tài sản với giá thoả thuận mới. - Các hình thức thuê mua chủ yếu + Tín dụng thuê mua truyền thống: Như trình bày ở trên. + Chuyển nhượng cho thuê: Đây là hình thức mà công ty tài chính thuê mua cho doanh nghiệp trang thiết bị và tài sản cố định căn cứ vào hợp đồng thuê mua. Với hình thức này doanh nghiệp là người thứ ba nhưng vẫn có quyền sử dụng, giữ gìn tài sản và có khả năng thanh toán. 130 Thực chất của tín dụng thuê mua (hay còn gọi là thuê mua tại chỗ) là doanh nghiệp bán tài sản của mình cho công ty thuê mua, sau đó lại thuê lại tài sản đó của công ty thuê mua để sử dụng. Hình thức thuê mua này mặc dù tạo điều kiện cho doanh nghiệp giải quyết tốt khó khăn về vốn song doanh nghiệp thường xuyên phải chịu giá thuê cao, gây khó khăn trong việc cạnh tranh về giá, mặt khác tổ chức hình thức này rất phức tạp và khi có sự cố vi phạm hợp đồng doanh nghiệp có thể phá sản rất nhanh do bên cho thuê đòi lại tài sản. Các công ty cho thuê tài chính thường có lợi vì lãi suất cho thuê cao. Vì vậy, doanh nghiệp cần lưu ý một số vấn đề sau trong hợp đồng thuê mua: + Giá thuê mua: Để có căn cứ xây dựng giá thuê mua, doanh nghiệp phải xác định được giá trị của tài sản thuê mua, doanh thu dự kiến, chi phí trên một đơn vị sản phẩm có sự tham gia của tài sản thuê mua. + Thời hạn thuê mua: Thời hạn thuê mua là nhân tố tác động trực tiếp tới giá cả thuê mua. Thông thường nếu thời hạn thuê mua ngắn thì giá thuê mua cao và ngược lại. + Thời điểm tính giá thuê mua: Thời điểm tính giá thuê mua được xác định căn cứ vào hai thời điểm là thời điểm ký kết hợp đồng hoặc thời điểm lắp đặt xong thiết bị. + Phương thức thanh toán giá thuê mua: Đối với phương thức thanh toán giá thuê mua, doanh nghiệp cần lưu ý một số nội dung sau: • Thời điểm thanh toán • Phương tiện thanh toán • Đồng tiền sử dụng • Chính sách khấu hao hiện tại của doanh nghiệp: Thông thường nếu doanh nghiệp dùng chính sách khấu hao nhanh thì việc vay mua sẽ có hiệu quả hơn thuê mua. 131 + Giá trị còn lại của thiết bị thuê mua: doanh nghiệp cần thẩm định giá trị còn lại của thiết bị thuê mua (là giá trị còn lại của thiết bị thuê mua khi hết hợp đồng thuê mua). Trong những trường hợp nhất định, thông thường giá trị còn lại càng nhỏ thì tín dụng thuê mua càng có lợi. - Cách tính giá thuê mua hàng năm của tài sản thuê mua.(GTM) GTM = GT   n i 1 1/(1+r)i + CSC - GC n Trong đó: GT   n i 1 1/(1+r)i GTM: Giá thuê mua tài sản hàng năm GT : Giá tị tài sản thuê CSC: Chi phí sửa chữa tài sản hàng năm GC: Giá trị còn lại của tài sản sau thời gian thuê r: Lãi suất thuê tài sản n: Số năm thuê tài sản i: Thứ tự lần chi trả + Ví dụ: DN cần thuê TSCĐ trị giá 1 tỷ đồng, dự kiến thuê trong 10 năm, lãi suất thuê là 10% /năm, chi phí sửa chữa hàng năm là 20.000.000 đ. Giá trị còn lại sau 10 năm thuê là 100.000.000đ. Như vậy, giá thuê mua hàng năm của TSCĐ sẽ là 1.000.000.000 + 20.000.000 - 100.000.000 6,14 10 162.866.449,5 + 20.000.000 - 10.000.000 = 172.866.449,5 (đ) L giá trị hiện tại khoản chi hng năm của doanh nghiệp do trả lãi vay cho ti sản thuê 132 b. Chính sách thay thế tín dụng bằng đáo nợ - Thực chất của chính sách này là việc doanh nghiệp giảm thiểu các khoản phải thu, phải trả trong bảng cân đối tài chính, nhằm tạo ra một hoàn cảnh tài chính thuận lợi hơn cho sản xuất kinh doanh thông qua một loại công ty tài chính trung gian. - Các khoản phải thu, phải trả phát sinh khi doanh nghiệp mua chịu vật tư, hàng hoá, tài sản và bán chịu sản phẩm, hàng hoá, tài sản...Khi đó công ty tài chính trung gian sẽ làm trung gian thanh toán tức thời các khoản phải thu, phải trả và với một tỷ lệ chiết khấu thoả thuận (thông thường cao hơn lãi suất vay tín dụng ngắn hạn) + Chính sách này có ưu điểm: • Doanh nghiệp có ngay các tài sản thanh toán phục vụ cho sản xuất kinh doanh, nhất là với các khoản nợ đến hạn thanh toán. • Do làm giảm các khoản phải thu, phải trả nên giá trị bảng cân đối tài chính giảm xuống, có thể chỉ số doanh lợi vốn thay đổi theo chiều hướng có lợi. • Doanh nghiệp có thể giảm được rủi ro khi khách hàng mất khả năng thanh toán vì các khoản phải thu, phải trả đã giảm. • Giảm chi phí phát sinh khi đòi nợ. + Nhược điểm: • Tỷ lệ chiết khấu cao nên giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. • Doanh nghiệp lại phụ thuộc vào 1 đối tác tài chính mới. • Có thể sẽ làm phức tạp thêm tình hình tài chính - Nội dung của chính sách đáo nợ. + Doanh nghiệp cần lựa chọn các công ty thay thế tín dụng bằng đáo nợ, trên cơ sở nắm được tiềm lực tài chính, uy tín và phương thức hoạt động của công ty này. + So sánh hiệu quả đồng thời giữa việc thực hiện hợp đồng với công ty và các chi phí phát sinh khi thực hiện các khoản phải thu. 2.2.4. Chính sách khấu hao 133 Trong quá trình sử dụng tài sản cố định chịu cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Để thu hồi giá trị đã hao mòn cho mục đích tái đầu tư, doanh nghiệp phải thực hiện việc xác định giá trị khấu hao phù hợp. Kinh doanh trong cơ chế thị trường nẩy sinh yêu cầu doanh nghiệp phải có chính sách khấu hao thoả mãn hai mục đích sau: + Giá trị khấu hao đảm bảo tái đầu tư tài sản cố định + Giá trị khấu hao không làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các phương pháp khấu hao + Khấu hao theo thời gian sử dụng (khấu hao bình quân) + Khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh. + Khấu hao theo tổng số + Khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm a. Phương pháp khấu hao theo thời gian sử dụng Phương pháp này hay còn gọi là phương pháp khấu hao tuyến tính cố định, phương pháp khấu hao đường thẳng, phương pháp khấu hao bình quân Đây là phương pháp khấu hao giản đơn nhất được sử dụng khá phổ biến để tính khấu hao các loại tài sản cố định có hình thái vật chất và tài sản cố định không có hình thái vật chất. Theo phương pháp này mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao không đổi trong các năm - Công thức : NG MK (năm) = Nsd Nếu khấu hao TSCĐ theo tháng thì công thức tính như sau: 134 MK (năm) MK (tháng) = 12 tháng Trong đó: MK(năm) : Là mức trích khấu hao bình quân hàng năm của TSCĐ NG : Nguyên giá tài sản cố định Nsd : Thời gian sử dụng của TSCĐ ( năm ) Ví dụ: Một TSCĐ có nguyên giá là 30.000.000 đồng, dự kiến sử dụng trong 5 năm. Vậy mức khấu hao hàng năm của TSCĐ này là: 30.000.000 MK(năm) = = 6.000.000 đồng 5 6.000.000 MK(tháng) = = 500.000 đồng 12 Phương pháp này có ưu điểm là dễ tính toán song nó làm cho giá trị tài sản cố định được thu hồi không tạo điều kiện để tái đầu tư ngay cho những tài sản cố định khác hiện đại hơn và do đó làm giảm quá trình tái đầu tư. b. Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh Phương pháp này dựa vào giá trị còn lại của tài sản cố định sau mỗi năm khấu hao và tính theo tỷ lệ khấu hao cố định qua các năm. Công thức: Mức khấu hao từng năm của TSCĐ = Giá trị còn lại của TSCĐ ở đầu năm cần tính khấu hao x Tỷ lệ khấu hao cố định của TSCĐ Chú ý:Tỷ lệ khấu hao được tính theo hệ số: 135 Ví dụ: Một tài sản cố có nguyên giá 30.000.000đ , thời gian sử dụng là 4 năm. Tỷ lệ khấu hao cố định là 37,5%. Hãy tính mức khấu hao từng năm cho tài sản cố định. Bài giải ST T GIÁ TRỊ CÒN LẠI CỦA TSCĐ CẦN KHẤU HAO(Đ) MỨC KHẤU HAO TSCĐ(Đ) GIÁ TRỊ CÒN LẠI SAU MỖI NĂM KHẤU HAO(Đ) 1 30.000.000 11.250.000 18.750.000 2 18.750.000 7.031.250 11.718.750 3 11.718.750 4.394.531,25 7.324.218,75 4 7.324.218,75 2.746.582,25 4.577.636,72 Phương pháp này thường được sử dụng đối với tài sản cố định có thời hạn sử dài nhưng vẫn đảm bảo khấu hao nhanh trong thời kỳ đầu để bù đắp các loại hao mòn dự kiến. Còn với tài sản cố định có thời gian sử dụng không dài sẽ dẫn đến phải tăng tỷ lệ khấu hao cao lên và như vậy năm đầu tiên về chi phí khấu hao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các chỉ số tài chính của doanh