Tài liệu Giáo trình Quản trị doanh nghiệp (Phần 1): 1
LỜI NÓI ĐẦU
Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập chương trình Cao đẳng nghề Kế
toán Doanh nghiệp, Thạc sỹ Kinh tế Nguyễn Sơn Ngọc Minh đã tiến hành biên
soạn giáo trình môn học Quản trị doanh nghiệp.
Giáo trình được biên soạn trên cơ sở quyết định số 15/2008/QĐ- BLĐTBXH
ngày 31 tháng 03 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội
về việc ban hành chương trình khung đào tạo trình độ Cao đẳng nghề Kế toán
Doanh nghiệp, tài liệu tham khảo của Học viện Hành chính quốc gia, trường Đại
học kinh tế Quốc dân Hà Nội và một số tài liệu khác có liên quan đến môn học.
Nội dung giáo trình gồm 5 chương:
Chương I: Doanh nghiệp và tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp.
Chương II: Lập chiến lược, kế hoạch trong quản trị doanh nghiệp
Chương III: Quản trị nhân sự, khoa học- công nghệ trong doanh nghiệp.
Chương IV: Quản trị chi phí, kết quả và các chính sách tài chính
doanh nghiệp.
Chương IV: Kế toán và ra quyết định.
Trong quá trình biên soạn, soạn giả ...
103 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 825 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo trình Quản trị doanh nghiệp (Phần 1), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI NÓI ĐẦU
Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập chương trình Cao đẳng nghề Kế
toán Doanh nghiệp, Thạc sỹ Kinh tế Nguyễn Sơn Ngọc Minh đã tiến hành biên
soạn giáo trình môn học Quản trị doanh nghiệp.
Giáo trình được biên soạn trên cơ sở quyết định số 15/2008/QĐ- BLĐTBXH
ngày 31 tháng 03 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội
về việc ban hành chương trình khung đào tạo trình độ Cao đẳng nghề Kế toán
Doanh nghiệp, tài liệu tham khảo của Học viện Hành chính quốc gia, trường Đại
học kinh tế Quốc dân Hà Nội và một số tài liệu khác có liên quan đến môn học.
Nội dung giáo trình gồm 5 chương:
Chương I: Doanh nghiệp và tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp.
Chương II: Lập chiến lược, kế hoạch trong quản trị doanh nghiệp
Chương III: Quản trị nhân sự, khoa học- công nghệ trong doanh nghiệp.
Chương IV: Quản trị chi phí, kết quả và các chính sách tài chính
doanh nghiệp.
Chương IV: Kế toán và ra quyết định.
Trong quá trình biên soạn, soạn giả đã cố gắng thể hiện nội dung giáo trình
để đảm bảo tính lý luận, tính khoa học và tính thực tiễn phù hợp với nhận thức
chung của sinh viên Cao đẳng nghề Kế toán doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá
trình biên soạn giáo trình không tránh khỏi những thiếu sót, soạn giả rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của độc giả để giáo trình ngày càng hoàn thiện hơn.
2
CHƯƠNG 1
DOANH NGHIỆP VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
I. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
1.1. Bản chất của hệ thống kinh doanh
Doanh nghiệp khác với các tổ chức khác ở chỗ chúng sản xuất hàng hóa, hay
cung cấp các loại dịch vụ với mục đích thu được lợi nhuận nhằm mở rộng hơn nữa
hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh là một hệ thống sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ để thỏa mãn các
nhu cầu của con người, của xã hội. Bản thân kinh doanh có thể được coi như một
hệ thống tổng thể bao gồm những hệ thống cấp dưới nhỏ hơn là các ngành kinh
doanh, mỗi ngành kinh doanh được tạo thành bởi nhiều doanh nghiệp có quy mô
khác nhau, sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Mỗi doanh nghiệp lại bao gồm
nhiều hệ thống con như sản xuất, tài chính, marketing...
Bản chất của kinh doanh:
- Doanh nghiệp tiếp nhận các yếu tố đầu vào và hoạt động trong những điều
kiện đặc thù tùy theo loại hình kinh doanh. Tuy nhiên có điểm chung là các yếu tố
yếu tố đầu vào chỉ có giới hạn hay được gọi là khan hiếm đối với bất kỳ doanh
nghiệp nào.
- Doanh nghiệp sử dụng các yếu tố đầu vào theo cách thức hiệu quả nhất.
Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp yêu cầu hàng hóa được bán với giá phải
chăng và có chất lượng thích hợp. Một doanh nghiệp thành công phải luôn luôn
phát hiện được những nhu cầu mới hoặc nhu cầu còn thiếu, chưa được đáp ứng của
người tiêu dùng và luôn luôn sẵn sàng thỏa mãn các nhu cầu đó.
Dưới áp lực của cạnh tranh và sức mua của người tiêu dùng, các nhà sản xuất
sẽ cố gắng sử dụng có hiệu quả hơn thiết bị, nguyên liệu và lao động để tạo ra
nhiều hàng hóa hơn, có chất lượng tốt hơn. Do đó, khi theo đuổi những quyền lợi
riêng tất yếu doanh nghiệp sẽ đồng thời tạo ra lợi ích cho xã hội, bởi các doanh
3
nghiệp sẽ phải thỏa mãn các nhu cầu của xã hội khi cố gắng thỏa mãn những ham
muốn của họ. Trong lúc theo đuổi lợi nhuận, nhà kinh doanh cũng phải phục vụ
người tiêu dùng và phục vụ lợi ích xã hội. Quan niệm này là nền tảng của nền kinh
tế thị trường.
- Doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu và xã
hội.
1.2. Những đặc điểm của một hệ thống kinh doanh
Hệ thống kinh doanh có ba đặc điểm chủ yếu sau:
1.2.1 Sự phức tạp và tính đa dạng:
Hệ thống kinh doanh hiện đại là một cơ cấu rất phức tạp gồm có nhiều khu
vực. Mỗi khu vực do nhiều ngành tạo nên. Mỗi ngành lại được tạo thành từ nhiều
tổ chức kinh doanh mà các tổ chức kinh doanh này thay đổi trong những giới hạn
hình thức sở hữu, qui mô kinh doanh, cơ cấu vốn, phong cách quản trị và phạm vi
hoạt động. Chẳng hạn: khu vực sản xuất được tạo nên bằng các nhà máy lắp ráp
ôtô, chế tạo đồ điện gia dụng (ấm đun nước, nồi cơm điện, tủ lạnh,...) và các sản
phẩm điện tử (máy ghi âm, cassetle, đầu máy và ti vi, máy tính, máy vi tính,...).
Khu vực dịch vụ bao gồm các loại dịch vụ như vận tải, ngân hàng, các dịch vụ
chuyên nghiệp. Ngành công ty vận tải được tạo thành bởi các ngành: đường sắt,
vận tải biển, vận tải ôtô, hàng không. Ngành công nghiệp dịch vụ bao gồm các đại
lý vận chuyển, khách sạn, nhà hàng, các khu vườn quốc gia. Ngành dịch vụ chuyên
nghiệp bao gồm các luật sư, kiến trúc sư, bác sĩ, chuyên viên kế toán, nhà kinh
doanh bất động sản... Trong mỗi ngành công nghiệp này, một số công ty chỉ hoạt
động có tính chất cục bộ địa phương. Trong khi đó nhiều công ty khác có văn
phòng tại nhiều quốc gia như Morgan Stanley - Dean Wither, Novartis C Sandoz và
Ciba - Geigy, Hilton, Holiday Inn...
1.2.2 Sự phụ thuộc lẫn nhau:
Các tổ chức kinh doanh hợp tác với nhau trong hoạt động kinh doanh. Một
công ty mua nguyên liệu thô hay các chi tiết rời từ nhiều công ty khác, sau đó bán
4
các sản phẩm hoàn thành cho các nhà bán buôn, bán lẻ và những người này đem
bán chúng cho những người sử dụng cuối cùng. Trong tiến trình đó, tất cả các tổ
chức kinh doanh này đều phụ thuộc vào sự cung ứng dịch vụ của các công ty vận
tải, các ngân hàng và nhiều công ty khác. Vì vậy sự phụ thuộc lẫn nhau là một hệ
thống kinh doanh riêng của hệ thống kinh doanh hiện đại.
1.2.3 Sự thay đổi và đổi mới:
Để đảm bảo thành công, các tổ chức kinh doanh phải đáp ứng kịp thời những
thay đổi thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng. Hệ quả tất yếu của các tiến bộ
công nghệ là nhiều sản phẩm nhanh chóng trở nên lỗi thời và bị thay thế. Bởi vậy
sự thay đổi và đổi mới là những đặc trưng quan trọng trong hệ thống kinh doanh
hiện đại.
II. DOANH NGHIỆP VÀ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
2.1 Khái niệm doanh nghiệp
Việc nghiên cứu khái niệm doanh nghiệp có một ý nghĩa hết sức cần thiết.
Hiện nay đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về doanh nghiệp:
- Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện các hoạt
động kinh doanh, thực hiện các chức năng sản xuất, mua bán hàng hoá hoặc làm
dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu con người và xã hội, và thông qua hoạt động hữu
ích đó để kiếm lời.
- Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế do Nhà nước, các đoàn thể hoặc tư
nhân đầu tư vốn nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh
doanh hoặc hoạt động công ích góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của
đất nước.
- Theo Luật Doanh nghiệp năm 2006 thì doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.2 Khái niệm quản trị doanh nghiệp
5
Từ hàng nghìn năm nay, thuật ngữ quản trị đã ra đời và được áp dụng trong
thực tiễn ở tất cả các nước có chế độ chính trị khác nhau. Tuy nhiên, quản trị doanh
nghiệp chỉ xuất hiện và dần trở thành một môn khoa học độc lập mới khoảng 100
năm nay. Đặc biệt từ sau năm 1940 đến nay, khoa học quản trị doanh nghiệp mới
được phát triển mạnh và được giảng dạy tại hầu hết các trường kinh tế.
Quản trị doanh nghiệp là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể
doanh nghiệp tới tập thể những người lao động trong doanh nghiệp nhằm sử dụng
tốt nhất những cơ hội và tiềm năng sẵn có nhằm đạt mục tiêu đề ra.
2.3 Các hình thức tổ chức doanh nghiệp theo qui định của luật pháp
Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, dựa trên những đặc điểm về hình thức
sở hữu vốn, về quy mô hay địa vị pháp lý, người ta có thể có nhiều cách phân loại
khác nhau. Đứng trên góc độ là một nhà quản lý doanh nghiệp, nhằm tìm ra
phương thức quản lý doanh nghiệp có hiệu quả, chúng ta nghiên cứu các loại hình
doanh nghiệp dựa trên các cách phân loại sau:
2.3.1 Căn cứ vào tính chất sở hữu tài sản trong doanh nghiệp:
Theo tiêu thức này doanh nghiệp được phân thành các loại: DN nhà nước,
DN tư nhân, công ty, hợp tác xã (HTX)
2.3.1.1 Doanh nghiệp tư nhân:
Theo hình thức này thì vốn đầu tư vào doanh nghiệp do một người bỏ ra.
Toàn bộ tài sản của doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tư nhân. Người quản lý
doanh nghiệp do chủ sở hữu đảm nhận hoặc có thể thuê mướn, tuy nhiên người chủ
doanh nghiệp là người phải hoàn toàn chịu trách nhiệm toàn bộ các khoản nợ cũng
như các vi phạm trên các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
trước pháp luật.
a. Định nghĩa: Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là đơn vị kinh doanh có mức
vốn không thấp hơn vốn đăng ký, do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
b. Đặc điểm.
6
- DNTN là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và
làm chủ. Cá nhân vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử dụng tài sản, đồng thời cũng
là người quản lý hoạt động doanh nghiệp. Thông thường, chủ doanh nghiệp là giám
đốc trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng cũng có
trường hợp vì lý do cần thiết, chủ doanh nghiệp không trực tiếp điều hành hoạt
động kinh doanh mà thuê người khác làm giám đốc. Nhưng dù trực tiếp hay gián
tiếp điều hành hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp
vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động đó. Do tính chất một chủ doanh nghiệp
tư nhân quản lý và chịu trách nhiệm không có sự phân chia rủi ro với ai.
Đặc điểm này cho phép phân biệt doanh nghiệp tư nhân với công ty cổ phần
và công ty trách nhiệm hữu hạn là những loại hình doanh nghiệp do nhiều người
cùng chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của công ty tương ứng với phần góp vốn
của mình.
- DNTN phải có mức vốn không thấp hơn mức vốn đăng ký.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu tránh nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong
kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là điểm khác nhau giữa DNTN với công ty
TNHH và công ty cổ phần là những cơ sở kinh doanh mà những người chủ chỉ phải
chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của
mình.
c. Thuận lợi và khó khăn của DNTN.
- Thuận lợi.
+ Thủ tục thành lập DNTN đơn giản, dễ dàng.
+ Người chủ sở hữu toàn quyền quyết định kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh
doanh, do vậy dễ kiểm soát các hoạt động.
+ Tính linh hoạt do người chủ có thể thay đổi ngành hàng kinh doanh của
mình theo ý muốn.