nghiệp. c- Phương pháp khấu hao theo tổng số: Phương pháp này cũng căn cứ vào nguyên giá và số năm sử dụng của tài sản cố định, nhưng có tác dụng tăng thu khấu hao ở những năm đầu để tái đầu tư, mặt khác có thể khấu hao hết giá trị tài sản cố định mà không bị dư đọng như ở phương pháp tính khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh. - Công thức : MKt = TKt x NG Trong đó : MKt : Mức khấu hao TSCĐ ở năm thứ t TKt : Tỷ lệ khấu hao TSCĐ ở năm thứ t 136 NG : Nguyên giá của TSCĐ khi bắt đầu đưa vào sử dụng Tkt : Tỷ lệ khấu hao TSCĐ ở mỗi năm là tỷ lệ giảm dần được xác định như sau : 2( T - t + 1 ) TKt = T ( T + 1 ) Trong đó: T : Thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ t : Thời điểm ( năm ) cần tính khấu hao Ví dụ: Một TSCĐ có nguyên giá là 20.000.000, dự kiến sử dụng trong 5 năm. Yêu cầu: Tính mức trích khấu hao của TSCĐ ở năm thứ nhất và năm thứ hai : 2 ( 5- 1+ 1 ) 10 TK1 = = = 0,333 5(5 + 1) 30 MK1= 0,333 x 20.000.000 = 6.666.666,67 (đ) TK2 = 2(5-2+1) 5(5+1) = 8 30 = 0,267 MK2 = 0,267 x 20.000.000 = 5.340.000 (đ) Phương pháp này có ưu điểm là đã khắc phục được nhược điểm của phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần và phương pháp khấu hao theo thời gian. Khả năng thu hồi vốn những năm đầu nhanh hạn chế được hao mòn do vô hình xảy ra.mức khấu hao từng năm phù hợp vối năng lực làm việc của tài sản cố định, đến năm cuối cùng thu hồi đủ giá trị ban đầu của tài sản cố định. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có nhược điểm là việc tính toán phức tạp nhất là việc xác định tỷ lệ khấu hao từng năm, số khấu hao những năm đầu lớn do vậy doanh nghiệp phải xem xét tới mức chịu đựng của giá thành sản phẩm để vận dụng vào đơn vị mình. d. Phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm 137 Khấu hao theo số lượng sản phẩm được tính dựa vào mức trích khấu hao bình quân tính cho một đơn vị sản phẩm và số lượng sản phẩm sản xuất trong tháng (hoặc năm). - Xác định mức trích khấu hao trong tháng của tài sản cố định theo công thức dưới đây : Mức trích khấu hao Số lượng sản Mức trích khấu hao trong tháng của = phẩm sản xuất x bình quân tính cho tài sản cố định trong tháng một đơn vị sản phẩm Trong đó : Mức trích khấu hao Nguyên giá của tài sản cố định bình quân tính cho = một đơn vị sản phẩm Sản lượng theo công suất thiết kế - Mức trích khấu hao năm của tài sản cố định bằng tổng mức trích khấu hao của 12 tháng trong năm Ví dụ: Doanh nghiệp A mua một TSCĐ có nguyên giá là 200.000.000đ sản lượng theo công suất thiết kế là 2.500.000 SP. Thực tế số lượng sản phẩm đạt được bình quân trong một tháng là 20.000 SP Vậy mức trích khấu hao hàng tháng của TSCĐ là: 20.000 x 200.000.000 2.500.000 = 1.600.000 đ 1.1.4.1. Chính sách quản trị dự trữ: Trong cơ cấu vốn kinh doanh của một doanh nghiệp, tỷ trọng vốn lưu động thường rất lớn, đặc biệt là bộ phận vốn lưu động dự trữ; một mặt phải luôn đáp ứng được nhu cầu sản xuất, mặt khác đòi hỏi không quá nhiều dẫn tới ứ đọng vốn kinh doanh. Để giải quyết vấn đề này, lý thuyết quả trị hiện đại đã đề cập đến mô hình 138 thuật toán dự trữ, mô hình cung ứng đúng thời điểm,... song có lẽ, mô hình quản lý dự trữ có lựa chọn A,B, C là đặc biệt có ý nghĩa với thực trạng quản lý ở các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, bởi trước hết nó dễ thực hiện, dễ phổ biến, đồng thời từng bước đưa quản lý dự trữ theo hướng hiện đại. Nội dung của mô hình quản lý dự trữ có lựa chọn A, B,C là các loại nguyên vật liệu dự trữ được phân thành 3 nhóm A, B,C theo 2 tiêu thức: - Giá trị nguyên vật liệu sử dụng hàng năm - Số loại nguyên vật liệu Nhóm A gồm những nguyên vật liệu có giá trị từ 70% đến 80%, số chủng loại từ 15 đến 20% so với tổng số nguyên vật liệu dự trữ. Nhóm B: giá trị nguyên vật liệu từ 15 đến 20% song chủng loại từ 25 đến 30% Nhóm C: giá trị nguyên vật liệu khoảng 5% song số chủng loại chiếm từ 45 đến 55%. Có thể mô phỏng đồ thị đường A,B,C như sơ đồ sau: Giá trị 0 A C Số chủng loại B A B C 139 Trục tung là giá trị nguyên vật liệu của các nhóm và trục hoành là số loại nguyên vật liệu của các nhóm. Tác dụng của mô hình quản lý dự trữ có lựa chọn A, B, C trong việc sử dụng vốn lưu động: - Từ việc phân nhóm nguyên vật liệu kết hợp với việc phân tích tình hình cung ứng và dự trữ, có thể đề ra các chính sách cụ thể đối với từng loại nguyên vật liệu. Có thể lập bảng nghiên cứu ung ứng và dự trữ nguyên vật liệu để có các chính sách sử dụng vốn lưu động như sau: Bảng phân tích chính sách dự trữ và chính sách sử dụng vốn lưu động: Nhóm IV Giá cả Nhà cung cấp Thời gian cung ứng Kỹ thuật dự trữ Phân công phụ trách Các chính sách sử dụng vốn lưu động A 1 Ổn định Độc quyền Dài Phức tạp Giám đốc Chính sách cung ứng đúng thời điểm 2 Cạnh tranh Ngắn 3 Đã quen Giản đơn 4 Biến động Mới 5 Mạnh Chính sách tín dụng giao hàng 140 Yếu Cấp phòng B 1 Thanh toán ngay 2 C n Nhân viên 1 n - Việc phân tích nguyên vật liệu theo nhóm và tới từng loại nguyên vật liệu cho phép doanh nghiệp đề ra các chính sach phù hợp, trên cơ sở căn cứ vào hoạt động và tính chất thị trường cung ứng. Ví dụ: Nguyên vật liệu A1 có giá trị ổn định, nhà cung cấp cạnh tranh lại đã quen biết, thới gian cung ứng dài, dự trữ yêu cầu kỹ thuật giản đơn thì cần tận dụng chính sách tín dụng giao hàng trên cơ sở do giám đốc phụ trách để tăng uy tín. - Với từng doanh nghiệp cụ thể, sau khi lập biểu phân tích chi tiết nhóm nguyên vật liệu và các tiêu thức xem xét, có thể có một bảng nghiên cứu chi tiết, trên cơ sở đó có chính sách sử dụng vốn lưu động cụ thể. Bảng phân tích này còn là căn cứ để doanh nghiệp lên các cân đối tài chính chung cho hoạt động kinh doanh. - Bằng việc phân nhóm nguyên vật liệu, việc phân công phụ trách theo nhóm nguyên vật liệu ắn với cấp quản lý sẽ tác động trực tiếp đến việc sử dụng vốn lưu động. Với nhóm A cấp quản lý ra quyết định cung ứng nên là cấp giám đốc, nó sẽ cho phép hạn chế các tiêu cực phát sinh do giá trị lô hàng lớn nên liên quan đến các 141 cân đối tổ chức toàn doanh nghiệp, nên giám đốc nắm. Mặt khác, vì số lượng nhóm A rất ít nên không vì thế mà ảnh hưởng tới hoạt động quản lý của giám đốc. 2.6. Chính sách bán chịu của doanh nghiệp Thực tế cho thấy một tâm lý kinh doanh phổ biến là người ta thường thích mua chịu hơn là phải bán chịu. Trong cơ chế thị trường bán chịu có thể được coi là một chính sách kinh doanh phù hợp với lợi ích của doanh nghiệp đã đẩy nhanh việc tiêu thụ. - Nội dung của chính sách bán chịu. + Xác định mục tiêu bán chịu: nhằm thúc đẩy tăng doanh thu, giải quyết hàng tồn kho, tạo uy tín về năng lực tài chính của doanh nghiệp. + Xây dựng các điều kiện bán chịu: Thông thường căn cứ vào giá bán, lãi suất vay và thời hạn bán chịu. + Tính toán hiệu quả bán chịu: Thực chất là so sánh chi phí phát sinh khi bán chịu với lợi nhuận do bán chịu tạo ra. Kinh doanh trong cơ chế thị trường, bán chịu được coi như một trong các biện pháp để đẩy nhanh tiêu thụ. Mâu thuẫn ở đây là đẩy nhanh tiêu thụ trong trường hợp này lại làm chậm kỳ luân chuyển vốn, giảm số vòng quay vốn lưu động. Vì vậy, hiệu quả của việc bán chịu được tính như sau: - Xác định hiệu qủa bán chịu (xác định lợi ích bán chịu). LBC =  TNBC - CFBC Trong đó: LBC: Lãi bán chịu  TNBC = (DT1 – CF1) – (DT0 – CF0) DT1: Tổng doanh thu do có bán chịu DT0: Tổng doanh thu do không bán chịu 142 CF1: Tổng chi phí do có bán chịu CF0: Tổng chi phí do không bán chịu + CFBC: Chi phí bán chịu bao gồm: • CFK: Lãi phải trả cho khoản phải thu do bán chịu (nếu đi vay vốn để thay thế cho khoản bán chịu) • CFql : Chi phí quản lý do bán chịu: chi phí đi lại, điện thoại, tiền lương... • CFth : Chi phí thu hồi nợ khác Ví dụ: Một doanh nghiệp thực hiện chính sách bán chịu như sau: Khi giao sản phẩm cho người mua, người mua phải trả 20% giá trị hàng mua. Hết tháng thứ nhất trả 50%, hết tháng thứ 2 trả 20%, tháng thứ 3 trả nốt số còn lại 10%. Lãi suất vay vốn hiện tại là 0,9%/tháng. Nhờ bán chịu nên doanh thu bán hàng là 4 tỷ(đ) . Chi phí bán chịu là 65% trên doanh thu bán hàng. Nếu không bán chịu thì doanh thu đạt 3,4 tỷ (đ). Chi phí khi không bán chịu là 70% trên doanh thu. Chi phí quản lý khi doanh nghiệp bán chịu là 0,039 tỷ, chi phí thu hồi nợ là 0,0178 tỷ. Hãy tính lợi ích của bán chịu cho doanh nghiệp. Bài giải  TNBC = (4 tỷ - 4 tỷ x 65%) - (3,4 tỷ - 3,4 tỷ x 70%) = 0,38 tỷ CFK = (4 tỷ x 80% x 0,9%) + (4 tỷ x 30% x 0,9%) + ( 4 tỷ x 10% x 0,9%) = 0,0432 tỷ (đ) LBC = 0,38 tỷ - (0,0432 tỷ + 0,0178tỷ + 0,039 tỷ) = 0,28 tỷ(đ) Chú ý: Khi doanh nghiệp chọn nhiều chính sách bán chịu với các điều kiện thanh toán và giá cả khác nhau thì cũng có thể dùng cách tính toán trên để lựa chọn chính sách bán chịu hiệu quả nhất. 143 CÂU HỎI CHƯƠNG IV: 1.Nêu các phương pháp phân bổ truyền thống trong việc tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp? 2. So sánh ưu điểm của phương pháp tính mức lãi thô với phương pháp truyền thống? 