7
+ Tính bí mật, mọi khoản lợi nhuận do doanh nghiệp đem lại đều thuộc về
họ, họ không phải chia xẻ bí quyết nghề nghiệp hay kinh doanh với người khác, trừ
khi họ muốn làm như vậy.
+ Giải thể dễ dàng, DNTN có thể bán cơ sở kinh doanh của mình cho bất kỳ
người nào họ muốn với bất cứ lúc nào theo giá họ chấp nhận
- Khó khăn
+ Khó khăn của DNTN liên quan đến số lượng tài sản, vốn có giới hạn mà
một người có thể có, thường họ bị thiếu vốn và bất lợi này có thể gây cản trở cho
sự phát triển.
+ Trách nhiệm pháp lý vô hạn, như đã nêu ở trên chủ sở hữu được hưởng
toàn bộ lợi nhuận của doanh nghiệp, nhưng nếu thua lỗ thì họ cũng gánh chịu một
mình.
+ Yếu kém năng lực quản lý toàn diện, không phải người chủ doanh nghiệp
nào cũng đủ trình độ để xử lý tất cả những vấn đề về tài chính, sản xuất, tiêu thụ.
+ Giới hạn về sự sinh tồn của doanh nghiệp, nguyên do là tính chất không
bền vững của hình thức sở hữu này, mọi sự cố xảy ra đối với chủ doanh nghiệp có
thể làm cho doanh nghiệp không tồn tại được nữa.
2.3.1.2 Doanh nghiệp hùn vốn: là một tổ chức kinh tế mà vốn được đầu tư do
các thành viên tham gia góp vào và được gọi là công ty. Họ cùng chia lời và cùng
chịu lỗ tương ứng với phần vốn đóng góp. Trách nhiệm pháp lý của từng hình thức
có những đặc trưng khác nhau. Theo Luật doanh nghiệp, loại hình công ty có các
loại: công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
a/ Khái niệm Công ty
“Công ty được hiểu là sự liên kết của 2 hoặc nhiều cá nhân hoặc pháp nhân
bằng sự kiện pháp lý, nhằm tiến hành để đạt được mục tiêu chung nào đó" (theo
KUBLER).
b/Đặc điểm công ty:
8
- Công ty phải do hai người trở lên góp vốn để thành lập, những người này
phải độc lập với nhau về mặt tài sản.
- Những người tham gia công ty phải góp tài sản như tiền, vàng, ngoại tệ,
máy móc thiết bị, trụ sở, bản quyền sở hữu công nghiệp. Tất cả các thứ do các
thành viên đóng góp trở thành tài sản chung của công ty nhưng mỗi thành viên vẫn
có quyền sở hữu đối với phần vốn góp. Họ có quyền bán tặng, cho phần sở hưũ của
mình.
Mục đích việc thành lập công ty là để kiếm lời chia nhau. Lợi nhuận của
công ty được chia cho những người có vốn trong công ty.
c/ Các loại hình công ty ở Việt Nam.
* Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH).
Là doanh nghiệp, trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng chia nhau lợi
nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn của mình góp vào công ty.
- Đặc điểm:
+ Công ty TNHH có hai thành viên trở lên (Điều 26), thành viên chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm
vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp, nhưng không quá 50 thành viên.
+ Phần vốn góp của tất cả các thành viên dưới bất kỳ hình thức nào đều phải
đóng đủ ngay khi thành lập công ty.
Phần vốn góp của các thành viên không được thể hiện dưới hình thức chứng
khoán (như cổ phiếu trong công ty cổ phần) và được ghi rõ trong điều lệ của công
ty.
+ Công ty TNHH không được phát hành cổ phiếu ra ngoài công chúng để
huy động vốn. Do đó khả năng tăng vốn của công ty rất hạn chế.
+ Việc chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người ngoài công ty bị
hạn chế gắt gao. Việc chuyển nhượng vốn chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của
nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
9
Trên mọi giấy tờ giao dịch, ngoài tên công ty, vốn điều lệ của công ty phải
ghi rõ các chữ "Trách nhiệm hữu hạn", viết tắt "TNHH".
+ Cơ cấu quản lý thường gọn nhẹ phụ thuộc vào số lượng thành viên. Nếu
công ty có từ 11 thành viên trở xuống cơ cấu tổ chức quản trị gồm có hội đồng
thành viên là cơ quan quyết định cao nhất, Chủ tịch công ty và giám đốc (hoặc
Tổng giám đốc) điều hành.
Trường hợp công ty TNHH một thành viên là tổ chức (Điều 46) là doanh
nghiệp do một tổ chức sở hữu - gọi tắt là chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khỏan
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của
công ty. Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn
điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. Đối với loại công ty này thì không
thành lập hội đồng thành viên. Tùy thuộc quy mô, ngành, nghề kinh doanh cơ cấu
tổ chức quản lý bao gồm: Hội đồng quản trị và giám đốc (Tổng giám đốc) hoặc
Chủ tịch công ty và Giám đốc (Tổng giám đốc), trong đó Chủ tịch là chủ sở hữu
công ty và là người đại diện theo pháp luật của công ty, có toàn quyền quyết định
việc quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.
Đối với công ty có 12 thành viên trở lên phải lập thêm ban kiểm soát.
- Thuận lợi và khó khăn của công ty TNHH
+ Thuận lợi:
Có nhiều chủ sở hữu hơn DNTN nên có thể có nhiều vốn hơn, do vậy có
vị thế tài chính tạo khả năng tăng trưởng cho doanh nghiệp.
Khả năng quản lý toàn diện do có nhiều người hơn để tham gia điều hành
công việc kinh doanh, các thành viên vốn có trình độ kiến thức khác nhau, họ có
thể bổ sung cho nhau về các kỹ năng quản trị.
Trách nhiệm pháp lý hữu hạn.
+ Khó khăn:
Khó khăn về kiểm soát: Mỗi thành viên đều phải chịu trách nhiệm đối với
các quyết định của bất cứ thành viên nào trong công ty. Tất cả các hoạt động dưới
10
danh nghĩa công ty của một thành viên bất kỳ đều có sự ràng buộc với các thành
viên khác mặc dù họ không được biết trước. Do đó, sự hiểu biết và mối quan hệ
thân thiện giữa các thành viên là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết, bởi sự ủy
quyền giữa các thành viên mang tính mặc nhiên và có phạm vi rất rộng lớn
Thiếu bền vững và ổn định, chỉ cần một thành viên gặp rủi ro hay có suy
nghĩ không phù hợp là công ty có thể không còn tồn tại nữa; tất cả các hoạt động
kinh doanh dễ bị đình chỉ. Sau đó nếu muốn thì bắt đầu công việc kinh doanh mới,
có thể có hay không cần một công ty TNHH khác.
Công ty TNHH còn có bất lợi hơn so với DNTN về những điểm như phải
chia lợi nhuận, khó giữ bí mật kinh doanh và có rủi ro chọn phải những thành viên
bất tài và không trung thực.
* Công ty cổ phần.
- Khái niệm và đặc điểm: Công ty cổ phần là công ty trong đó:
+ Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt
động ít nhất là ba.
+ Vốn cuả công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần và
được thể hiện dưới hình thức chứng khoán là cổ phiếu. Người có cổ phiếu gọi là cổ
đông tức là thành viên công ty.
+ Khi thành lập các sáng lập viên (những người có sáng kiến thành lập công
ty chỉ cần phải ký 20% số cổ phiếu dự tính phát hành), số còn lại họ có thể công
khai gọi vốn từ những người khác.
+ Công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra ngoài công
chúng, do đó khả năng tăng vốn của công ty rất lớn.
+ Khả năng chuyển nhượng vốn của các cổ đông dễ dàng. Họ có thể bán cổ
phiếu của mình một cách tự do.
+ Công ty cổ phần thường có đông thành viên (cổ đông) vì nó được phát
hành cổ phiếu, ai mua cổ phiếu sẽ trở thành cổ đông.
- Tổ chức quản lý công ty cổ phần:
11
Công ty cổ phần là loại công ty thông thường có rất nhiều thành viên và việc
tổ chức quản lý rất phức tạp, do đó phải có một cơ chế quản lý chặt chẽ. Việc quản
lý điều hành công ty cổ phần được đặt dưới quyền của 3 cơ quan: - Đại hội đồng cổ
đông; - Hội đồng quản trị; - Ban kiểm soát .
+ Đại hội đồng cổ đông:
Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất của
công ty gồm tất cả các cổ đông. Cổ đông có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia
đại hội đồng công ty. Là cơ quan tập thể, đại hội đồng không làm việc thường
xuyên mà chỉ tồn tại trong thời gian họp và chỉ ra quyết định khi đã được các cổ
đông thảo luận và biểu quyết tán thành.
Đại hội đồng cổ đông: được triệu tập để thành lập công ty. Luật không quy
định Đại hội đồng cổ đông phải họp trước hay sau khi có giấy phép thành lập
nhưng phải tiến hành trước khi đăng ký kinh doanh. Đại hội đồng thành lập hợp lệ
phải có nhóm cổ đông đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty và biểu
quyết theo đa số phiếu quá bán.
. Đại hội đồng bất thường: là đại hội chỉ được triệu tập để sửa đổi điều lệ
công ty. Tính bất thường của Đại hội nói lên rằng đại hội sẽ quyết định những vấn
đề rất quan trọng.
. Đại hội đồng thường niên: được tổ chức hàng năm. Đại hội đồng thường
niên quyết định những vấn đề chủ yếu sau:
= Quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển công ty và kế hoạch kinh
doanh hàng năm.
= Thảo luận và thông qua bản tổng kết năm tài chính.
= Bầu, bãi miễn thành viên HĐQT và kiểm soát viên.
= Quyết định số lợi nhuận trích lập các quỹ của công ty số lợi nhuận chia
cho cổ đông, phân chia trách nhiệm về các thiệt hại xảy ra đối với công ty trong
kinh doanh.
= Quyết định các giải pháp lớn về tài chính công ty.
12
= Xem xét sai phạm của HĐQT gây thiệt hại cho công ty.
+ Hội đồng quản trị: (HĐQT)
HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có từ 3-12 thành viên, số lượng cụ thể
được ghi trong điều lệ công ty.
HĐQT có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan
đến mục đích, quyền lợi của công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại
hội đồng. HĐQT bầu một người làm chủ tịch, chủ tịch HĐQT có thể kiêm Giám
đốc (Tổng giám đốc công ty) hoặc HĐQT cử một người trong số họ làm Giám đốc
hoặc thuê người làm Giám đốc công ty.
+ Ban kiểm soát :
Công ty cổ phần có trên mười một cổ đông phải có ban kiểm soát từ ba đến
năm thành viên.
Kiểm soát viên thay mặt các cổ đông kiểm soát các hoạt động của công ty,
chủ yếu là các vấn đề tài chính. Vì vậy phải có ít nhất một kiểm soát viên có trình
độ chuyên môn về kế toán. Kiểm soát viên có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
. Kiểm soát sổ sách kế toán tài sản, các bảng tổng kết năm tài chính của công
ty và triệu tập Đại hội đồng khi cần thiết;
.Trình Đại hội đồng báo cáo thẩm tra các bảng tổng kết năm tài chính cuả
công ty;
. Báo cáo về sự kiện tài chính bất thường xảy ra về những ưu khuyết điểm
trong quản lý tài chính cuả HĐQT.
Các kiểm soát viên chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng và không được kiêm
nhiệm là thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc là người có liên quan trực hệ ba đời với
họ.
Như vậy tổ chức công ty có sự phân công các chức năng cụ thể cho từng cơ
quan khác nhau, giám sát lẫn nhau trong mọi công việc.
- Thuận lợi khó khăn của công ty cổ phần
+ Thuận lợi:
13
. Trách nhiệm pháp lý có giới hạn: trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn
ở số tiến đầu tư của họ.
. Công ty cổ phần có thể tồn tại ổn định và lâu bền
. Tính chất ổn định, lâu bền, sự thừa nhận hợp pháp, khả năng chuyển
nhượng các cổ phần và trách nhiệm hữu hạn, tất cả cộng lại, có nghĩa là nhà đầu tư
có thể đầu tư mà không sợ gây nguy hiểm cho những tài sản cá nhân khác và có sự
đảm bảo trong một chừng mực nào đo giá trị vốn đầu tư sẽ tăng lên sau mỗi năm.
Điều này đã tạo khả năng cho hầu hết các công ty cổ phần tăng vốn tương đối dễ
dàng.
. Được chuyển nhượng quyền sở hữu.
Các cổ phần hay quyền sở hữu công ty có thể được chuyển nhượng dễ dàng,
chúng được ghi vào danh mục chuyển nhượng tại Sở giao dịch chứng khoán và có
thể mua hay bán trong các phiên mở cửa một cách nhanh chóng. Vì vậy, các cổ
đông có thể duy trì tính thanh khoản của cổ phiếu và có thể chuyển nhượng các cổ
phiếu một cách thuận tiện khi họ cần tiền mặt.
+ Khó khăn:
. Công ty cổ phần phải chấp hành các chế độ kiểm tra và báo cáo chặt chẽ.