3. Nêu các ứng dụng của mức lãi thô trong việc ra quyết định kinh doanh trong doanh nghiệp ? Lấy ví dụ minh hoạ. 4. Phân tích vai trò quản trị chi phí trong doanh nghiệp? 5. Làm thế nào để kiểm soát được chi phí trong doanh nghiệp một cách hữu ích và giải pháp thực hiện? 6.Thế nào là chính sách mắc nợ? Hãy phân tích vai trò của chính sách mắc nợ đối với doanh nghiệp? Theo anh (chị) doanh nghiệp cần duy trì hệ số mắc nợ như thế nào là hợp lý? 7.Thực chất của chính sách thay thế tín dụng. Hãy phân tích sự tác động của chính sach thay thế tín dụng đối với tình hình tài chính của doanh nghiệp? 8. So sánh các phương pháp khấu hao, từ đó rút ra những điều cần lưu ý khi hoạch định chính sách khấu hao của doanh nghiệp. 9. Khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp có thể đánh giá bằng các hệ số nào? Để xác định hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn hiệu quả cần lưu ý đến yếu tố nào? 10. Có những chính sách thay thế tín dụng nào trong doanh nghiệp? Phân tích và so sánh các chính sách đó. Thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam khi áp dụng các chính sách này? 144 CHƯƠNG 5: KẾ TOÁN VÀ RA QUYẾT ĐỊNH I. THÔNG TIN KẾ TOÁN 1.1. Khái niệm và vai trò của kế toán 1.1.1. Khái niệm kế toán: Kế toán là công cụ không thể thiếu được trong hệ công cụ quản lý kinh tế, là khoa học thu nhận, xử lý thông tin về tài sản và sự vận động của tài sản, các hoạt động kinh tế tài chính trong các đơn vị, nhằm kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị. 1.1.2. Vai trò của hạch toán kế toán trong nền kinh tế thị trường. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp đều tìm mọi biện pháp để sản xuất ra sản phẩm với số lượng nhiều nhất. Để đạt được mục tiêu này bất kỳ một người quản lý nào cũng phải nhận thức được vai trò quan trọng về thông tin của kế toán. - Thông tin kế toán phục vụ cho các nhà quản lý kinh tế. Bởi vì căn cứ vào thông tin kế toán các nhà quản lý định ra các kế hoạch, dự án và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch và dự án đặt ra, phân tích các thông tin kế toán sẽ giúp họ đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn nhất. - Nhờ có thông tin kế toán người ta có thể xác định được hiệu quả của một thời kỳ kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp và do đó các nhà đầu tư mới có quyết định đầu tư hay không và cũng biết được sử dụng vốn đầu tư như thế nào? - Kế toán cũng giúp cho Nhà nước trong việc hoạch định chính sách soạn thảo luật lệ, qua kiểm tra tổng hợp các số liệu kế toán Nhà nước nắm được tình hình chi phí, lợi nhuận của các đơn vị từ đó đề ra các chính sách về đầu tư, thuế thích hợp. 145 1.2. Những ngành kế toán chủ yếu Nền kinh tế quốc tế nói chung và kinh tế quốc dân nói riêng dựa trên nền tảng của nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế. Tương ứng với mỗi ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, công tác hạch toán kế toán có những qui định mang tính đặc thù riêng có. Trong đó, người ta có thể chia hạch toán kế toán thành một số ngành kế toán chủ yếu sau: - Kế toán doanh nghiệp công nghiệp: đây là ngành kế toán chủ yếu được rất nhiều đơn vị kinh tế áp dụng. - Kế toán doanh nghiệp thương mại và dịch vụ: bao gồm: kế toán lưu chuyển hàng hoá thương mại trong nước, kế toán lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu, kế toán trong ngành kinh doanh dịch vụ. - Kế toán doanh nghiệp xây lắp: bao gồm : kế toán tại đơn vị nhận thầu và kế toán đầu tư XDCB ở đơn vị chủ đầu tư. - Kế toán trong các tổ chức tài chính- tín dụng: bao gồm: kế toán ngân hàng, kế toán trong các quĩ tín dụng. - Kế toán doanh nghiệp nông nghiệp: bao gồm: kế toán trong ngành chăn nuôI, kế toán trong ngành trồng trọt. 1.3. Các báo cáo tài chính Để đưa ra các chính sách tài chính của doanh nghiệp, người ta thường căn cứ vào các báo cáo tài chính. Các báo cáo này thường được sắp xếp, phản ánh theo các chuẩn mực nhất định (theo các qui định của hệ thống kế toán-tài chính quốc gia). Thông thường, hệ thống này gồm các báo cáo chủ yếu sau: 1.3.1. Báo cáo thu nhập hay báo cáo kết quả kinh doanh (Báo cáo lãi - lỗ) 146 - Khái niệm: Nếu bảng tổng kết tài sản được coi như một sự phản ánh thực trạng tài chính, thì bản báo cáo thu-chi là một báo cáo kinh doanh trong một thời kỳ tương ứng. Nó thể hiện việc tập hợp các khoản thu-chi và kết quả kinh doanh. Đây có thể nói là số liệu mà các nhà đầu tư rất quan tâm vì nó phản ánh sinh động toàn bộ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ theo từng hệ thống kế toán mà cấu tạo của bảng báo cáo kinh doanh có thể khác nhau, nhưng nhìn chung nó phản ánh sự chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ với các khoản chi phí, các khoản thuế và cho kết quả về lợi nhuận ròng công việc và phần tái tích luỹ. Doanh thu tiêu thụ (sau khi đã trừ đi thuế VAT phải nộp) – Khoản giảm doanh thu – Giá vốn hàng bán – Chi phí chung + Lợi nhuận khác = Lợi nhuận trước thuế – Thuế thu nhập doanh nghiệp = Lợi nhuận ròng (sau thuế) – Các quĩ phân phối (cả quĩ dự phòng) = Lợi nhuận tái tích luỹ. 1.3.2. Bảng cân đối tài sản - Khái niệm: bảng cân đối tài sản là một báo cáo tài chính được lập vào một thời điểm nhất định theo cách phân loại vốn và nguồn hình thành vốn, được cấu tạo dưới dạng bảng cân đói số dư các tài khoản kế toán. - Kết cấu của bảng cân đối tài sản: Bên trái là tài sản: tức là giá trị toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Có thể hợp nhất thành ba bộ phận chính:Tài sản cố định (TSCĐ), tài sản lưu động (TSLĐ) và tài sản thanh toán (TSTT). Trong mỗi bộ phận lại được chia nhỏ thành các khoản mục chi tiết theo qui định của hệ thống kế toán và yêu cầu quản lý. Bên phải là nguồn vốn: là giá trị các nguồn hình thành nên các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo. Ở đây, cơ cấu nguồn vốn được thể hiện và phản ánh tính tự chủ tài chính và chịu trách nhiệm pháp lý của doanh 147 nghiệp đối với các bên góp vốn. Nguồn vốn bao gồm: nguồn vốn chủ sở hữu (vốn của doanh nghiệp có), nguồn vốn vay (vay dài hạn hoặc ngắn hạn). Giá trị của hai bên tài sản và nguồn vốn của bảng cân đối tài sản cân bằng nhau đúng theo các số liệu đầu kỳ, cuối kỳ. Ngoài ra, còn có các tài liệu bổ sung với các phần chính của bảng cân đối tài sản như: - Các loại tài sản, vốn hiện có do doanh nghiệp quản lý sử dụng nhưng không thuộc sở hữu của doanh nghiệp và cần phải theo dõi theo cách khác, gồm: tài sản cố định thuê ngoài, giá trị vật tư, hàng hoá giữ hộ, nhận gia công, tài sản khách hàng ký gửi... - Tài liệu bổ sung giải thích một số khoản trong bảng cân đối tài sản như: nguồn vốn liên doanh, ngoại tệ qui đổi..... 1.3.3. Báo cáo luân chuyển ngân quĩ ( báo cáo lưu chuyển tiền tệ): Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo dõi tình hình thu- chi tiền mặt trong các mặt hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó theo dõi sự tăng, giảm của luồng tiền theo ba loại hoạt động chính của doanh nghiệp là: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. - Luồng tiền từ hoạt động kinh doanh là luồng tiền phát sinh từ các hoạt đọng tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp và các hoạt động khác không phải là các hoạt động đầu tư hay hoạt động tài chính. - Luồng tiền từ hoạt động đầu tư là luồng tiền phát sinh từ các hoạt động mua sắm, xây dựng, thanh lý, nhượng bán các tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác không thuộc các khoản tương đương tiền. - Luồng tiền từ hoạt động tài chính là luồng tiền phát sinh từ các hoạt động tạo ra các thay đổi về qui mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay của doanh nghiệp. 