. Khó giữ bí mật: vì lợi nhuận của các cổ đông và để thu hút các nhà đầu tư
tiềm tàng, công ty thường phải tiết lộ những tin tức tài chính quan trọng, những
thông tin này có thể bị đối thủ cạnh tranh khai thác.
. Phía các cổ đông thường thiếu quan tâm đúng mức, rất nhiều cổ đông chỉ lo
nghĩ đến lãi cổ phần hàng năm và ít hay không quan tâm đến công việc của công ty.
Sự quan tâm đến lãi cổ phần này đã làm cho một số ban lãnh đạo chỉ nghĩ đến mục
tiêu trước mắt chứ không phải thành đạt lâu dài. Với nhiệm kỳ hữu hạn, ban lãnh
đạo có thể chỉ muốn bảo toàn hay tăng lãi cổ phần để nâng cao uy tín của bản thân
mình.
14
. Công ty cổ phần bị đánh thuế hai lần. Lần thứ nhất thuế đánh vào công ty.
Sau đó, khi lợi nhuận được chia, nó lại phải chịu thuế đánh vào thu nhập cá nhân
của từng cổ đông.
2.3.1.3. Doanh nghiệp Nhà nước:
a/ Khái niệm: Điều1 Luật DNNN được Quốc hội thông qua ngày 20.4.1995
đã nêu: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức
quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện mục tiêu
kinh tế xã hội Nhà nước quy định. Doanh nghiệp có tư cách hợp pháp có cách pháp
nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh
doanh
b/ Đặc điểm.
Với nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội và điều tiết vĩ mô trong
nền kinh tế thị trường đặt ra nhu cầu khách quan về sự hình thành và tồn tại các
DNNN. Quyền sở hữu tư liệu sản xuất thuộc về Nhà nước, đó là đặc điểm thứ nhất
phân biệt DNNN với các doanh nghiệp khác, đồng thời hoạt động kinh doanh là
đặc điểm phân biệt DNNN với các tổ chức, cơ quan khác của Chính phủ. DNNN
được phân biệt các loại hình doanh nghiệp khác bởi các đặc điểm sau đây: (bảng
1.1)
Bảng 1.1: So sánh DNNN với các loại hình DN khác
Doanh nghiệp nhà nước Các loại hình DN
khác
-Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành
lập, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đảm bảo tính
định hướng XHCN
- Cơ quan Nhà nước
cho phép thành lập trên
cơ sở đăng ký kinh
doanh của các chủ thể
kinh doanh
-Tài sản là một bộ phận của tài sản Nhà nước, thuộc - Chủ thể kinh doanh là
15
thuộc sở hữu của Nhà nước (vì DNNN do Nhà nước
đầu tư vốn để thành lập). DNNN không có quyền sở
hữu đối với tài sản mà chỉ là người quản lý kinh doanh
trên số tài sản của Nhà nước (không có quyền sở hữu
nhưng có quyền chiếm hữu, định đoạt và sử dụng)
chủ sở hữu đối với tài
sản kinh doanh của họ
- DNNN do Nhà nước tổ chức Bộ máy quản lý của
doanh nghiệp Nhà nước bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt
của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, qui hoạch, kế
hoạch...
c/ Thành lập và tổ chức sắp xếp lại DNNN:
Để thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Quyết định 388/HĐBT về
thành lập lại các DNNN là biện pháp đầu tiên thực hiện xắp xếp lại các DNNN.
Biện pháp thứ hai, tiến hành cổ phần hóa các DNNN. Mục đích của cổ phần
hóa là nâng cao hiệu quả họat động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Đảng và Nhà nước còn chủ
trương chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn. Việc
chuyển doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang họat động theo cơ chế công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần và bổ sung hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn chỉ có một sáng lập viên để áp dụng đối với doanh nghiệp kinh
doanh 100% vốn nhà nước thực chất là nội dung chủ yếu của công ty hóa.
Công ty hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm xác lập cơ chế phát huy động lực
lao động và quản lý doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở phát huy quyền và trách
nhiệm của các doanh nghiệp có phần vốn nhà nước và tinh thần tích cực của người
lao động tại doanh nghiệp nhà nước; bảo đảm sự công bằng tương đối giữa người
lao động trong doanh nghiệp nhà nước với người lao động trong các hợp tác xã cổ
phần, doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa; nâng cao hiệu quả quản lý của nhà
nước đối với các doanh nghiệp nhà nước.
16
Biện pháp thứ ba, là hình thành các tổ chức kinh tế mạnh đủ sức cạnh tranh,
hình thành những ngành kinh tế kỹ thuật, đảm bảo thống nhất cân đối sản xuất,
nhập khẩu, tiêu dùng, ngành hàng trên phạm vi cả nước, đóng vai trò quan trọng
trong các cân đối xuất nhập khẩu, bảo đảm vật tư hàng tiêu dùng chủ yếu, góp phần
ổn định giá cả thị trường.
Các DNNN đang chiếm giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước
về sự tham gia đóng góp và vai trò trong quản lý của nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN. Mô hình DNNN đang tiếp tục được nghiên cứu cải tiến để hoạt
động ngày càng có hiệu quả cao hơn, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch
vụ trên thị trường, giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
2.3.1.4. Các loại hình tổ chức kinh doanh khác (Hợp tác xã )
a/ Khái niệm và đặc điểm:
- Khái niệm: HTX là loại hình kinh tế tập thể, do những người lao động và
các tổ chức có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp
nhau thực hiện hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, và cải
thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội
- Đặc điểm: HTX vừa là tổ chức kinh tế vừa là tổ chức xã hội:
+ Là một tổ chức kinh tế , HTX là một doanh nghiệp được thành lập nhằm
phát triển sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, bảo đảm lợi ích của người lao động của
tập thể và của xã hội.
+ Là một tổ chức xã hội, HTX là nơi người lao động nương tựa và gíup đỡ
lẫn nhau trong sản suất cũng như trong đời sống vật chất và tinh thần.
b/ Nguyên tắc hoạt động của hợp tác xã
Hợp tác xã tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc:
+ Tự nguyện gia nhập và ra khỏi HTX.
+ Tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi.
+ Quản lý dân chủ và bình đẳng.
17
+ Phân phối đảm bảo lợi ích xã viên và phát triển của HTX.
+ Hợp tác và phát triển cộng đồng
c/ Vai trò cuả kinh tế hợp tác và HTX.
Kinh tế hợp tác (KTHT) và HTX là nhu cầu tất yếu khách quan trong quá
trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ
chức và phát triển KTHT và HTX không chỉ giúp những người sản xuất nhỏ có đủ
sức cạnh tranh, chống lại sự chèn ép của các doanh nghiệp lớn, mà về lâu dài Đảng
ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế
HTX là một bộ phận quan trọng cùng với kinh tế Nhà nước dần trở thành nền tảng
của nền kinh tế đó cũng là nền tảng chính trị-xã hội của đất nước để đạt mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
2.3.2. Phân loại doanh nghiệp căn cứ vào quy mô vốn và lao động của doanh
nghiệp
Thông thường khi phân loại doanh nghiệp căn cứ vào quy mô, người ta
thường căn cứ vào các chỉ tiêu đánh giá quy mô như: Giá trị tổng sản lượng, tổng
số vốn, tổng doanh thu, số lượng lao động, mức lãi một năm.
Như vậy, căn cứ vào quy mô vốn và lao động thì doanh nghiệp được chia
làm ba loại là doanh nghiệp có quy mô lớn, doanh nghiệp có quy mô vừa và doanh
nghiệp có quy mô nhỏ.
- Doanh nghiệp quy mô lớn ( dạng tổng công ty )
+ Về vốn ( V) có từ 100 tỷ VNĐ trở lên (V ≥ 100 tỷ VND)
+ Về lao động ( L) có từ 500 lao động trở lên (L ≥ 100 lao động)
- DN quy mô vừa
+ Về vốn có từ 1 tỷ đến dưới 100 tỷ VND (1 tỷ VND ≤ V < 100 tỷ VND)
+ Về lao động có từ 10 đến dưới 500 lao động (10 L ≤ L < 500 L)
- DN quy mô nhỏ
+ Về vốn dưới 1 tỷ VND và lớn hơn vốn pháp định (Vốn Pháp định ≤ V < 1
tỷ VND)
18
+ Về lao động từ 1 đến dưới 10 người (1L ≤ L < 10 L)
Tuy nhiên, ở các nước khác nhau lại có các chỉ tiêu đánh giá khác nhau. Ví
dụ như ở Mỹ, chỉ tiêu chính để đánh giá quy mô doanh nghiệp là mức lợi nhuận
hàng năm (khoảng 50.000 USD đến 150.000 USD được coi là doanh nghiệp nhỏ).
Tập đoàn là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu đang được thí điểm thành lập ở
nước ta theo quyết định số 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng chính phủ gồm
nhiều doanh nghiệp liên kết với nhau để tạo ra thế mạnh chung trong việc làm ăn
với đối tác. Các tập đoàn được hình thành dưới nhiều hình thức đa dạng: các doanh
nghiệp trên cùng một địa bàn, các doanh nghiệp có cùng ngành nghề.
2.3.3. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân.
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp được phân thành các loại:
- Doanh nghiệp nông nghiệp: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp, hướng vào việc sản xuất ra những sản phẩm là cây, con. Hoạt
động sản xuất kinh doanh của những doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện tự nhiên.
- Doanh nghiệp công nghiệp: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực công nghiệp, nhằm tạo ra những sản phẩm bằng cách sử dụng những thiết bị
máy móc để khai thác hoặc chế biến nguyên vật liệu thành thành phẩm. Trong công
nghiệp có thể chia ra: công nghiệp xây dựng, công nghiệp chế tạo, công nghiệp
điện tử v.v...
- Doanh nghiệp thương mại: là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
thương mại, hướng vào việc khai thác các dịch vụ trong khâu phân phối hàng hóa
cho người tiêu dùng tức là thực hiện những dịch vụ mua vào và bán ra để kiếm lời..
Doanh nghiệp thương mại có thể tổ chức dưới hình thức buôn bán sỉ hoặc buôn bán
lẻ và hoạt động của nó có thể hướng vào xuất nhập khẩu.
- Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế,
lĩnh vực dịch vụ càng được phát triển đa dạng, những doanh nghiệp trong ngành
19
dịch vụ đã không ngừng phát triển nhanh chóng về mặt số lượng và doanh thu mà
còn ở tính đa dạng và phong phú của lĩnh vực này như: ngân hàng, tài chính, bảo
hiểm, bưu chính viễn thông, vận tải, du lịch, khách sạn, y tế v.v... .
III. CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
3.1. Các yêu cầu chủ yếu của tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp
Trong phạm vi từng doanh nghiệp, việc tổ chức bộ máy quản trị doanh
nghiệp phải đáp ứng được các yêu cầu chủ yếu sau:
- Bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ của doanh nghiệp, phải thực hiện đầy
đủ, toàn diện các chức năng quản lý doanh nghiệp.
- Phải bảo đảm thực hiện nghiêm túc chế độ một thủ trưởng, chế độ trách
nhiệm cá nhân trên cơ sở đảm bảo và phát huy quyền làm chủ tập thể lao động
trong doanh nghịêp.
- Phải phù hợp với quy mô sản xuất, thích ứng với những đặc điểm kinh tế
kỹ thuật của doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp quy mô sản xuất lớn, công tác của các phòng chức
năng được chuyên môn hoá sâu hơn, do đó cần thiết phải tổ chức nhiều phòng chức
năng hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đặc điểm kinh tế – kỹ thuật như loại hình sản xuất, tính chất công nghệ, trình
độ tự chủ sản xuất kinh doanh đều được xem là những căn cứ để xây dựng bộ
máy quản trị doanh nghiệp.
- Phải đảm bảo yêu cầu vừa tinh giản, vừa vững mạnh trong bộ máy quản lý.
Một bộ máy quản trị doanh nghiệp được coi là tinh giản khi số cấp quản trị,
số bộ phận quản trị doanh nghiệp ít nhất, tỷ lệ giữa nhân viên quản trị so với tổng
số công nhân viên chức nhỏ nhất mà vẫn hoàn thành đầy đủ các chức năng quản trị.
Nó được coi là vững mạnh khi những quyết định của nó được chuẩn bị một
cách chu đáo, có cơ sở khoa học, sát với thực tế sản xuất; khi những quyết định ấy
được mọi bộ phận, mọi người chấp hành với tinh thần kỷ luật nghiêm khắc và ý
thức tự giác đầy đủ.
20
Thực hiện đầy đủ những yêu cầu nói trên sẽ tạo nên hiệu lực và quyền uy của
bộ máy quản trị doanh nghiệp.
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức doanh nghiệp
Không một yếu tố riêng lẻ nào có thể quyết định cơ cấu của một tổ chức.
Ngược lại, cơ cấu tổ chức chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố thuộc về môi trường
kinh doanh và bên ngoài tổ chức, với mức độ tác động thay đổi theo từng trường
hợp, có thể kể đến các yếu tố cơ bản sau đây:
3.2.1. Chiến lược
Chiến lược và cơ cấu tổ chức là hai mặt không thể tách rời trong quản trị
hiện đại. Bất cứ chiến lược mới nào cũng được lựa chọn trên cớ sở phân tích: (1)
các cơ hội và sự đe doạ của môi trường và (2) những điểm mạnh và điểm yếu của
tổ chức trong đó có cơ cấu tổ chức đang tồn tại. Ngược lại, là công cụ để thực hiện
các mục tiêu chiến lược, cơ cấu tổ chức sẽ phải được thay đổi khi có sự thay đổi
chiến lược. Động lực khiến các tổ chức phải thay đổi cơ cấu là sự kém hiệu quả của
những thuộc tính cũ trong việc thực hiện chiến lược. Các nghiên cứu cho thấy quá
trình phát triển của một tổ chức để đảm bảo sự tương thích với chiến lược thường
trải qua các bước sau:
- Xây dựng chiến lược mới.
- Phát sinh các vấn đề quản trị
- Cơ cấu tổ chức mới, thích hợp hơn được đề xuất và triển khai.
- Đạt được thành tích mong đợi.
Tuy sự thay đổi về chiến lược không phải bao giờ cũng bắt buộc phải có sự
thay đổi về cơ cấu tổ chức (như một số doanh nghiệp có thể tăng giá bán để bù dắp
sự kém hiệu quả), các nghiên cứu nói chung ủng hộ ý tưởng rằng cơ cấu tổ chức
phải đi theo chiến lược.
Có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về sự phụ thuộc của cơ cấu tổ chức vào
chiến lược. Các nghiên cứu trong những năm gần đây cho thấy kết quả mối liên hệ
giữa các loại hình đa dạng hoá hoạt động với cơ cấu tổ chức như sau:
21
Chiến lược Cơ cấu tổ chức
- Kinh doanh đơn ngành nghề - Chức năng
- Đa dạng hoạt động dọc theo dây
chuyền sản xuất
- Chức năng với các bộ phận phụ trợ vận
hành như những đơn vị lợi ích
- Đa dạng hoá các ngành nghề có mối
liên hệ rất chặt chẽ
- Đơn vị chiến lược
- Đa dạng hoá các ngành nghề có mối
liên hệ không chặt chẽ
- Cơ cấu hỗn hợp với nhiều phương thức
tổ chức áp dụng cụ thể cho từng bộ phận
- Đa dạng hoá các hoạt động độc lập - Công ty mẹ nắm giữ cổ phần (Holding
company)
Bảng 1.2: Mối quan hệ giữa chiến lược và cơ cấu tổ chức
3.2.2. Qui mô và mức độ phức tạp trong hoạt động của tổ chức
Các nghiên cứu đã cho thấy rằng rằng qui mô và mức độ phức tạp trong các
hoạt động của tổ chức có ảnh hưởng lớn tới cơ cấu tổ chức. Tổ chức có qui mô lớn,
thực hiện những hoạt động phức tạp thường có mức độ chuyên môn hóa, tiêu chuẩn
hoá, hình thức hoá cao hơn, nhưng lại ít tập trung hơn các tổ chức nhỏ, thực hiện
những hoạt động không quá phức tạp.
3.2.3. Công nghệ
Tính chất và mức độ phức tạp của công nghệ mà tổ chức sử dụng có thể ảnh
hưởng đến cơ cấu tổ chức. Ví dụ, các cơ cấu tổ chức chú trọng đến công nghệ cao
thường có tầm quản trị thấp. Cơ cấu phải được bố trí sao cho tăng cường được khả
năng thích nghi của tổ chức trước sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ. Đáng tiếc
là cơ cấu tổ chức thường đưcsau các nhu cầu công nghệ, gây ra sự chậm trễ trong
việc khai thác đầy đủ công nghệ mới. Các tổ chức khai thác công nghệ mới thường
có xu hướng sử dụng: (1) các cán bộ quản trị cấp cao có học học vấn và kinh
nghiệm về kỹ thuật, (2) các cán bộ quản trị có chủ trương đầu tư cho các dự án
hướng vào việc hậu thuẫn và duy trì vị trí dẫn đầu của tổ chức về mặt công nghệ,
(3) cơ cấu tổ chức phù hợp với hệ thống công nghệ và đảm bảo sự điều phối một
22
cách chặt chẽ trong việc ra các quyết định liên quan đến hoạt động chính của tổ
chức và công nghệ.
3.2.4. Thái độ của lãnh đạo cấp cao và năng lực đội ngũ nhân lực
Thái độ của lãnh đạo cấp cao có thể tác động đến cơ cấu tổ chức. Các cán bộ
quản trị theo phương thức truyền thống thường thích sử dụng những hình thức tổ
chức điển hình như: tổ chức theo chức năng với hệ thống thứ bậc. Họ ít khi vận
dụng các hình thức tổ chức theo ma trận hay mạng lưới. Hướng tới sự kiểm soát tập
trung, họ cũng không muốn sử dụng các mô hình tổ chức mang tính phân tán với
các đơn vị chiến lược.
Khi lựa chọn mô hình tổ chức cũng cần xem xét đến đội ngũ công nhân viên.
Nhân lực có trình độ, kỹ năng cao thường hướng tới các mô hình quản trị mở. Các
nhân viên cấp thấp và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao thường thích mô hình tổ
chức có nhiều tổ đội, bộ phận được chuyên môn hóa như tổ chức theo chức năng,
vì các mô hình như vậy có sự phân định nhiệm vụ rõ ràng hơn và tạo cơ hội để liên
kết những đối tượng có chuyên môn tương đồng.
3.2.5. Môi trường
Những tính chất của môi trường như tính tích cực, tính phức tạp và mức độ
thay đổi có ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức. Trong điều kiện môi trường phong phú
về nguồn lực, đồng nhất, tập trung và ổn định, tổ chức thường có cơ cấu cơ học,
trong đó việc ra quyết định mang tính tập trung với những chỉ thị, nguyên tắc, thể
lệ cứng rắn vẫn có thể mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, những tổ chức muốn
thành công trong điều kiện môi trường khan hiếm nguồn lực, đa dạng, phân tán và
thay đổi nhanh chóng thường phải xây dựng cơ cấu tổ chức với các mối liên hệ hữu
cơ, trong đó việc ra quyết định mang tính chất phi tập trung với các thể lệ mềm
mỏng, các bộ phận liên kết chặt chẽ với nhau và các tổ đội đa chức năng.
3.3. Các hệ thống tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp
3.3.1. Cơ cấu tổ chức quản trị không ổn định
23
Đây là một loại cơ cấu tổ chức quản trị không có mô hình cụ thể. Cơ cấu
không ổn định dựa vào cách tiếp cận theo hoàn cảnh, cách tiếp cận ngẫu nhiên
(Contingency Approach).
Cách tiếp cận này xuất phát từ quan điểm: không có một cơ cấu tổ chức tối
ưu cho một doanh nghiệp. Cách tiếp cận này cho rằng, để xây dựng cơ cấu tổ chức
quản trị phù hợp cho một doanh nghiệp phụ thuộc vào: công nghệ, tính ổn định của
môi trường và các nhân tố động khác. Theo cách tiếp cận này, các biến ảnh hưởng
tới hình thành cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp là:
- Chiến lược của doanh nghiệp ( Strategy)
- Mục tiêu của doanh nghiệp ( Objectives)
- Tính ổn định của môi trường ( Stability of environment)
- Tình hình công nghệ (Technoloy involed)
- Môi trường văn hoá ( National culture)
- Sự khác biệt giữa các bộ phậncủa doanh nghiệp ( Diferences in subunits of
Organisation).
- Qui mô doanh nghiệp ( Size of Organiation)
- Phương pháp và kiểu quản trị ( Management approach & Style)
- Đặc điểm của lực lượng quản trị ( Characteristics of Work Force)
Để xây dựng, hình thành cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp trước hết phải
đánh giá các biến này, sau đó mới lựa chọn tìm kiếm một mô hình phù hợp. Tuy
nhiên, các biến này là động hay thay đổi nên phải có những phân tích định kỳ về
các biến và đánh giá xem cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp có phù hợp hay
không.
3.3.2. Cơ cấu trực tuyến
Loại cơ cấu này có đặc điểm cơ bản là mối quan hệ giữa các nhân viên trong
tổ chức được thực hiện theo một đường thẳng: người thừa hành chỉ nhận và thi
24
hành mẹnh lệnh của người phụ trách cấp trên trực tiếp. Người phụ trách chịu trách
nhiệm hoàn toàn về kết quả công việc của những người dưới quyền mình. Kiểu cơ
cấu này thích hợp với chế độ một thủ trưởng, tăng cường trách nhiệm cá nhân,
tránh được tình trạng người thừa hành phải thi hành những chỉ thị khác nhau, thậm
chí mâu thuẫn với nhau của người phụ trách.
Tuy nhiên, kiểu cơ cấu này có nhược điểm: mỗi thủ trưởng phải có kiến thức
toàn diện, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Mặt khác, nó không tận dụng được các
chuyên gia có trình độ cao về từng chức năng quản trị.
Trong thực tế, đến nay kiểu cơ cấu tổ chức này ít được sử dụng, nếu có thì
chỉ trong phạm vi hẹp (ngành, tổ đội sản xuất).
3.3.3. Cơ cấu chức năng
Cơ cấu này do Frederick W. Taylor đề xướng và áp dụng trong chế độ đốc
công chức năng.
Mở rộng ra trong phạm vi toàn doanh nghiệp thì kiểu cơ cấu này cho phép
cán bộ phụ trách của phòng chức năng có quyền ra các mệnh lệnh về các vấn đề có
liên quan đến chuyên môn của họ cho các phân xưởng, các bộ phận sản xuất. Ưu
điểm của kiểu cơ cấu này là thu hút được các chuyên gia vào công tác lãnh đạo,
giải quyết các vấn đề chuyên môn một cách thành thạo hơn, đồng thời giảm bớt
gánh nặng cho cán bộ chỉ huy chung của doanh nghiệp. Nhược điểm của cơ cấu
này là vi phạm chế độ một thủ trưởng, dễ sinh ra tình trạng thiếu trách nhiệm rõ
ràng, thiếu kỷ luật chặt chẽ.
3.3.4. Cơ cấu trực tuyến-chức năng
Là một kiểu cơ cấu kết hợp hai kiểu đã trình bày ở trên. Theo kiểu này,
người thủ trưởng được giúp sức của các phòng chức năng, các chuyên gia, các hội
đồng tư vấn trong việc suy nghĩ, nghiên cứu, bàn bạc tìm giải pháp tối ưu cho
những vấn đề phức tạp. Tuy nhiên, quyền quyết định những vấn đề ấy vẫn thuộc về
thủ trưởng.
25
Những quản trị quản lý do các phòng chức năng nghiên cứu, đề xuất khi
được thủ trưởng thông qua, biến thành mệnh lệnh được truyền đạt từ trên xuống
dưới theo tuyến đã qui định.
Các phòng chức năng có trách nhiệm tham mưu cho toàn bộ hệ thống trực
tuyến. Đặc biệt, cần nhấn mạnh rằng: các phòng chức năng không có quyền ra
mệnh lệnh cho các phân xưởng, các bộ phận sản xuất.
3.3.5. Cơ cấu tổ chức quản trị phi hình thể:
Trong các nhóm nhân viên có những người nổi bật lên không phải do tổ chức
chỉ định (không ràng buộc về mặt tổ chức). Họ được anh em suy tôn coi là thủ lĩnh
và ý kiến của họ có ảnh hưởng rất lớn đến các nhóm nhân viên. Nhà kinh doanh
cần phát hiện ra những người này và tác động vào họ, nhằm thông qua họ, lôi cuốn
được những nhóm nhân viên làm việc có hiệu quả hơn.
3.4. Xây dựng bộ máy quản trị doanh nghiệp
Trong nhiều năm qua, Nhà nước ta luôn coi trọng việc hoàn thiện tổ chức bộ
máy quản trị doanh nghiệp, coi vấn đề này là một trong những nội dung chủ yếu
của đổi mới quản trị doanh nghiệp.
Sau đợt thí điểm cải tiến quản lý xí nghiệp đầu những năm 70, một số quy
định mới đã được đưa vào cuộc sống thực tiễn như: hình thành chức danh kế toán
trưởng vừa là trợ thủ của giám đốc, vừa là người đại diện cho cơ quan tài chính cấp
trên; chuyển công tác thống kê sang phòng tài chính – kế toán; sắp xếp lại các
phòng chức năng; thu gọn đầu mối, giảm bớt cấp trung gian không cần thiết
Đến nay, cùng với đường lối phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần đi
đôi với chủ trương mở rộng quyền tự chủ sản xuất – kinh doanh của đơn vị kinh tế
cơ sở, cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp cần được đa dạng hoá cho phù hợp với
cơ cấu sở hữu, với quy mô và trình độ kỹ thuật của từng loại hình doanh nghiệp.
3.4.1. Những yêu cầu của tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp
Trong phạm vi từng doanh nghiệp, việc tổ chức bộ máy quản trị doanh
nghiệp phải đáp ứng được các yêu cầu chủ yếu sau:
26
- Bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ của doanh nghiệp, phải thực hiện đầy
đủ, toàn diện các chức năng quản lý doanh nghiệp.
- Phải bảo đảm thực hiện nghiêm túc chế độ một thủ trưởng, chế độ trách
nhiệm cá nhân trên cơ sở đảm bảo và phát huy quyền làm chủ tập thể lao động
trong doanh nghịêp.
- Phải phù hợp với quy mô sản xuất , thích ứng với những đặc điểm kinh tế
kỹ thuật của doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp quy mô sản xuất lớn, công tác của các phòng chức
năng được chuyên môn hoá sâu hơn, do đó cần thiết phải tổ chức nhiều phòng chức
năng hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đặc điểm kinh tế – kỹ thuật như loại hình sản xuất, tính chất công nghệ, trình
độ tự chủ sản xuất kinh doanh đều được xem là những căn cứ để xây dựng bộ
máy quản trị doanh nghiệp.
- Phải đảm bảo yêu cầu vừa tinh giản, vừa vững mạnh trong bộ máy quản lý.
Một bộ máy quản trị doanh nghiệp được coi là tinh giản khi số cấp quản trị,
số bộ phận quản trị doanh nghiệp ít nhất, tỷ lệ giữa nhân viên quản trị so với tổng
số công nhân viên chức nhỏ nhất mà vẫn hoàn thành đầy đủ các chức năng quản trị.
Nó được coi là vững mạnh khi những quyết định của nó được chuẩn bị một
cách chu đáo, có cơ sở khoa học, sát với thực tế sản xuất; khi những quyết định ấy
được mọi bộ phận, mọi người chấp hành với tinh thần kỷ luật nghiêm khắc và ý
thức tự giác đầy đủ.
Thực hiện đầy đủ những yêu cầu nói trên sẽ tạo nên hiệu lực và quyền uy của
bộ máy quản trị doanh nghiệp.
3.4.2. Phân công trong bộ máy quản trị điều hành doanh nghiệp
Doanh nghiệp hiện đại đòi hỏi một sự chỉ huy sản xuất và quản trị kinh
doanh theo một ý chí thống nhất tuyệt đối, đòi hỏi sự phục tùng kỷ luật hết sức
nghiêm ngặt, sự điều khiển cả bộ máy quản trị theo những nguyên tắc thống nhất từ
trên xuống dưới.
27
- Giám đốc doanh nghiệp là người được giao trách nhiệm quản trị doanh
nghiệp, là người chỉ huy cao nhất trong doanh nghiệp, có nhiệm vụ quản lý toàn
diện, chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động sản xuất, kỹ thuật, kinh doanh và đời
sống trong doanh nghiệp.
- Để có thời gian tập trung vào những vấn đề lớn, có tính chất chiến lược,
giám đốc có thể giao quyền cho phó giám đốc để chỉ huy sản xuất và kỹ thuật.
Phó giám đốc phụ trách sản xuất có trách nhiệm tổ chức và chỉ huy quá trình
sản xuất hàng ngày từ khâu chuẩn bị sản xuất đến bố trí, điều khiển người lao động,
tổ chức cấp phát vật tư. Phó giám đốc trực tiếp chỉ huy các phân xưởng (hoặc các
ngành trong trường hợp doanh nghiệp không có cấp phân xưởng).
Trong tình hình hiện nay, khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp càng có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy cần có một phó
giám đốc phụ trách kinh doanh. Phó giám đốc này chủ yếu phụ trách mảng đối
ngoại của doanh nghiệp từ việc hiệp tác sản xuất, liên doanh liên kết, đến công tác
mua vật tư, tổ chức tiêu thụ sản phẩm hay nói cách khác là tổ chức các hoạt động
marketing của doanh nghiệp.
- Toàn bộ hoạt động tài chính – kế toán theo quy định hiện nay được giao
cho kế toán trưởng, có vị trí như một phó giám đốc.
Tuỳ theo quy mô và đặc điểm cụ thể của từng doanh nghiệp mà bố trí nhiều
hay ít phó giám đốc, nhưng ba mảng hoạt động trên không thể thiếu người chuyên
trách để giúp giám đốc trong việc chỉ huy và điều hành sản xuất – kinh doanh.
Một vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn là trong việc phân công phụ
trách cần quy định giới hạn tối đa số lượng các phòng chức năng, bộ phận sản xuất
trực thuộc một chức danh quản lý. Bởi lẽ giữa những người tham gia quá trình quản
lý có rất nhiều các mối quan hệ tác động đến nhau, quy định lẫn nhau. Khi số lượng
bộ phận (hoặc nhân viên) trực thuộc một cán bộ quản lý được tăng lên không phải
theo cấp số cộng mà là theo cấp số nhân.
28
Theo một số công trình nghiên cứu về quản lý của các nước tư bản thì trong
hoạt động lao động chân tay, một người có thể phụ trách 25 đến 30 người, còn trái
lại trong lao động quản trị nên phụ trách từ 6 đến 8 bộ phận khác nhau.
3.4.3. Tổ chức các phòng chức năng
Các phòng chức năng là những tổ chức bao gồm cán bộ, nhân viên kinh tế,
kỹ thuật, hành chínhđược phân công chuyên môn hoá theo chức năng quản trị, có
nhiệm vụ giúp giám đốc và các phó giám đốc, chuẩn bị các quyết định, theo dõi,
hướng dẫn các phân xưởng, các bộ phận sản xuất kinh doanh cũng như những cán
bộ nhân viên cấp dưới thực hiện đúng đắn, kịp thời các quyết định quản lý.
Trách nhiệm chung của các phòng chức năng là vừa phải hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, vừa phải phối hợp chặt chẽ với các phòng khác nhằm đảm bảo
cho tất cả những lĩnh vực công tác của doanh nghiệp được tiến hành ăn khớp, đồng
bộ và nhịp nhàng.
Các phòng chức năng không có quyền trực tiếp chỉ huy các phân xưởng, các
bộ phận sản xuất.
Trong tình hình hiện nay, khi mà quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp được mở rộng, cơ chế quản lý kinh tế nói chung, cơ chế quản trị nói
riêng đã đổi mới, doanh nghiệp có toàn quyền tổ chức các phòng chức năng theo
hướng chuyên tinh, gọn nhẹ. Đồng thời phải hết sức coi trọng những bộ phận có
quan hệ trực tiếp đến hoạt động kinh doanh, đến công tác nghiên cứu đổi mới sản
phẩm, đổi mới công nghệ, nghiên cứu thị trường, xác định giá cả sản phẩm
Việc tổ chức các phòng chức năng cần tiến hành theo các bước sau:
- Phân tích sự phù hợp giữa chức năng và bộ phận quản trị
Tốt nhất là mỗi chức năng quản trị nên do một phòng phụ trách trọn vẹn.
Song do số lượng các phòng chức năng phụ thuộc và quy mô, đặc điểm kinh tế, kỹ
thuật của từng doanh nghiệp nên có trường hợp phải ghép vài ba chức năng có liên
quan mật thiết với nhau, thuộc cùng lĩnh vực hoạt động vào một phòng. Như vậy sẽ
thuận lợi cho việc bố trí cán bộ phụ trách.
29
- Tiến hành lập sơ đồ tổ chức, nhằm mô hình hoá mối quan hệ giữa các
phòng chức năng với giám đốc và các phó giám đốc. Đồng thời phải ghi rõ những
chức năng mỗi phòng phụ trách nhằm khắc phục tình trạng dẫm đạp, chồng chéo
lên nhau hoặc ngược lại có chức năng không có bộ phận nào chịu trách nhiệm. Căn
cứ vào sơ đồ nói trên, từng phòng chức năng xây dựng nội quy công tác của phòng
mình nhằm xác định tỷ mỷ trách nhiệm, quyền hạn chung cho cả phòng cũng như
riêng cho từng người.
- Tính toán, xác định số lượng cán bộ, nhân viên mỗi phòng chức năng một
cách chính xác, có căn cứ khoa học, nhằm vừa đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, vừa
giảm bớt tỷ lệ nhân viên quản trị, giảm bớt chi phí quản lý.
Đây là một công việc hết sức phức tạp, đặc biệt là trong hoàn cảnh cán bộ chưa
được tiêu chuẩn hoá, việc sắp xếp, bố trí cán bộ, nhân viên quản trị trong nhiều năm
qua có nhiều bất hợp lý, để lại những hậu quả chưa thể giải quyết ngay được.
3.4.4. Bộ máy quản trị phân xưởng
- Phân xưởng là đơn vị sản xuất cơ bản trong doanh nghiệp, có thể coi phân
xưởng là một cấp quản trị, song phân xưởng không thực hiện mọi chức năng như
cấp doanh nghiệp.
Tuỳ theo yêu cầu tập trung hoá quản lý, người ta có thể phân cấp cho phân
xưởng ít hoạc nhiều chức năng. Nói chung các phân xưởng đều không thực hiện
chức năng như tuyển dụng nhân viên, tổ chức đời sống tập thể....
- Bộ máy quản trị phân xưởng cần được tổ chức phù hợp với quy mô sản
xuất, tính chất phức tạp của kỹ thuật và sản xuất sản phẩm. Mặt khác cần đảm bảo
yêu cầu chỉ đạo sản xuất, kỹ thuật của doanh nghiệp.
3.4.5. Mô hình bộ máy quản trị doanh nghiệp
- Bộ máy quản trị doanh nghiệp quy mô nhỏ
30
- Bộ máy quản trị doanh nghiệp quy mô vừa
Chú thích :
+ Giám đốc là người chỉ huy các phòng trong doanh nghiệp có nhiệm vụ
quản lý toàn diện các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm về kết
quả kinh doanh và đời sống của người lao động trong doanh nghiệp.
Giám đốc
Phó Giám đốc
Phòng Điều
Hành sản xuất
Phòng KD
Phòng TC - KT
Phòng
Nội chính
Văn phòng
Tổng hợp
Giám đốc
Phó Giám đốc
Sản xuất
Phòng điều hành
Sản xuất
Phòng khoa học
Công nghệ
Phòng TC - KT
Phòng nội chính
Phó Giám đốc
Kinh doanh
phòng
Kinh doanh
31
+ Phó giám đốc sản xuất: được giám đốc giao quyền chỉ huy quá trình sản
xuất hàng ngày từ khâu chuẩn bị sản xuất, tổ chức sản xuất, kiểm tra đánh giá chất
lượng sản phẩm.
+ Phó giám đốc kinh doanh: được giao quyền phụ trách kinh doanh (chủ yếu
đảm trách công tác đối ngoại trong doanh nghiệp từ khâu hợp đồng mua bán vật tư
hàng hoá, ký kết các hợp đồng, hợp tác sản xuất và liên doanh, liên kết).
+ Phòng điều hành sản xuất đảm nhiệm các khâu kế hoạch và tiến độ sản
xuất, tổ chức sản xuất, kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm.
+ Phòng khoa học công nghệ: nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, các sáng kiến cải tiến trong sản xuất.
+ Phòng tài chính kế toán: huy động vốn, sử dụng vốn, quản lý vốn, tổ chức
hạch toán, tính toán và xác định kết quả sản xuất kinh doanh, lập báo cáo tài chính
theo định kỳ và quản lý các chứng từ kế toán.
+ Phòng kinh doanh: lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, ký kết các hợp đồng
mua bán vật tư, thu thập thông tin và xử lý thông tin về thị trường hàng hoá, dịch
vụ, hoạch định chính sách giá cả sản phẩm.
+ Phòng nội chính đảm nhiệm: Các khâu tổ chức hành chính nhân sự quản trị
đời sống, y tế, quản lý cơ quan.
4. Cơ chế quản trị doanh nghiệp (Chế độ một thủ trưởng)
4.1. Thực chất của chế độ một thủ trưởng
Sau hoà bình lặp lại, ở miền Bắc năm 1954 và trong những năm 60 cơ chế
quản trị doanh nghiệp của ta được thực hiện theo nghị quyết của Bộ chính trị – Ban
chấp hành Trung ương Đảng. Nội dung cơ bản của nó là :
‘Thủ trưởng phụ trách quản lý xí nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ, công
nhân tham gia quản lý ‘
Trong quá trình thực hiện, mối quan hệ giữa người quản lý và người lãnh đạo
không được xác định rõ ràng, dẫn đến hoặc là Đảng uỷ can thiệp quá sâu vào công
việc quản lý điều hành doanh nghiệp của giám đốc, hoặc là có trường hợp buông trôi
32
lãnh đạo. Ngược lại, có trường hợp giám đốc lại quá ỷ lại vào sự lãnh đạo của Đảng
uỷ, có trường hợp lại độc đoán, không theo sự lãnh đạo của Đảng uỷ doanh nghiệp.
Từ tình hình trên, hoặc tả, hoặc hữu đều dẫn đến mất đoàn kết nội bộ, sản
xuất kinh doanh khó khăn, kém hiệu quả.