148 Việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ được căn cứ vào: bảng cân đối tài sản, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ kỳ trước... 1.4. Những người sử dụng thông tin kế toán 1.4.1. Nhóm người sử dụng bên ngoài công ty Thông tin kế toán được nhiều đối tượng sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Căn cứ vào mối quan hệ lợi ích với công ty, nhóm người sử dụng thông tin kế toán bên ngoài công ty được chia ra làm hai loại cơ bản sau: - Những người có lợi ích trực tiếp bao gồm: nhà đầu tư, chủ nợ - Những người có lợi ích gián tiếp: thuế và các cơ quan chức năng 1.4.2. Nhóm người sử dụng bên trong công ty Những người sử dụng thông tin kế toán bên trong công ty bao gồm: nhà quản lý, chủ doanh nghiệp, hội đồng quản trị (với công ty cổ phần), ban giám đốc. Nhóm người này có liên quan trực tiếp, thường xuyên tiếp cận với các thông tin kế toán và có thể tác động đến thông tin kế toán trong quá trình hoạt động của công ty. Hoạt động kinh doanh Hạch toán kế toán Nhà quản lý Chủ doanh nghiệp Hội đồng quản trị Ban giám đốc Người có lợi ích trực tiếp Nhà đầu tư Chủ nợ Người có lợi ích gián tiếp Thuế và Các cơ quan chức năng 149 1.5. Khái niệm và nguyên tắc kế toán 1.5.1. Khái niệm được thừa nhận 1.5.1.1. Thực thể kinh doanh. Là một đơn vị, một tổ chức có quyền sở hữu tài sản riêng và tài sản đó vận động trong quá trình hoạt động của đơn vị tổ chức đó hay nói cách khác thực thể kinh doanh là một đơn vị tổ chức mà tại đó diễn ra hoạt động kinh tế tài chính. Do đó thực thể kinh doanh khi tiến hành hoạt động kinh doanh cần phải ghi chép, phản ánh, tổng hợp và báo cáo về tình hình tài sản, biến động tài sản, nguồn hình thành và kết quả quá trình kinh doanh của chính doanh nghiệp mình. 1.5.1.2.Hoạt động liên tục Kế toán ở các đơn vị là việc ghi chép, phản ánh tình hình hoạt động của doanh nghiệp cho dù khả năng hoạt động của doanh nghiệp có thể là: Tiếp tục hoạt động và Có thể ngừng hoạt động . Tuy vậy, theo khái niệm hoạt động liên tục thì công việc kế toán được đặt ra trong điều kiện giả thiết rằng đơn vị sẽ tiếp tục hoạt động vô thời hạn hoặc ít nhất cũng hoạt động trong thời gian 1 năm nữa. Khái niệm hoạt động liên tục có liên quan đến việc lập hệ thống báo cáo tài chính. Vì giả thiết đơn vị tiếp tục hoạt động, nên khi lập báo cáo tài chính người ta không quan tâm đến giá thị trường của các loại tài sản, vốn, công nợmặc dù trên thực tế giá thị trường có thể thay đổi, mà chỉ phản ánh tài sản của đơn vị theo trị giá vốn – hay cũng gọi là “giá phí”. Hơn nữa, vì quan niệm doanh nghiệp còn tiếp tục hoạt động nên việc bán đi những tài sản dùng cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp theo giá thị trường không đặt ra. Chính vì thế mà giá thị trường không thích hợp và thực sự không cần thiết phải phản ánh giá trị tài sản trên Báo cáo tài chính. Mặc dù vậy, trong trường hợp đặc biệt khi giá thị trường thấp hơn giá vốn, kế toán có thể sử dụng giá thị trường như yêu cầu của nguyên tắc “thận trọng”. Mặt khác, khi một doanh nghiệp đang chuẩn bị ngừng hoạt động: Phá sản, giải thể, 150 bán thì khái niệm “hoạt động liên tục” sẽ không có tác dụng nữa trong việc lập báo cáo, mà giá trị thị trường mới là có tác dụng. Như vậy, báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, nghĩa là doanh nghiệp không có ý định cũng như không buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động của mình. Trường hợp thực tế khác với giả định hoạt động liên tục thì báo cáo tài chính phải lập trên một cơ sở khác và giải thích cơ sở đó sử dụng để lập báo cáo tài chính. 1.5.1.3 Thước đo tiền tệ: Là đơn vị đồng nhất trong việc tính toán ghi chép các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh. Tiền được sử dụng như một đơn vị đo lường cơ bản trong các báo cáo tài chính. 1.5.1.4 Kỳ kế toán: Là khoảng thời gian nhất định mà trong đó các báo cáo tài chính được lập (tháng, quý, năm) 1.5.2. Các nguyên tắc kế toán thừa nhận 1.5.2.1 Cơ sở dồn tích. Mỗi nghiệp vụ kinh tế tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi vào sổ kế toán vào thời điểm thực tế thu chi tiền hoặc tương đương tiền. Báo cáo tài chính được lập trên cơ sở dồn tích phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ hiện tại và tương lai. 1.5.2.2 Nguyên tắc giá gốc Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của kế toán. Nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các loại tài sản, công nợ, vốn, doanh thu chi phí phải được ghi chép phản ánh theo giá gốc của chúng, tức là số tiền mà đơn vị bỏ ra để có được những tài sản đó. Giá gốc của tài sản được tính theo số tiền hoặc tương đương tiền đã trả phải trả hoặc tính theo số tiền hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản đó được 151 ghi nhận. Giá gốc của tài sản không được thay đổi trừ khi có các quy định khác trong chuẩn mực kế toán cụ thể. Nguyên tắc giá gốc có quan hệ chặt chẽ với khái niệm thước đo tiền tệ và nguyên tắc hạt động liên tục. Chính vì giả thiết hoạt động liên tục, không bị giải thể trong một tương lai gần, nên người ta không quan tâm đến giá thị trường của các loại tài sản khi ghi chép và phản ánh chúng trên báo cáo tài chính, hơn nữa giá thị trường luôn biến động, nên kế toán không thể dùng giá thị trường để ghi chép lập báo cáo tài chính được. Một lý do khác là để tính toán, xác định được kết quả kinh doanh là lãi hay lỗ người ta phải so sánh giữa giá bán và giá gốc. Qua việc nghiên cứu những khái niệm thước đo tiền tệ, nguyên tắc hoạt động liên tục và nguyên tắc giá gốc ta thấy trong nhiều trường hợp thì bảng cân đối kế toán của đơn vị không phản ánh được lượng tiền mà các tài sản của đơn vị có thể bán được hoặc thay thế được. Mặt khác bảng cân đối kế toán cũng không phản ánh đúng giá của đơn vị, bởi vì một tài sản của đơn vị có thể được bán cao hơn hoặc thấp hơn số tiền phản ánh tại thời điểm lập báo cáo. Đây chính là mặt hạn chế của báo cáo tài chính do việc thực hiện nguyên tắc giá gốc. 1.5.2.3 Nguyên tắc trọng yếu Thông tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thông tin hoặc thiếu sự chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn và tính chất của thông tin hoặc các sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin được xem xét trên cả phương diện định tính và định lượng. Nguyên tắc trọng yếu hay còn gọi là nguyên tắc thực chất, giúp cho việc ghi chép của kế toán đơn giản và hiệu quả hơn nhưng vẫn đảm bảo được tính chất trung thực khách quan. 152 Nguyên tắc này chú trọng đến các yếu tố, các khoản mục chi phí mang tính trọng yếu quyết định bản chất nội dung của các sự kiện kinh tế, đồng thời lại cho phép bỏ qua không ghi chép các nghiệp vụ, sự kiện không quan trọng, không làm ảnh hưởng tới bản chất, nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh. 1.5.2.4 Nguyên tắc phù hợp Kết quả hoạt động SXKD của đơn vị sau một kỳ hoạt động là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng và chi phí tính cho số hàng đã bán. Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau. Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó. Chi phí tương ứng với doanh thu gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu, chi phí của các kỳ trước và chi phí của kỳ sau nhưng liên quan đến doanh thu đó. Nguyên tắc phù hợp đưa ra hướng dẫn về việc xác định chi phí để tính kết quả. Chi phí để tính toán xác định kết quả hoạt động SXKD là tất cả các chi phí đã cấu thành trong giá thành toàn bộ của số hàng đã bán. Nói cách khác, nguyên tắc phù hợp đưa ra việc xác định phần chi phí tương ứng với doanh thu đã thực hiện 1.5.2.5 Nguyên tắc thận trọng Nguyên tắc này đề cập đến việc lựa chọn những giải pháp trong vô số các giải pháp, sao cho ít ảnh hương nhất tới vốn chủ sở hữu, với sự lựa chọn như vậy, kế toán chỉ ghi các khoản thu nhập khi có những chứng cớ chắc chắn, còn chi phí thì được ghi ngay khi chưa có chứng cớ chắc chắn. Với những tài sản có xu hướng giảm giá, mất giá hoặc không bán được, cần phải dự tính khoản thiệt hại để thực hiện việc trích lập dự phòng tính vào chi phí, hoặc cố gắng tính hết các khoản chi phí có thể được cho số sản phẩm hàng hóa đã bán để số sản phẩm hàng hóa chưa bán được có thể chịu phần chi phí ít hơn Như vậy nguyên tắc thận trọng đòi hỏi: - Phải lập các khoản dự phòng nhưng không lập quá lớn. 153 - Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập - Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh. 1.5.2.6 Nguyên tắc nhất quán Nguyên tắc này đòi hỏi việc áp dụng, thực hiện các khái niệm, nguyên tắc, chuẩn mực và phương pháp kế toán phải thống nhất trong suốt các niên độ kế toán. Trong những trường hợp đặc biệt, nếu có sự thay đổi chính sách kế toán lựa chọn thì đơn vị phải giải trình được lý do và sự ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong thuyết minh báo cáo tài chính. Thực hiện nguyên tắc nhất quán sẽ đảm bảo cho số liệu thông tin của kế toán trung thực khách quan và đảm bảo tính thống nhất, so sánh được của các chỉ tiêu giữa các thời kỳ với nhau. II. KẾ TOÁN VÀ RA QUYẾT ĐỊNH 2.1. Hoạch định và kiểm soát tài chính 2.1.1. Hoạch đinh ngân sách Có nhiều loại ngân sách cần được hoạch định và kiểm soát, cần phải xác định được nhân tố then chốt có ảnh hưởng đến các ngân sách khác trong doanh nghiệp, ngân sách tương ứng với nhân tố quyết định này sẽ được quyết định đầu tiên, từ đó lập ra các ngân sách khác. Ngân sách quyết định này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh và thời điểm hoạt động của doanh nghiệp. Trên thực tế, doanh thu lượng hàng bán là nhân tố quyết định và ngân sách hàng là ngân sách quyết định phổ biến nhất ở các doanh nghiệp kinh doanh thương mại đã hoạt động được một thời gian. Đối với các doanh nghiệp mới thành lập thì tiền là nhân tốquyết định; vì vậy, ngân sách tiền mặt là ngân ách quyết định oqr các doanh nghiệp này. Đôi khi, ngân sách sản xuất cũng có thể là ngân sách quyết định, nhưng trường hợp này không phổ biến. 154 Lập kế hoạch luôn là việc cần làm, đặc biệt đối với việc hoạch định ngân sách. Ngân sách chỉ là một bảng kế hoạch đưa ra hướng dẫn, không nên quản lý cứng nhắc và có thái độ xem ngân sách là cái cớ để không thực hiện công tác quản lý. Tuy nhiên, thỉnh thoảng doanh nghiệp cần phải điều chỉnh để kế hoạch này có ý nghĩa hơn. Trong trường hợp cần thiết thì cấp quản lý cao nhất có thể quyết định bỏ qua một ngân sách nào đó nếu như họ thấy rằng như vậy sẽ kinh tế hơn. Ngân sách được xây dựng với mục đích là đem lại lợi ích cho công việc quản lý. Một khi ngân sách không được hoạch định và kiểm soát tốt, nó sẽ dẫn đến những hậu quả không mong muốn. Ngược lại, nếu hoạch định và kiểm soát ngân sách tốt thì doanh nghiệp sẽ có những lợi ích sau: - Phối hợp hoạt động và đề cao tinh thần làm việc nhóm trong doanh nghiệp - Trao đổi thông tin tốt hơn trong doanh nghiệp. - Thống nhất mục tiêu và cùng nhau phấn đấu - Kiểm soát thực hiện kế hoạch hiệu quả hơn - Động viên mọi nguồn lực trong doanh nghiệp. - Kiểm soát thực hiện ngân sách 2.1.2. Kiểm soát thực hiện ngân sách Kiểm soát thực hiện ngân sách là một công cụ quản lý hữu ích. Nó giúp các nhà quản lý làm việc hiệu quả hơn mà không làm mất đi kỹ năng cá nhân hay sự linh hoạt. Kiểm soát phải là một quá trình chủ động, nó rất cần thiết trong việc thực hiện ngân sách của doanh nghiệp mình. Kiểm soát được thực hiện trên rất nhiều nội dung; ví dụ như kiểm soát việc thực hiện mục tiêu đề ra, trong trường hợp không thực hiện được hạn mức chi tiêu hay mục tiêu đã đề ra thì đặt ra câu hỏi và các câu trả lời như: tình hình sẽ đi đến đâu và nguyên nhân là gì? làm gì để nâng cao hiệu quả hoạt động ở các bộ phận làm việc? Có nên điều chỉnh ngân sách do những phát sinh mới không?.... 155 Việc kiểm soát sẽ được tăng cường nếu kết quả thực tế được theo dõi và đối chiếu với các số liệu dự báo trong ngân sách. Từ đó, bạn sẽ có khả năng phát hiện những khó khăn mới nảy sinh và đưa ra biện pháp đối phó kịp thời. Tuy nhiên, không có bảng ngân sách nào là hoàn hảo cả. Những tình huống ngoài dự tính luôn xảy ra. Ví dụ như đối thủ cạnh tranh bất ngờ tung ra thị trường một sản phẩm mới, thị trường sản phẩm bị thu hẹp. Bất cứ một tình huống nào cũng có thể làm các số liệu dự báo không còn chính xác. Một số tình huống nằm trong khả năng kiểm soát của nhà quản lý, một số thì không, đòi hỏi sự ứng phó kịp thời, linh hoạt của họ. 2.2. Các tỷ số tài chính 2.2.1. Tỷ số luân chuyển vốn lưu động - Vòng quay vốn lưu động: Doanh thu thuần Vòng quay vốn lưu động = Tổng vốn lưu đông bình quân Chỉ tiêu này có ý nghĩa cứ bình quân sử dụng 1 đồng vốn lưu động trong kỳ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần, nghĩa là đo lường hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng tốt vì hàng hoá tiêu thu nhanh, vật tư tồn kho thấp, ít có các khoản phải thu giảm chi phí, tăng lợi nhuận và ngược lại. - Khả năng thanh toán hiện hành: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Khả năng thanh toán hiện hành = Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này thể hiện mức độ đảm bảo của tài ản lưu động với nợ ngắn hạn. Nếu tỷ số này <1 thì công ty rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Tuy nhiên, không phải hệ số này càng lớn thì càng tốt. Khi xem xét hệ số này phảI quan tâm đến tính chất ngành nghề kinh doanh. Ví dụ, các công ty thương mại thường có tỷ lệ TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản, do đó hệ số này thường lớn. - Khả năng thanh toán nhanh: 156 Vốn bằng tiền mặt + Đầu tư TC ngắn hạn Khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Là thước đo về việc huy động các tài sản có khả năng chuyển đổi ngay thành tiền để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn mà các chủ nợ yêu cầu. Nhìn chung, nếu hệ số này quá nhỏ thì công ty sẽ bị giảm uy tín với bạn hàng, ặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ; nhưng nếu hệ số này quá lớn lại phản ánh lượng tiền tồn quĩ nhiều, giảm hiệu quả sử dụng vốn. Cũng giống như hệ số khả năng thanh toán tạm thời, giá trị của hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, kỳ hạn thanh toán của món nợ phải thu, phải trả trong kỳ. 2.2.2. Tỷ số hoàn vốn đầu tư (Reurn On Investment- R.O.I) Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khả năng sinh lời của đồng vốn đầu tư phản ánh sử dụng bình quân một đồng vốn kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Giá trị của chỉ tiêu này càng cao càng chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và ngược lại càng thấp càng kém hiệu quả. Đây là chỉ tiêu mà danh nghiệp quan tâm nhất bởi vì nó là mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp theo đuổi. Chỉ tiêu này phải đạt được mức sao cho doanh lợi trên vốn chủ đạt cao hơn tỷ lệ lạm phát và giá vốn. Lợi nhuận ròng Tỷ số hoàn vốn đầu tư ( R.O.I) = Vốn sản xuất bình quân 2.2.3. Tỷ số thu nhập của mỗi cổ phần( Earning Per Share- EPS) Chỉ tiêu này xác định tỷ lệ thu nhập có thể mang lại cho mỗi cổ phiếu thường mà các cổ đông đang nắm giữ. Đây là chỉ tiêu được các nhà đầu tư quan tâm, nó là căn cứ để trả lãi và là căn cứ phản ánh sự tăng lên của giá trị cổ phần thường. Lợi nhuận ròng- Cổ tức ưu đãi Tỷ số thu nhập của mỗi cổ phần = 157 (E.P..S) Tỏng số cổ phiếu thường đang lưu hành 2.3. Ngân sách và hoạch định ngân sách 2.3.1 Khái niệm Đế đảm bảo có đủ tiền chi trả lương đúng kỳ hạn, mỗi doanh nghiệp cần phải lập kế hoạch và kiểm soát việc thu chi, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp cần phải lập một bản kế hoạch dự báo dòng tiền thu và chi cho mục tiêu cụ thể. Bản kế hoạch này được gọi là ngân sách. Ở tầm vĩ mô, mỗi quốc gia đều có ngân sách nhà nước, hàng năm Bộ trưởng Bộ tài chính trình Quốc hội xem xét Ngân sách nhà nước. Mục tiêu của ngân sách này thể hiện một phần trong chính sách điều hành đất nước của Chính phủ. ở tầm vi mô, mỗi doanh nghiệp lập ngân sách để theo dõi và điều hành các hoạt động kinh doanh. Trong các doanh nghiệp, người ta có thể dùng từ kế hoạch hay dự toán, ví dụ như kế hoạch bán hàng, kế hoạch sản xuất, kế hoạch thu chi tiền mặt... . Tuy nhiên, trong phần này chúng ta thống nhất dùng chung một từ là ngân sách (ví dụ như ngân sách bán hàng, ngân sách sản xuất, ngân sách tiền mặt,...). Thuật ngữ này dùng để chỉ một bản kế hoạch/ dự toán đã được lượng hoá thành đơn vị sản phẩm và tiền cho tương lai. Ngân sách có thể được định nghĩa như sau: Ngân sách là một kế hoạch hành động được lượng hoá và được chuẩn bị cho một thời gian cụ thể nhằm để đạt được các mục tiêu đã đề ra . Từ định nghĩa ngân sách cần xem xét các đặc điểm: - Ngân sách phải được lượng hoá: điều này có nghĩa là ngân sách phải được biểu thị bằng các con số, thực tế thường là một số tiền - Ngân sách phải được chuẩn bị từ trước: Bảng ngân sách phải được lập trước thời gian dự định thực hiện ngân sách đó. Các số liệu trong hoặc sau thời 158 gian thực hiện ngân sách có thể cũng quan trọng, nhưng không phải là một phần trong bảng ngân sách. - Ngân sách phải được áp dụng cho một khoảng thời gian cụ thể. Một kế hoạch tài chính mở cho tương lai (không có điểm kết thúc), không được coi là bảng ngân sách. - Ngân sách phải là một bảng kế hoạch hành động: đây là điểm quan trọng nhất, ngân sách không phải là một bảng bao gồm các số liệu thực tế vì nó liên quan đến những sự việc chưa hề xảy ra. Tình hình có thể thay đổi trong khoảng thời gian thực hiện ngân sách, có nghĩa là khi đó, ngân sách sẽ không còn chính xác. Giống như các kế hoạch khác, ngân sách rất ít khi dự báo hoàn toàn chính xác về tương lai. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp như vậy, nó vẫn đóng vai trò định hướng cho những người thực hiện và vai trò này rất quan trọng. Những loại ngân sách : được liệt kê dưới đây là khá phổ biến trong doanh nghiệp: - Ngân sách bán hàng (doanh thu) - Ngân sách nguồn lực - Ngân sách tiếp thị - Ngân sách đầu tư - Ngân sách chi phí cho các phòng ban chức năng - Ngân sách tiền mặt 2.3.2 Qui trình hoạch định ngân sách Khi tiến hành xây dựng và giám sát ngân sách, cần tiến hành các bước sau: 1-Xác định và lập kế hoạch cho các hoạt động trong giai đoạn nhất định 2.Xác định những khoản chi tiêu, sắp xếp chúng theo hạng mục, sử dụng các khoản ngân sách hoặc hoá đơn chi tiêu kỳ trước làm cơ sở cho việc xác định ngân sách kỳ này với giả định chi phí hoạt động cho kỳ này sẽ tăng so với kỳ trước. 3-Dự tính các nguồn thu bao gồm thu nhập từ bán hàng hoá hoặc dịch vụ, thu liên doanh liên kết, thu nhập từ hoạt động tài chính, từ các nguồn tài trợ 159 4-Phân tích sự chênh lệch giữa thu và chi, điều chỉnh các khoản này để cân đối ngân sách bằng cách xác định các khoản chi nào cần giảm bớt và biện pháp thực hiện, cân nhắc các mức dịch vụ khác nhau. 5-Xây dựng kế hoạch cho những tình huống bất thường ví dụ như nguồn tài chính đến chậm hơn so với thời gian dự kiến, tình trạng khủng khoảng hoặc biến động giá cả. 6-Trình bày dự thảo ngân sách và báo cáo thu-chi với các nhân viên, ban điều hành hoặc những bộ phận khác trong công ty để thu nhận thông tin đóng góp, đồng thời thể hiện sự mih bạch hoá ngân sách trong đơn vị. 7-Tiến hành thay đổi và hoàn thiện kế hoạch thu chi cũng như thời gian tiến hành các khoản thu chi 8-Theo dõi ngân sách theo tiến độ thực hiện dự án. 2.3.3. Ngân sách tiền mặt Một bảng ngân sách tiền mặt thường đưa ra dự báo về:  lượng tiền mặt thu và chi trong kỳ kế hoạch  thời điểm thu và chi  số tiền mặt có đầu kỳ Ngân sách tiền mặt rất quan trọng đối với các doanh nghiệp nhỏ hặc mới thành lập. III. KIỂM SOÁT TRONG DOANH NGHIỆP 3.1. Vai trò và mục đích của kiểm soát Trong thực tiễn quản trị một doanh nghiệp, công tác kiểm soát có ý nghĩa quan trọng bởi nhờ nó mà doanh nghiệp có thể kiểm định, điều chỉnh hoạt động quản trị các lĩnh vực nhằm đạt mục đích đã xác định. 3.1.1. Khái niệm và phân loại kiểm soát 160 a/ Khái niệm kiểm soát: Kiểm soát là việc kiểm tra đánh giá hiệu quả công tác quản trị trên cơ sở các định mức, các chuẩn mực, các kế hoạch đã định, từ đó đề ra các biện pháp quản trị thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu cuả doanh nghiệp. Như vậy nhờ kiểm soát mà kiểm tra được cái “đã” làm và điều chỉnh cái “sẽ” làm ở tất cả các lĩnh vực hoạt động. b/ Phân loại sự kiểm soát - Theo đối tượng kiểm soát gồm: + Kiểm soát kết quả của nhân viên + Kiểm soát thái độ của nhân viên đối với công việc trực tiếp - Theo cách kiểm soát gồm : + Tự kiểm tra ( khi có những tiêu chuẩn định sẵn ) + Kiểm tra từ bên ngoài - Theo điều kiện của doanh nghiệp gồm: + Kiểm soát do nhân viên tiến hành (kiểm tra, kiểm toán) + Kiểm tra tự động bằng máy đo, đếm - Theo quy mô gồm : + Kiểm soát toàn bộ hoạt động + Kiểm soát từng vấn đề 3.1.2. Vai trò của kiểm soát Trước hết, kiểm soát là tiền đề để đảm bảo sự ăn khớp giữa mục tiêu đề ra với thực tế đạt được. Hơn nữa, hoạt động kiểm soát đòi hỏi phải có những chỉ tiêu thống nhất chung không chỉ cho kiểm soát mà ngay cả khi làm kế hoạch đó là : - Chỉ tiêu cho từng cộng sự (ví dụ: phải tăng doanh thu bán hàng lên 5%) - Chỉ tiêu cho từng nhóm (ví dụ: khoán tăng sản lượng cho từng tổ ) - Các chỉ tiêu cho từng lĩnh vực - Các chỉ tiêu cho toàn doanh nghiệp 3.1.3. Mục đích của kiểm soát 161 Henry Fayol đã khẳng định: "Trong ngành kinh doanh kiểm soát gồm có việc kiểm chứng xem mọi việc có được thực hiện theo như kế hoạch ấn định không? Nó có nhiệm vụ vạch ra các khuyết điểm và thiếu sót để sửa chữa, ngăn ngừa sự tái phạm. Nó đối phó với mọi sự vật, con người và hoạt động". Còn Goctr cho rằng: ”Sự hoạch định quản trị tìm cách thiết lập những chương trình thống nhất, kết hợp và rõ ràng” còn “Sự kiểm soát quản trị tìm cách bắt buộc các công việc phải theo đúng với kế hoạch”. Từ những quan điểm nói trên về kiểm soát có thể rút ra mục đích cơ bản của kiểm soát bao gồm: - Xác định rõ những mục tiêu kết qủa đạt được theo kết quả kinh doanh đã định - Xác định và dự đoán những biến động trong lĩnh vực cung ứng đầu vào, các yếu tố chi phí sản xuất cũng như lĩnh vực thị trường (đầu ra) - Xác định chính xác, kịp thời những sai sót xảy ra và trách nhiệm của các bộ phận có liên quan trong quá trình thực hiện các quyết định quản trị. - Tạo điều kiện thực hiện tốt chế độ trách nhiệm cá nhân - Hình thành hệ thống biểu mẫu thống kê, báo cáo phù hợp, chính xác - Đúc rút, phổ biến kinh nghiệm, cải tiến công tác quản trị nhằm đạt mục tiêu đã định, trên cơ sở nâng cao hiệu suất công tác của từng bộ phận, từng cấp, từng cá nhân trong bộ máy quản trị kinh doanh. 