Sau nhiều năm hoàn thiện cơ chế quản lý xí nghiệp, đến tháng 11/1987, Nhà
nước đã ban hành ‘Điều lệ quản lý xí nghiệp quốc doanh’
Điều lệ đã xác định rõ hơn vai trò của Đảng, của giám đốc và tập thể những
người lao động trong doanh nghiệp theo nội dung :
‘Đảng uỷ lãnh đạo xí nghiệp, ban chấp hành công đoàn tham gia quản lý xí
nghiệp nhưng không trực tiếp quyết định các công việc thuộc thẩm quyền của Đại
hội công nhân viên chức, của hội đồng xí nghiệp và của giám đốc’
Theo điều lệ quản lý xí nghiệp công nghiệp quốc doanh lần này thì vai trò
quản lý quản lý của giám đốc, của tập thể những người lao động được đề cao.
Nhưng vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn được đề cao và đặc biệt được coi trọng.
Trong cơ chế quản lý toàn xã hội, nhiều năm nay vai trò của Đảng luôn được
khẳng định: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong phạm vi
toàn xã hội và từng doanh nghiệp.
Như vậy, cơ chế quản trị doanh nghiệp trong nhiều năm nay được xác định
trên cơ sở khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nội dung cơ chế quản trị doanh nghiệp theo quan điểm truyền thống gồm ba
bộ phận sau :
- Đảng lãnh đạo trong doanh nghiệp.
- Giám đốc phụ trách quản lý điều hành doanh nghiệp.
- Tập thể những người lao động tham gia quản lý doanh nghiệp.
Sự lãnh đạo của Đảng được trình bày ở trên.
Đổi mới cơ chế quản trị doanh nghiệp :
Các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường phải được đổi mới cho phù hợp. Đổi
mới cơ chế quản trị doanh nghiệp là vấn đề quan trọng của quản trị doanh nghiệp.
33
Đổi mới cơ chế quản trị doanh nghiệp phải dựa trên những nguyên tắc sau :
- Tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp
nhà nước. Tuy nhiên Đảng không can thiệp vào công việc chuyên môn của giám đốc.
- Nghiên cứu hình thức, nội dung tham gia quản trị doanh nghiệp của tập thể
những người lao động thông qua các tổ chức đại hội công nhân viên chức, hội đồng
xí nghiệp, Ban thanh tra công nhân nhưng tránh hình thức máy móc, không thiết
thực, không hiệu quả.
- Đề cao vai trò của bộ máy điều hành doanh nghiệp, đặc biệt vai trò, trách
nhiệm, quyền hạn, quyền lợi của giám đốc.
- Đặt hiệu quả sản xuất khinh doanh, bảo toàn, phát triển vốn là mục tiêu
hàng đầu. Phân định rõ người chủ sở hữu và người chủ quản lý trong phạm vi toàn
doanh nghiệp.
Tóm lại thực chất của chế độ một thủ trửơng trong quản trị doanh nghiệp
được trình bày tóm tắt như sau: Là quyền quyết định những vấn đề thuộc về kinh
tế, kỹ thuật, tổ chức hành chính, đời sống trong phạm vi doanh nghiệp và từng bộ
phận được trao cho một người. Người đó có nhiệm vụ quản lý toàn diện các mặt
hoạt động của đơn vị mình, được trao cho những trách nhiệm và quyền hạn nhất
định và chịu hoàn toàn trách nhiệm về những quyết định của mình. Mọi người
trong doanh nghiệp và từng bộ phận phải nghiêm chỉnh phục tùng mệnh lệnh của
thủ trưởng.
4.2. Tính tất yếu phải tiến hành chế độ một thủ trưởng
- Xuất phát từ tính biện chứng giữa tập trung và dân chủ. Trên cơ sở phát huy
tính dân chủ đối với mọi người, cần phải tập trung thống nhất quản lý vào một đầu
mối, vào một người.
- Xuất phát từ tính chất và yêu cầu của nền sản xuất công nghiệp: chính xác,
kịp thời của những quyết định.
- Xuất phát từ mối quan hệ trong phân công lao động xã hội.Phân công lao
động ngày càng sâu sắc, tất yếu dẫn đến hợp tác hoá lao động. Và bất kỳ một sự
34
trục trặc nào trong hợp tác lao động cũng dẫn đến đình trệ sản xuất, giảm hiệu quả.
Vì vậy, bất cứ sự hợp tác hoá nào cũng phải có người chỉ huy thống nhất.
4.3. Các chức danh thủ trưởng và vị trí mối quan hệ của từng chức danh
- Các chức danh thủ trưởng và vị trí từng chức danh được mô tả vắn tắt
trong biểu sau:
35
- Thủ trưởng cấp dưới phải phục tùng nghiêm chỉnh mệnh lệnh của thủ
trưởng cấp trên, trước hết là thủ trưởng cấp trên trực tiếp.
Số
TT
Chức
danh
thủ
trưởng
Vị trí từng
chức danh
Phạm vi
phát
huy tác
dụng
Người giúp
việc
thủ trưởng
Người dưới quyền
( người thừa hành
)
1
Giám đốc
Thủ trưởng
cấp cao nhất
DN
Toàn doanh
Nghiệp
Các phó
Giám đốc
Mọi người trong
DN
2
Quản đốc
Thủ trưởng
cấp cao nhất
phân xưởng
Toàn phân
xưởng
Các phó
quản đốc
Mọi người trong
phân xưởng
3
Đốc công
Thủ trưởng
cao nhất
trong
ca làm việc
Trong toàn
ca làm việc
Mọi người trong
một ca
4
Tổ trưởng
công tác
Thủ trưởng
cấp
cao nhất
trong tổ
Trong toàn
tổ
Tổ phó
Mọi người
trong tổ
5 Trưởng
các
phòng
(ban)
chức năng
Thủ trưởng
cao cấp nhất
trong phòng
(ban)
Toàn phòng
(ban)
Phó phòng
(ban)
Mọi người
trong phòng(ban)
36
- Mối quan hệ các chức danh: Thủ trưởng ở từng bộ phận có toàn quyền
quyết định những vấn đề thuộc phạm vi đơn vị mình và chịu trách nhiệm trước
giám đốc về các mặt hoạt động ở đơn vị mình phụ trách.
- Thủ trưởng mỗi cấp có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh nội quy hoạt
động ở từng cấp đã được quy định về: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan
hệ công tác.
- Tất cả các cấp phó đều là những người giúp việc cho cấp trưởng ở từng cấp
tương đương và phải chịu trách nhiệm trước thủ trưởng cấp trên trực tiếp của mình.
- Mọi người trong từng bộ phận là những người thừa hành của thủ trưởng
cấp trên, trước hết là của thủ trưởng cấp tương đương và phải phục tùng nghiêm
chỉnh mệnh lệnh của thủ trưởng.
- Giám đốc là thủ trưởng cấp trên và là thủ trưởng cấp cao nhất trong doanh
nghiệp, chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi mặt hoạt động kinh doanh, kinh tế,
chính trị, xã hội trong doanh nghiệp trước tập thể người lao động trong doanh
nghiệp và trước chủ sở hữu doanh nghiệp. Mọi người trong doanh nghiệp phải phục
tùng nghiêm chỉnh mệnh lệnh của giám đốc.
CÂU HỎI CHƯƠNG I:
1. Bản chất và đặc điểm của hệ thống kinh doanh ?
2.Trình bày khái niệm doanh nghiệp, các cách phân loại doanh nghiệp, lợi thế và
bất lợi của từng loại doanh nghiệp. Liên hệ thực tiễn các doanh nghiệp Việt Nam.
3.Nêu các loại hình doanh nghiệp phân loại theo qui mô. Phân tích lợi thế và bất
lợi của từng loại hình doanh nghiệp theo qui mô? Lợi ích của việc phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
4. Trình bày các kiểu cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp? Phân tích ưu nhược
điểm của từng kiểu cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp?
37
5. Phân tích ưu nhược điểm của các mô hình tổ chức bộ máy quản trị doanh
ngghiệp của các doanh nghiệp ứng dụng phổ biến nhất Việt Nam hiện nay.
6. Những vấn đề cơ bản trong xây dựng bộ máy quản trị của doanh nghiệp? Để
nâng cao hiệu lực của bộ máy quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam cần coi trọng giải
quyết những vấn đề gì?
38
CHƯƠNG II:
LẬP CHIẾN LƯỢC, KẾ HOẠCH TRONG QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
I. CHIẾN LƯỢC
1.1.Vai trò của lập chiến lược
Lập kế hoạch chiến lược là quá trình xác định là sao đạt được những mục
tiêu dài hạn của tổ chức với các nguồn lực có thể huy động được. Về mặt nội dung
lập kế hoạch chiến lược là quá trình xây dựng chiến lược và không ngừng hoàn
thiện bổ sung chiến lược khi cần thiết. Nói một cách khác, lập kế hoạch chiến lược
xoay quanh việc xây dựng chiến lược cho tổ chức trên cơ sở phân tích vị trí của tổ
chức trong môi trường hoạt động của nó.
Phạm trù chiến lược ngày nay đã được sử dụng rộng rãi ở nhiều lĩnh vực
khác nhau, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý Nhà nước hay quản trị doanh nghiệp.
Trong bất kỳ lĩnh vực nào, chiến lược đều là một công cụ hữu hiệu trong công tác
quản trị. Như vậy chiến lược là loại kế hoạch đặc biệt quan trọng đối với mỗi tổ
chức.
1.2. Các cấp chiến lược
Chiến lược có thể được phân chia theo ba cấp độ: cấp độ tổ chức, cấp ngành
và cấp chức năng.
1.2.1. Chiến lược cấp tổ chức
Chiến lược cấp tổ chức do bộ phận quản trị cao nhất vạch ra nhằm nắm bắt
được những mối quan tâm và hoạt động trong một tổ chức. Ở cấp này, các câu hỏi
thường được đặt ra là: Tổ chức nên hoạt động trong lĩnh vực nào? Mục tiêu và kỳ
vọng trong mỗi lĩnh vực đó? Phân bổ các nguồn lực ra sao để để đạt được những
mục tiêu đó?
Ví dụ, khi vạch ra chiến lược cấp tổ chức cho một trường đại học, ba lĩnh
vực hoạt động thường được đặt ra là là đào tạo, nghiên cứu và tư vấn. Sau đó,
người ta sẽ xem xét về việc đặt ra các mục tiêu và kỳ vọng của mỗi lĩnh vực hoạt
39
động và phân bổ các nguồn lực (đội ngũ giáo viên, nhà nghiên cứu, đội ngũ quản
trị, cơ sở trường lớp, trang thiết bị làm việc) để đạt được các mục tiêu đó.
1.2.2. Chiến lược cấp ngành
Chiến lược cấp ngành chỉ liên quan đến những mối qaun tâm và hoạt động
trong một ngành (một lĩnh vực hoạt động) của tổ chức. Các câu hỏi thường được
đặt ra ở đây là: Lĩnh vực này của tổ chức có vị trí nào trong môi trường hoạt động
của nó? Nên đưa ra những sản phẩm, dịch vụ nào? Cần hướng vào phục vụ ai?
Nguồn lực được phân bổ trong ngành đó ra sao?
Vẫn lấy ví dụ trên, lĩnh vực đào tạo sẽ có chiến lược riêng khác với lĩnh vực
nghiên cứu và tư vấn. Trong lĩnh vực đào tạo, người ta quan tâm tới vị trí của lĩnh
vực này của tổ chức trong môi trường đào tạo (cùng ngành nghề) nói chung của
thành phố, của cả nước, thậm chí của châu lục, của thế giới. Các sản phẩm cụ thể ở
đay bao gồm đào tạo đại học và đào tạo trên đại học. Ngoài ra, hình thức đào tạo có
thể là tập trung dài hạn hay tại chức hay từ xa ở mỗi bậc học và chuyên ngành. Đối
tượng của mỗi loại hình đào tạo sẽ được xác định rõ ràng và các nguồn lực của lĩnh
vực đào tạo sẽ được phân bổ một cách hợp lý giúp cho lĩnh vực đào tạo của tổ chức
có thể phát triển mạnh mẽ.
Đối với các tổ chức có nhiều lĩnh vực hoạt động, những nhà quản trị cấp cao
thường gặp khó khăn trong việc tổ chức những lĩnh vực hoạt động đó một cách
thống nhất. Một cách giải quyết vấn đề đó là tạo ra các đơn vị ngành chiến lược
(SBU). Trong tổ chức, đơn vị ngành chiến lược hoạt động tương đối độc lập với
nhau. Mỗi đơn vị ngành chiến lược có chiến lược riêng của mình, nhưng đặt trong
sự thống nhất với chiến lược tổng thể của tổ chức. Trong ví dụ trên, 3 loại chiến
lược cho lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu và tư vấn phải thống nhất và ăn khớp với
chiến lược của trường đại học.
1.2.3. Chiến lược cấp chức năng
Các chiến lược cấp chức năng như nhân sự, tài chính, marketing, nghiên cứu
và triển khai (R&D), sản xuất.... được đặt ra trong khuôn khổ một lĩnh vực hoạt
40
động của tổ chức. Các chiến lược cấp chức năng là sự chi tiết hoá cho chiến lược
cấp ngành và liên quan tới việc quản trị các hoạt động chức năng. Vì vậy, vai trò
của quản trị cấp chức năng là để hỗ trợ chiến lược cấp tổ chức và để tạo ra một lược
đồ, cách thức quản trị nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra đối với lĩnh vực chức
năng đó.