3.2. Trình tự, nội dung và phương pháp kiểm soát 3.2.1. Trình tự kiểm soát Quá trình kiểm soát gồm 3 bước: Thiết lập tiêu chuẩn kiểm soát (định mức, chuẩn mực), đo lường, so sánh kết quả đạt được với tiêu chuẩn đề ra và điều chỉnh các sai lệch. - Bước 1: Thiết lập tiêu chuẩn kiểm soát: 162 Tiêu chuẩn là những mốc mà từ đó người ta có thể đo lường thành quả đạt được. Thông thường các tiêu chuẩn đề ra đặc trưng cho các mục tiêu hoạch định của doanh nghiệp. Các tiêu chuẩn đặt ra thường được phản ánh về mặt định tính hay định lượng. Tuy nhiên, người ta thường cố gắng lượng hoá các tiêu chuẩn. + Các tiêu chuẩn định tính như : làm cho các đốc công có ý thức trách nhiệm cao, có lòng trung thành với doanh nghiệp, có kỷ luật làm việc Mục tiêu này khó xác định bằng lượng nhưng cần đặt ra để kiểm soát xem mỗi hành động có đúng đường lối đã xác định không. Ví dụ như: khả năng tổ chức, chỉ đạo, điều hành, uy tín được đặt ra cho từng loại quản trị viên, đánh giá qua kết quả hoạt động của đơn vị, sự tin cậy khâm phục của đồng nghiệp và cấp dưới. Để đánh giá được cần thông qua các nhân tố trung gian: quản trị viên các cấp có liên quan, công nhânHoặc xác định một chương trình quảng cáo có đạt được các mục tiêu ngắn hạn hay dài hạn hay không? + Tiêu chuẩn định lượng như : số lượng sản phẩm, dịch vụ, lượng chi phí đầu tư, số lượng phế phẩm, giá cả, số giờ làm việc thực tế, số lượng quản trị viên được đào tạoViệc xác định, đánh giá các tiêu chuẩn được thực hiện qua các bước sau: + Xác định những mục đích, kết quả cuối cùng bằng số: Mức gia tăng tài sản cố định, lãi do bán hàng + Xác định những tiêu chuẩn kiểm soát bằng các đơn vị tính toán cụ thể: bằng tiền, bằng đơn vị sản phẩm, bằng số giờ làm việc + Tập hợp các yếu tố và diễn tả mối quan hệ giữa chúng trên biểu hay sơ đồ. + Nghiên cứu, phân tích chỉ ra các thành tích hoặc tồn tại qua các so sánh giữa kết quả đạt được với mục tiêu đề ra theo dự kiến. + Xác định xu hướng phát triển mới, dự kiến khó khăn, rủi ro có thể xảy ra. 163 + Xác định các phương pháp, công cụ kiểm soát cần dùng. Các báo cáo định kỳ, khả năng vốn, khả năng tổ chức, phối hợp hoạt động + Kiểm tra lại báo cáo, sơ đồ, biểu đồ xem có phản ánh được nội dung biện pháp đã đặt ra không. Bước 2: So sánh kết quả đạt được với những tiêu chuẩn đặt ra: Mục đích của bước này nhằm đánh giá đúng kết quả đã đạt được, khẳng định thành tích, phát hiện sai lệch làm cơ sở đề ra giải pháp. Để đánh giá một cách khách quan cần thực hiện nguyên tắc sau : - Phải căn cứ vào những tiêu chuẩn đặt ra để đánh giá kết quả. Vận dụng nguyên tắc này sẽ khó khăn trong trường hợp kiểm soát những mục tiêu định tính, khó có thể đo lường được như: cải tiến tổ chức sản xuất, nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện phong cách, tác phong làm việc. Để khắc phục tình trạng này cần cụ thể hoá các tiêu thức như: xác định kết quả, mục tiêu cuối cùng; đánh giá thông qua các mục tiêu trung tâm, dùng chỉ tiêu chu kỳ sản xuất kinh doanh để đánh giá kết quả tổ chức sản xuất, dùng những tiêu chuẩn về phẩm chất, trình độ kiến thức, uy tín để đánh giá việc nâng cao trình độ. + Đảm bảo tính khách quan trong kiểm soát Để đảm bảo nguyên tắc này trong quá trình kiểm soát phải xác định rõ trách nhiệm, thái độ của các cấp quản trị cấp trên, không thành kiến, độc đoán, tránh buộc tội bất công, tránh nhận định chủ quan khi chưa có chứng cứ. Cấp dưới phải có lòng tin và chấp hành nghiêm túc những quy định và nội dung kiểm soát. + Đảm bảo vừa có lợi cho doanh nghiệp vừa có lợi cho cá nhân , bộ phận là đối tượng kiểm soát. Thông qua kiểm soát, quản trị viên cấp cao đánh giá được năng lực của quản trị viên cấp dưới. Đối với cấp dưới, họ khẳng định được vị trí của mình, những khiếm khuyết, hướng khắc phục để đạt tiêu chuẩn, mục tiêu đã định. Đồng thời họ biết cần cải tiến phương pháp làm việc, nâng cao năng lực tổ chức. 164 Bước 3 : Điều chỉnh các sai lệch Kiểm soát không chỉ đơn thuần đo lường kết quả đã đạt được so với tiêu chuẩn đặt ra mà còn phải đề ra những biện pháp để sửa chữa sai lầm. Nhờ thực hiện bước hai của trình tự kiểm soát, quản trị viên biết chính xác cần phải áp dụng những biện pháp sửa chữa ở những khâu, bộ phận, cá nhân nào. Các hướng điều chỉnh sai lệch gồm: Điều chỉnh kế hoạch, thay đổi mục tiêu, sửa đổi công tác tổ chức, tăng cường nhân viên, lựa chọn, bố trí lại nhân sự, tăng cường huấn luyện, bồi dưỡng nhân viên, đình chỉ, cách chức Trình tự kiểm soát quá trình kiểm soát có thể được mô tả qua sơ đồ sau: Trình tự kiểm soát này nhằm hai mục đích cơ bản là: + Kiểm soát ảnh hưởng của các quyết định chiến lược, sách lược với hoạt động của doanh nghiệp. + Đánh giá, thông báo, nêu nguyên nhân các tồn tại. 3.2.2. Nội dung kiểm soát Công tác kiểm soát trong doanh nghiệp mang tính toàn diện bao trùm tất cả các lĩnh vực hoạt động: sản xuất, nhân sự, kỹ thuật, Marketing Đầu vào (các nguồn lực ) Điều hành (các tiêu chuẩn) So sánh kết quả ( tìm sai sót ) Đầu ra ( mục tiêu ) Thực hiện biện pháp sửa đổi Đề ra biện pháp sửa đổi Phân tích nguyên 165 Một số nội kiểm soát bao chủ yếu gồm: 3.2.2.1. Kiểm soát tài chính Là việc xem xét, phân tích các hoạt động tài chính của doanh nghiệp để đưa ra các quyết định điều chỉnh nhằm đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Các chỉ tiêu tài chính bao gồm: Tài sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí, kết quả (lỗ, lãi, doanh số, chi phí, lợi nhuận ). Ví dụ: Thông qua bảng tổng kết tài sản và báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, tính toán xác định các chỉ số tài chính cơ bản của doanh nghiệp. Từ đó tìm ra các điểm mạnh, điểm yếu của tình hình tài chính, đề ra các quyết định điều chỉnh cho phù hợp. 3.2.2.2. Kiểm soát nhân sự Khi kiểm soát nhân sự cần kiểm soát trên các chỉ tiêu: Nguồn nhân sự, công tác tuyển chọn nhân sự, bố trí sắp xếp, đánh giá, bồi dưỡng, đào tạo, thăng tiến nhân sự. 3.2.2.3. Kiểm soát về tình trạng thị trường Dựa vào các phân đoạn thị trường để kiểm soát sự lựa chọn thị trường thích hợp, khả năng cạnh tranh về chất lượng, giá cả để chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cùng loại, thị trường tiềm năng 3.2.2.4. Kiểm soát năng suất Năng suất đo lường khả năng của doanh nghiệp trong việc sử dụng các nguồn lực sao cho có lợi nhất (cả lĩnh vực trực tiếp, gián tiếp). 3.2.2.5. Kiểm soát tình hình sản xuất Tình hình sản xuất là nói đến khả năng chế tạo sản phẩm mới, số lượng, chất lượng hàng hoá, dịch vụ 3.2.2.6. Kiểm soát thái độ làm việc và trách nhiệm của quản trị viên Có ý thức trách nhiệm hoàn thành công việc được giao hay không, có quan hệ tốt trong nội bộ doanh nghiệp không. 166 3.2.2.7. Kiểm soát thực hiện các dự án Kiểm soát việc doanh nghiệp thực hiện được các dự án đề ra ở mức nào, hướng phát triển của doanh nghiệp ra sao... Tóm lại, nội dung kiểm soát phải trả lời được những vấn đề cơ bản sau: + Mục đích cần phải đạt của tổ chức là gì? Có những tiêu chuẩn gì đánh giá mức độ hoàn thành công việc? Cách thức thay đổi khi cần thiết. + Hội đồng quản trị hay tổng giám đốc ban hành những quyết định quản trị dựa vào những căn cứ nào? + Hệ thống sổ sách, biểu mẫu, nguồn thông tin lập ra để cung ứng, phục vụ cho việc hoàn thành các báo cáo có hợp lý không, có khoa học không? + Chế độ trách nhiệm cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản trị và ghi chép sổ sách ở từng cấp, từng cá nhân? + Tình hình tài chính của doanh nghiệp? + Các quan hệ nhân sự trong doanh nghiệp? 3.2.3. Phương pháp kiểm soát Chất lượng công tác kiểm soát không chỉ phụ thuộc vào việc quy định chính xác những nội dung kiểm soát và lựa chọn hợp lý hình thức kiểm soát mà còn phụ thuộc rất lớn vào việc áp dụng các phương pháp kiểm soát. 3.2.3.1. Phương pháp kiểm soát cổ truyền - Kiểm soát dựa vào các số liệu thống kê: Số liệu thống kê là những số liệu phản ánh kết quả đã đạt được và có thể là những số liệu phản ánh dự đoán tương lai. Các số liệu này có thể được trình bày dưới dạng các biểu, bảng, liệt kê hay các sơ đồ. - Kiểm soát thông tin qua các bản báo cáo và phân tích. Thông thường những bản báo cáo và phân tích được tập trung vào việc phát hiện ra những khâu, những bộ phận xung yếu, nhờ các báo cáo và kết quả phân tích 167 mà có thể phát hiện được nguyên nhân sâu xa của tồn tại mà không có một bản thống kê hay sơ đồ nào phản ánh được đầy đủ, thậm chí có thể phát hiện được những vấn đề bất thường, đột biến xảy ra. - Kiểm soát dựa vào sự phân tích điểm hoà vốn. Thông qua việc phân tích điểm hoà vốn có thể thấy rõ tương quan của hai yếu tố thu và chi của một đơn hàng, một thương vụ. Với phương pháp này có thể dự đoán được mức lãi của các phương án để lựa chọn phương án tối ưu. Như vậy, với phương pháp này hoạt động kiểm soát không chỉ có ý nghĩa là kiểm tra lại cái đã làm mà còn có tác dụng kiểm tra cái sẽ làm để lựa chọn phương án tối ưu. - Kiểm soát bằng hình thức kiểm tra các nguồn lực. Theo cách này, việc kiểm tra được thực hiện do một nhóm nhân viên tiến hành đều đặn trong các lĩnh vực: Kế toán, tài chính, sản xuất, kỹ thuật, lao động.Vệc kiểm soát phải đánh giá một cách tổng quát và so sánh kết quả thực tế đạt được với dự kiến, đồng thời xem xét đến tình hình thực hiện các chính sách, sử dụng quyền hành, phẩm chất của quản trị viên, hiệu quả của các biện pháp áp dụng. 3.2.3.2. Phương pháp kiểm soát hiện đại Xuất phát từ việc thay đổi phương thức kiểm soát và sự phát triển các công cụ kiểm soát, ngày nay người ta không kiểm soát những công việc cụ thể, mà kiểm soát kết quả cuối cùng dựa vào các tiêu chuẩn đã xác định. Phương pháp PERT (Program Evaluation and Review Technique), phương pháp này xuất pháp từ phương pháp biểu đồ Gantt do Henry Gant sáng tạo vào đầu thế kỷ XX. Biểu đồ Gantt phản ánh mối tương quan về thời gian giữa các biến cố của một chương trình sản xuất, thực chất biểu đồ này được xây dựng theo quan điểm những mục tiêu của một chương trình hành động phải được xem như một chuỗi các kế hoạch với các biến cố của nó mà ta có thể hiểu và theo dõi. 168 Vậy, việc kiểm soát phải được tiến hành trên cơ sở lựa chọn được những yếu tố quan trọng then chốt cuả một kế hoạch theo dõi chính xác. Người ta không kiểm soát những công việc cụ thể mà kiểm soát kết quả cuối cùng dựa vào các tiêu chuẩn đã định. 3.2.4. Những điều kiện đảm bảo kiểm soát có hiệu quả Để đảm bảo kiểm soát có hiệu quả, khi kiểm soát cần đảm bảo một số điều kiện sau: - Phải có ngân sách dành riêng cho việc thực hiện công tác kiểm soát. - Những mẫu biểu báo cáo, những nhận định và kết luận rút ra qua kiểm soát phải chính xác, phù hợp giữa nội dung với mục đích kiểm soát và phải có sự tham gia đóng góp của các quản trị viên cấp dưới và tập thể cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. - Tổ chức tốt công tác thống kê ghi chép ban đầu, thu thập thông tin đầy đủ ở các lĩnh vực phục vụ hoạt động kiểm soát. - Xác định cụ thể các mục tiêu dài hạn và ngắn hạn, coi đó là chuẩn mực cho hoạt động kiểm soát. - Công tác kiểm soát phải uyển chuyển, linh hoạt. - Đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có trình độ, có năng lực. - Phải trang bị các phương tiện làm việc, dụng cụ kiểm soát theo hướng ngày càng hiện đại hoá. 3.3. Trách nhiệm của các cơ quan kiểm soát trong từng loại hình doanh nghiệp Với mỗi loại cơ cấu tổ chức khác nhau thì trách nhiệm và hình thức kiểm soát khác nhau. 169 Ví dụ: Trong các doanh nghiệp nhỏ kiểu gia đình ít có hoạt động kiểm soát. Nếu có, thường do người đứng đầu doanh nghiệp tiến hành theo hình thức kế toán, dựa vào các qui định pháp lý, chính sách thuế. Trong các cơ cấu tổ chức, chức năng hoạt động kiểm soát được thực hiện ở các cấp. Hình thức kiểm soát thường là kế toán, thuế, ngân sách. Với các tổ chức tài chính, hoạt động kiểm soát gắn với cơ cấu pháp lý qua kế toán, thuế và các bước kiểm tra sổ sách. Hệ thống kiểm soát trong doanh nghiệp bao gồm các cấp, các cơ quan kiểm soát. - Các cấp kiểm soát bao gồm từ cấp doanh nghiệp (người lãnh đạo cao nhất) đến cấp cơ sở ( người lao động trong doanh nghiệp) - Các cơ quan kiểm soát gồm: + Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc hoặc giám đốc (trong các doanh nghiệp có hội đồng quản trị) + Hội đồng thành viên, chủ tịch hội đòng thành viên, chủ sở hữu công ty (trong công ty TNHH) + Hội viên, người làm công. 3.3.1. Trách nhiệm của các cơ quan kiểm soát trong doanh nghiệp nhà nước 3.3.1.1. Trách nhiệm của hội đồng quản trị - Hội đồng quản trị là cơ quan quản trị cao nhất trong doanh nghiệp. Hội đồng còn là cơ quan tư vấn và kiểm soát, hội đồng quản trị có chức năng quyết định lãnh đạo việc thực hiện chiến lược, và mục tiêu kinh doanh. - Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm cao nhất về sự thành bại của doanh nghiệp, thông qua các văn bản đệ trình, báo cáo dài hạn, thường kỳ của chủ tịch hội đồng quản trị về hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và thực hiện kiểm soát nói riêng. 170 Trong việc tạo điều kiện thực hiện công tác kiểm soát, Hội đồng quản trị có các nhiệm vụ sau: + Phê duyệt, thông qua hệ thống mục tiêu dài hạn, ngắn hạn cho toàn bộ doanh nghiệp làm cơ sở để so sánh, đánh giá kết quả kiểm soát. + Quy định rõ thẩm quyền, chế độ trách nhiệm của Hội đồng quản trị, của chủ tịch hội đồng, quy định mối liên hệ giữa hội đồng quản trị và chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc trong việc thực hiện kiểm soát. + Phê duyệt những nội dung và phạm vi kiểm soát trong từng thời kỳ ở doanh nghiệp. + Phê duyệt, thông qua hệ thống tổ chức thực hiện kiểm soát các lĩnh vực hoạt động cho các cấp, các bộ phận trong doanh nghiệp theo những mục đích, yêu cầu cụ thể. + Phê duyệt, thông qua các dự án tổ chức trang bị phương tiện, dụng cụ kiểm soát cho các bộ phận, cá nhân thực hiện kiểm soát. + Phê duyệt, thông qua chế độ thưởng phạt tinh thần, vật chất đối với các bộ phận, cá nhân thực hiện kiểm soát. + Ra các quyết định và kiểm soát việc thực hiện các quyết định triệu tập hội đồng, bổ nhiệm các giám đốc, xây dựng các bản quyết toán. + Kiểm tra, giám sát tổng giám hoặc giám đốc các đơn vị thành viên trong việc bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, mục tiêu của nhà nước giao cho doanh nghiệp. + Giám sát, kiểm tra việc thực hiện vốn góp của nhà nước + Trách nhiệm của chủ tịch Hội đồng quản trị trong công tác kiểm soát + Tổ chức các cuộc họp của Hội đồng quản trị để bàn bạc, phê duyệt các quyết định kiểm soát. + Ra các quyết định kiểm tra, kiểm soát. 171 + Tổ chức hoạt động của công ty và kiểm soát sản xuất- kinh doanh theo đúng điều luật công ty. + Tổ chức phân tích định kỳ các tài liệu thu thập để đánh giá kết quả đạt được so với kế hoạch, mục tiêu đã định. 3.3.1.2. Trách nhiệm của ban kiểm soát trong doanh nghiệp Ban kiểm soát do hội đồng quản trị lập ra có chức năng và nhiệm vụ kiểm soát là kiểm tra, giám sát hoạt động điều hành của tổng giám đốc, hoặc giám đốc, bộ máy doanh nghiệp và các đơn vị thành viên trong hoạt động tài chính, chấp hành điều lệ doanh nghiệp, pháp luật, nghị quyết, quyết định hội đồng quản trị. 3.3.1.3. Trách nhiệm của Tổng giám đốc hoặc giám đốc Có chức năng kiểm tra, giám sát và kiểm soát hoạt động của các đơn vị thành viên thực hiện các định mức, tiêu chuẩn, đơn giá qui định trong nội bộ doanh nghiệp. Tổng giám đốc hoặc giám đốc thực hiện kiểm soát toàn diện các lĩnh vực sau: lãi-lỗ, tình trạng thị trường, năng suất, tình hình hoạt động của máy móc, thiết bị, công nghệ; tình hình quản lý, sử dụng nguyên vật liệu; chất lượng sản phẩm; cải tiến kỹ thuật, ứng dụng kỹ thuật mới; trật tự an

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiaotrinh_qtdn_p2_3083.pdf
Tài liệu liên quan