Trở lại ví dụ trên, trong lĩnh vực đào tạo, chiến lược nhân sự nhằm đưa ra
các giải pháp như bảo toàn và phát triển nguồn nhân lực cho nhu cầu sử dụng hiện
tại và trong tương lai để hỗ trợ cho chiến lược cho lĩnh vực đào tạo ở trên và để đạt
được các mục tiêu về nhân sự cụ thể. Chiến lược cấp chức năng là chiến lược cấp
thấp nhất trong một tổ chức. Đứng sau các chiến lược cấp chức năng là các kế
hoạch tác nghiệp như được thể hiện trong sơ đồ sau:
Sơ đồ: các cấp độ kế hoạch chiến lược và tác nghiệp trong một tổ chức
hoạt động trên đa lĩnh vực
1.3. Quá trình quản trị chiến lược
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hình thành quan niệm cho rằng lập kế
hoạch chiến lược và thực hiện các kế hoạch đó sẽ tạo nên một quá trình quản trị
Chiến lược cấp tổ chức
Chiến lược cấp ngành
Chiến lược cấp chức năng
Các kế hoạch tác nghiệp
41
riêng biệt- gọi là quản trị chiến lược. Từ đây, khái niệm quản trị chiến lược được
xác định hoàn chỉnh như sau: quản trị chiến lược là quá trình quản trị bao gồm việc
lập kế hoạch chiến lược và thực thi các kế hoạch đó.
Năm 1978, C. Hofer và D. Schendel đã mô tả về quản trị chiến lược với bốn
mảng công việc cơ bản. Thứ nhất là việc xác định mục tiêu. Thứ hai là hình thành
chiến lược căn cứ vào các mục tiêu đã xác định. Sau đó để thực hiện chiến lược cần
có bước tiếp theo là công việc quản lý hành chính (thể chế hoá) với các mục tiêu
được xác định cụ thể hơn. Ở giai đoạn này nhân tố chủ đạo nằm ở quá trình “ chính
trị” bên trong tổ chức và phản ứng của các cá nhân. Chính các nhân tố đó có thể
dẫn đến việc xem lại các chiến lược đã vạch ra. Công việc cuối cùng là kiểm tra
chiến lược nhằm cung cấp cho các nhà quản trị những thông tin phản hồi biểu lộ sự
không khả quan có thể làm cho việc lập kế hoạch chiến lược lại cần bắt đầu từ đầu.
Như vậy, quá trình quản trị chiến lược có thể phân làm hai giai đoạn. Giai
đoạn thứ nhất là lập kế hoạch chiến lược, bao gồm việc xác định mục tiêu và hình
thành chiến lược như C. Hofer và D. Schendel đã tách biệt. Giai đoạn thứ hai là
thực hiện chiến lược, bao gồm công việc quản lý hành chính và kiểm tra chiến
lược.
42
Sơ đồ: Quá trình quản trị chiến lược
Mục đích của việc xác định mục tiêu là chuyển hoá sứ mệnh và định hướng
của tổ chức thành cái cụ thể hơn để đo lường được kết quả hoạt động của tổ chức
trong thời kỳ ngắn hạn và dài hạn. Ngoài ra, để xác định được mục tiêu, cần căn cứ
vào các nguồn lực hiện tại và nguồn lực mà tổ chức có thể huy động trong tương
lai. Nếu không làm như vậy, các mục tiêu đưa ra có thể chỉ là sự liệt kê các mơ ước
của các nhà quản trị mà thôi.
Mục tiêu là kết quả dự kiến cho sự nỗ lực hoạt động của tổ chức. Sự cố gắng
để đạt được mục tiêu đặt ra có thể thúc đẩy những nỗ lực sáng tạo và sự thận trọng
trong những hành động. Việc xác định các mục tiêu được đặt ra với tất cả các nhà
quản trị. Mỗi bộ phận đều có các mục tiêu cụ thể đo lường kết quả hoạt động của
nó và đánh giá sự đóng góp cho việc thực hiện mục tiêu chung của tổ chức. Mặt
khác, khi mục tiêu chung được phân chia thành các mục tiêu cho từng bộ phận và
giao cho các nhà quản trị ở các cấp khác nhau, sẽ tạo ra không khí làm việc hướng
về kết quả, mỗi bộ phận đều cố gắng để đạt được những kết quả, từ đó giúp cho tổ
chức đi đúng theo định hướng đặt ra.
Xác định mục tiêu
Hình thành chiến lược
Quản lý hành chính
Kiểm soát chiến lược
Lập kế
hoạch
chiến
lược
Thực
hiện
chiến
lược
43
Hai loại mục tiêu quan trọng hàng đầu đối với tổ chức là mục tiêu tài chính
và mục tiêu chiến lược. Mục tiêu tài chính quan trọng là vì kết quả hoạt động tài
chính khả quan là điều cốt yếu đối với sự sống còn của tổ chức. Mục tiêu chiến
lược lại cần thiết ở chỗ chỉ ra định hướng phát triển nhằm giúp tổ chức khẳng định
được vị trí trong môi trường hoạt động của nó. Đối với một hãng kinh doanh, mục
tiêu chiến lược liên quan nhiều đến tình hình cạnh tranh chung của công ty, đến các
tiêu chuẩn đánh giá kết quả như tăng trưởng cao hơn mức trung bình của ngành, thị
phần tăng, vượt lên trên các đối thủ về chất lượng sản phẩm và dịch vụ cho khách
hàng, tiếng tăm của công ty được cải thiện, hiện diện hơn nữa trên thị trường thế
giới hay đi đầu về công nghệ. Các mục tiêu chiến lược không chỉ thể hiện ở các kết
quả hoạt động tài chính tốt mà còn ở việc duy trì vị trí cạnh tranh và một tương lai
dài hạn cho tổ chức.
Sau khi đã hình thành một hệ thống mục tiêu, các nhà quản trị tiếp tục suy
nghĩ về việc làm thế nào để đạt được chúng. Thực chất chiến lược chính là công cụ
quản trị để thực hiện các mục tiêu chiến lược. Nhiệm vụ hình thành chiến lược bắt
đầu với việc phân tích thực trạng bên trong và bên ngoài tổ chức để có được một
bức tranh tổng thể.
Việc thực hiện chiến lược bao gồm việc đưa chiến lược vào hoạt động để đạt
được những kết quả dự kiến đúng thời hạn. Thực hiện chiến lược liên quan trước
tiên đến công tác quản lý hành chính, động chạm nhiều đến các sự vụ bên trong tổ
chức. Công tác quản lý hành chính bao gồm các khía cạnh sau:
- Xây dựng một tổ chức có đủ khả năng thực hiện thành công chiến lược
- Xây dựng các ngân sách để phân chia nguồn lực cho các hoạt động quan
trọng đối với sự thành công của chiến lược.
- Động viên khuyến khích con người của tổ chức nhằm thu hút họ hăng hái
theo đuổi các mục tiêu, và nếu cần thiết, có thể điều chỉnh cả nhiệm vụ và hành vi
làm việc của họ để phù hợp với những đòi hỏi của việc thực hiện chiến lược.
44
- Thiết kế một cơ cấu khuyến khích khen thưởng chặt chẽ nhằm khích lệ sự
cố gắng.
- Tạo ra một môi trường làm việc hiệu quả cho việc thực hiện chiến lược.
- Ban hành một số chính sách, thủ tục nhằm hỗ trợ chiến lược.
- Phát triển một hệ thống thông tin và báo cáo để theo dõi tiến độ và kết quả.
- Áp dụng một cách thức lãnh đạo nội bộ nhằm thúc đẩy và cải thiện việc
thực hiện chiến lược.
Mục đích của quản lý hành chính là tạo ra sự ăn khớp giữa cách thức đã sử
dụng với cách thức nên làm để thực hiện chiến lược có hiệu quả. Sự ăn khớp càng
lớn, việc thực hiện chiến lược càng thuận lợi. Những khía cạnh quan trọng nhất là
sự ăn khớp giữa chiến lược với năng lực của tổ chức, giữa chiến lược với cơ cấu
khuyến khích, giữa chiến lược với các chính sách và thủ tục bên trong, giữa chiến
lược với văn hoá tổ chức.
Quản lý hành chính là nhiệm vụ tương đối phức tạp và tốn nhiều thời gian
nhất của quản trị chiến lược. Nó động chạm tới tất cả các mặt của quản trị và luôn
phải bắt đầu từ các khía cạnh ở bên trong tổ chức.
Công việc cuối cùng của quản trị chiến lược là kiểm tra chiến lược. Cũng có
thể nói rằng, kiểm tra chiến lược đôi khi đưa ra các thông tin khiến cho quá trình
quản trị chiến lược lại được bắt đầu lại từ đầu. Kiểm tra chiến lược nhằm theo dõi,
đánh giá hướng đi hiện tại của tổ chức, theo dõi những biến động ngoài môi trường
và đánh giá ảnh hưởng của những biến đọng đó đối với tổ chức trong thời kỳ ngắn
hạn và dài hạn. Có thể sự tăng trưởng hoặc sa sút đột biến trong hoạt động của tổ
chức là dấu hiệu cho thấy cần xem xét lại một số mục tiêu hay cả chiến lược.
Như vậy, quản trị chiến lược là một quá trình liên tục. Sự thay đổi của các
yếu tố bên trong và bên ngoài tổ chức là động lực cho những điều chỉnh chiến lược.
Ngoài ra, bốn bước của quản trị chiến lược được thực hiện không tách rời nhau và
trình tự thực hiện chúng không phải bao giờ cũng cứng nhắc.
II. LẬP KẾ HOẠCH
45
2.1. Hoạch định mục tiêu kinh doanh
Mỗi quản trị viên trong doanh nghiệp dù ở cấp nào, xét cho cùng chỉ thực
hiện một hoặc một số hoạt động quản trị nhất định. Tuy nhiên toàn bộ các hoạt
động đó lại đòi hỏi phải nằm trong một hệ thống chặt chẽ, liên hệ gắn bó với nhau.
Để đi sâu hoạch định một chương trình quản trị, chúng ta cần tìm hiểu xem quá
trình quản trị doanh nghiệp gồm những nội dung gì mà trước hết là chúng ta đi tìm
hiểu thế nào là hoạch định.
Hoạch định là quá trình xác định mục tiêu và những giải pháp tốt nhất để đạt
tới mục tiêu đó.
Thông thường, mục tiêu được coi như kết quả của các quyết định. Nó là sự
diễn tả một tình trạng mong muốn trong tương lai của doanh nghiệp.
2.1.1. Hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp
Việc xác định hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp được tiếp cận theo
nhiều cách:
- Theo cách tiếp cận có tính chất thứ bậc, người ta cho rằng doanh nghiệp có
các mục tiêu sau:
+ Mục tiêu bao trùm (mục tiêu chiến lược)
+ Mục tiêu trung gian (mục tiêu chiến thuật)
+ Mục tiêu điều kiện (mục tiêu tác nghiệp)
- Theo theo cách tiếp cận với thời gian, mục tiêu của doanh nghiệp gồm:
+ Mục tiêu dài hạn (từ 3 năm trở lên)
+ Mục tiêu trung hạn (từ 1- 3 năm)
+ Mục tiêu ngắn hạn (dưới 1 năm)
- Theo cách tiếp cận với nội dung của quá trình kinh doanh, mục tiêu của
doanh nghiệp gồm:
+ Mục tiêu mang tính chất tiền tệ:
• Muc tiêu tăng doanh thu
• Mục tiêu hạ giá thành sản phẩm
46
• Mục tiêu tăng lợi nhuận.
• Mục tiêu tăng khả năng chi trả.
• Mục tiêu bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh.
+ Mục tiêu không mang tính chất tiền tệ:
• Tăng tỷ trọng thị phần (Phần chiếm hữu thị phần của doanh nghiệp)
• Tăng sức mạnh uy tín của doanh nghiệp .
• Tăng năng suất và chất lượng của sản phẩm
2.1.2. Những chú ý khi hoạch định mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp
Khi hoạch định mục tiêu, doanh nghiệp cần lưu ý:
- Các yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến mục tiêu: Giá cả, lãi suất,
thị trường, chính sách thuế.
- Xác định số lượng mục tiêu phù hợp với thời kỳ kinh doanh, phân tích mối
quan hệ qua lại giữa các mục tiêu.
Ví dụ :
+ Mối quan hệ giữa doanh thu và lợi nhuận (đồng thuận)
+ Mối quan hệ giữa lợi nhuận và chi phí (đối nghịch)
+ Mối quan hệ giữa vốn kinh doanh và thị trường (tỷ trọng thị phần- xu
hướng vô can)
- Đề ra thời gian và kế hoạch cụ thể thực hiện các mục tiêu.
2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc lập kế hoạch
Lập kế hoạch không phải là một sự kiện đơn thuần có bắt đầu và có kết thúc
rõ ràng. Lập kế hoạch là một quá trình tiếp diễn phản ánh và thích ứng được với
những biến động diễn ra trong môi trường của mỗi tổ chức. Trên ý nghĩa này, lập
kế hoạch được coi là quá trình thích ứng với sự không chắc chắn bằng việc xác
định các phương án hành động để đạt được những mục tiêu cụ thể của tổ chức.
Trong quá trình hoạt động của tổ chức, các yếu tố không chắc chắn có nguồn gốc
rất đa dạng.
47
Loại yếu tố không chắc chắn thứ nhất gọi là không chắc chắn về trạng thái,
chúng liên quan đến một môi trường không thể dự đoán được.
Loại thứ hai là không chắc chắn về sự ảnh hưởng, tức là sự ảnh hưởng của
những biến đổi của môi trường là không dự đoán được.
Một loại yếu tố không chắc chắn nữa là không chắc chắn về hậu quả, tức là
không dự đoán được những hậu quả của các quyết định.
2.3. Lập kế hoạch
Một chương trình quản trị sẽ không có ý nghĩa nếu không đề cập đến việc
xây dựng kế hoạch. Sau khi đã xác định được hệ thống mục tiêu và chiến lược kinh
doanh, kế hoạch kinh doanh được coi là con đường thực hiện các mục tiêu đó.
2.3.1 Khái niệm kế hoạch
Kế hoạch là một nội dung và là một chức năng quan trọng nhất của quản lý.
Bởi lẽ, kế hoạch gắn liền với việc lựa chọn và tiến hành các chương trình hoạt
động trong tương lai của một tổ chức, của một doanh nghiệp. Kế hoạch hóa cũng là
việc lựa chọn phương pháp tiếp cận hợp lý các mục tiêu định trước. Kế hoạch là
xác định mục tiêu và quyết định cách tốt nhất để đạt được mục tiêu.
Kế hoạch bao gồm việc lựa chọn một đường lối hành động mà một công ty
hoặc cơ sở nào đó, và mọi bộ phận của nó sẽ tuân theo. Kế hoạch có nghĩa là xác
định trước phải làm gì, làm như thế nào, vào khi nào và ai sẽ làm. Việc làm kế
hoạch là bắc một nhịp cầu từ trạng thái hiện tại của ta tới chỗ mà chúng ta muốn có
trong tương lai
2.3.2 Các loại kế hoạch của doanh nghiệp
Theo các cách tiếp cận khác nhau thì có các loại kế hoạch sau:
- Theo thời gian:
+ Kế hoạch dài hạn
+ Kế hoạch trung hạn
+ Kế hoạch ngắn hạn
- Theo phương pháp lập:
48
+ Kế hoạch “ cuốn chiếu ”, tức là mỗi năm kế hoạch đều xác định cho cả thời
kỳ dài.
+ Kế hoạch “kỳ đoạn”, tức là xác định kế hoạch cho một thời kỳ sau đó mới
xác định kế hoạch cho kỳ sau.
+ Kế hoạch “hỗn hợp”
- Theo mức độ hoạt động:
+ Kế hoạch chiến lược: Là kế hoạch được hoạch định cho một thời kỳ dài
thường từ 4 năm trở lên do các quản trị gia xây dựng. Giá trị của kế hoạch mang
tính tập trung cao và rất uyển chuyển.
+ Kế hoạch chiến thuật: Được hoạch định cho thời gian từ 1 năm đến 4 năm,
là kết quả triển khai kế hoạch chiến lược của các quản trị gia lãnh đạo với các quản
trị gia điều hành. Giá trị của kế hoạch ít mang tính tập trung hơn và ít uyển chuyển
hơn.
+ Kế hoạch tác nghiệp: Được hoạch định chi tiết cho thời gian ngắn thường
dưới 1 năm. Là kết quả hoạch định của quản trị gia điều hành với các quản trị gia
thực hiện. Giá trị kế hoạch không mang tính tập trung và thường rất cứng nhắc.
Bảng 2.1 Các tính chất của kế hoạch chiến lược và kế hoạch tác nghiệp
Tính chất Kế hoạch chiến lược Kế hoạch tác nghiệp
Ảnh hưởng Toàn bộ Cục bộ
Thời gian Dài hạn Ngắn hạn
Môi trường Biến đổi Xác định
Mục tiêu Lớn, tổng quát Cụ thể, rõ ràng
Thông tin Tổng hợp, không đầy
đủ
Đầy đủ, chính xác
Kết quả Lâu dài Có thể điều chỉnh
Thất bại Nặng nề, có thể làm
phá sản doanh nghiệp
Có thể khắc phục
Rủi ro Lớn Hạn chế
Khả năng của người
ra quyết định
Khái quát vấn đề Phân tích cụ thể, tỷ mỷ
49
- Theo mức độ chi tiết của kế hoạch:
+ Kế hoạch “thô”: Kế hoạch mang tính chất định hướng
+ Kế hoạch “tinh”: Là kế hoạch được lập chi tiết cho đến từng bộ phận nhỏ.
- Theo lĩnh vực hoạt động:
+ Kế hoạch tổng thể của doanh nghiệp
+ Kế hoạch bộ phận: Loại kế hoạch này chi tiết trong từng lĩnh vực kinh
doanh như: Kế hoạch marketing, kế hoạch sản xuất, kế hoạch vật tư, kế hoạch nhân
sự, kế hoạch tổ chức, tài chính,
2.3.3. Phối hợp kế hoạch
Một vấn đề đặt ra cho nhà quản trị là phải phối hợp các loại (các bộ phận kế
hoạch) như thế nào và từ đâu?
Trong nền kinh tế thị trường, các bộ phận kế hoạch đều được xuất phát từ bộ
phận Marketing theo sơ đồ sau:
Marketing KHSX KH vật tư
KH nhân sự KH tiêu thụ SP
KH tài chính
KH giá thành sản phẩm
KH doanh thu, lợi nhuận.
Tuy nhiên các doanh nghiệp cần lưu ý rằng, kế hoạch marketing không phải
lúc nào cũng là điểm xuất phát hợp lý cho các bộ phận kế hoạch khác ví dụ như
trong trường hợp khả năng tài chính không cho phép. Chính vì vậy, người ta còn có
một cách tiếp cận nữa thường được xem xét là xây dựng các bộ phận kế hoạch bắt
đầu từ những bộ phận kế hoạch tất yếu trong doanh nghiệp.
2.3.4 Cụ thể hoá kế hoạch
Một bức tranh rõ nét về tình hình tương lai của doanh nghiệp chỉ có thể được
nếu chúng được cụ thể hoá bằng các số liệu tính toán. Có thể thông qua các số liệu
sau:
- Số liệu về ngân sách ở các lĩnh vực kế hoạch
- Bảng cân đối kế hoạch (giá trị vốn và tài sản)
50
- Bảng tính lãi, lỗ (giá trị thu nhập và chi phí)
Rõ ràng các chỉ tiêu đưa ra bằng số liệu sẽ là cái đích để doanh nghiệp vươn
tới, đồng thời còn là cơ sở để kiểm tra và phân tích, đánh giá tình hình thực hiện
cũng như dự đoán tiếp theo. Một trong các kế hoạch quan trọng của doanh nghiệp
là kế hoạch lợi nhuận (hay còn gọi là kế hoạch kết quả kinh doanh. ở các nước có
nền kinh tế thị trường, kế hoạch này thường được xác định bằng phương pháp “trừ
lùi” từ doanh thu.
Ví dụ: Kế hoạch về kết quả kinh doanh
Đơn vị tính: 1000đ
Chỉ tiêu Kỳ trước Kỳ này So sánh (%)
1. Tổng doanh thu 5.000.000 6.750.000 35%
2. Giá vốn hàng bán 3.200.000 4.430.000 38,43%
3. Lợi nhuận gộp 1.800.000 2.320.000 28,89%
4. Chi phí bán hàng 350.000 413.000 18%
5. Chi phí QLDN 450.000 527.000 17,1%
6. Lợi nhuận trước thuế 1.000.000 1.380.000 31,8%
7. Thuế thu nhập DN 250.000 345.000 38%
8. Lợi nhuận sau thuế 750.000 1.035.000 38%
2.3.5. Các phương pháp kế hoạch
2.3.5.1 Phương pháp phân tích các yếu tố tác động
Đây là phương pháp truyền thống nhưng vẫn được sử dụng rộng rãi. Khi áp
dụng phương pháp này đòi hỏi cần phải xem xét, phân tích hệ thống và tổng thể các
vấn đề nội tại doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế của các yếu tố ngoại lai. Các yếu
tố cần xem xét gồm:
- Các yếu tố kinh tế như: tổng sản phẩm xã hội, mức cung tiền tệ
- Sự phát triển về dân số và nhóm lứa tuổi
- Tình hình thay đổi thói quen trong cuộc sống
51
- Các yếu tố chính trị và luật pháp như : luật cạnh tranh, luật môi trường
- Sự biến động các nguồn công nghệ, kỹ thuật, khai khoáng, nguyên liệu...
- Sự biến động của thị trường và thái độ của khách hàng như: qui mô thị
trường, chu kỳ vận động của thị trường, sự trung thành của khách hàng....
- Sự thay đổi cấu trúc ngành nghề như: loại sản phẩm, cấu trúc giá cả và cấu
trúc chi phí của các doanh nghiệp cùng ngành nghề.
- Sự biến động về tình hình cạnh tranh
- Các đặc điểm về nguồn lực của doanh nghiệp như: thị phần, chu kỳ sống
của sản phẩm, chất lượng lao động, chi phí tiền lương, tình hình doanh thu, chất
lượng sản phẩm.....
Ví dụ: Năm tới ngân hàng sẽ giảm 1% lãi suất cho vay cho kỳ hạn 1 năm,
nhà quản trị có thể phân tích:
Hạ lãi suất vay có nghĩa là chi phí vốn hạ, dẫn đến đầu tư nhiều hơn. Bằng
công thức giả sử có thể tính mức tăng tổng sản phẩm xã hội lên 3% và do đó nhu
cầu về các loại sản phẩm sẽ tăng 2%. Như vậy, nếu các chi phí khác không đổi thì
tỷ suất lợi nhuận sẽ tăng 1,5 lần
2.3.5.2 Phương pháp lợi thế vượt trội
Phương pháp này gợi mở cho các nhà quản trị khi lập kế hoạch phải xem xét
khai thác các lợi thế vượt trội để đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp.ở đây, lợi thế
vượt trội trong liên doanh, liên kết là đáng chú ý nhất. Thông thường, khi hoạch
định kế hoạh phải xem xét việc tìm kiếm các đối tác trên thị trường về mọi phương
diện để phát huy các lợi thế vượt trội trên các mặt sau:
- Lợi thế vượt trội trên lĩnh vực tiêu thụ trong việc khai thác các kênh tiêu
thụ cùng với các đối tác khác.
- Lợi thế vượt trội trong sản xuất thể hiện trong việc tăng cường liên doanh,
liên kết để phát huy chuyên môn hoá.
- Lợi thế vượt trội trong việc hợp tác nghiên cứu
52
- Lợi thế vượt trội nhờ năng lực và trình độ của các nhà quản trị trong việc
giải quyết từng vấn đề phát sinh cụ thể.
2.3.5.3 Phương pháp phân tích chu kỳ sống của sản phẩm
Mỗi sản phẩm khi xuất hiện trên thị trường đều có tính chất thời điểm và thời
hạn. Đến thời đoạn nào đó nó sẽ bị thị trường từ chối. Nhà quản trị là người chịu
trach nhiệm về quyết định cho ra đời, đình chỉ sản xuất đối với một loại sản phẩm
nào đó. Do đó, việc phân tích chu kỳ sống của từng sản phẩm của doanh nghiệp là
một phương pháp kế hoạch quan trọng.
Chu kỳ sống dưới góc độ quản trị được xem xét rộng hơn góc độ marketing: nó
bao gồm cả chu kỳ xuất hiện sản phẩm. Trên thực tế, ngày nay các doanh nghiệp
đang cạnh tranh khá quyết liệt ở chu kỳ xuất hiện
Muốn việc phân tích được chính xác phải đề ra được các chỉ tiêu đánh giá thị
trường của sản phẩm, theo bảng sau đây:
Các chỉ tiêu đánh giá Thâm
nhập
Tăng
trưởng
Chín muồi,
bão hoà
Từ bỏ hoặc
tăng trở lại
Số lượng đối thủ cạnh
tranh
Rất ít Nhiều Nhiều ít đi
Phần thị trường của DN Rất cao Cao ít dần ít
Vị trí trên thị trường Dẫn đầu Bị cạnh
tranh
Bán ít dần Bị chậm
Mức tăng doanh số Tăng chậm Rất nhanh Chậm Lùi
Kết quả Bắt đầu có
lãi
Lãi lớn Lãi giảm Lãi trở lại
Sự co giãn giá cả ít Trung bình Lớn ít
2.3.5.4 Phương pháp bình quân giản đơn
53
Đây là phương pháp dự báo trên cơ sở lấy trung bình của các dữ liệu đã qua,
trong đó các nhu cầu của giai đoạn trước để có trọng số như nhau, nó được thể hiện
bằng công thức sau:
A1+ A2+.... An
F(n+1) =
N
Trong đó:
F(n+1): nhu cầu dự báo cho giai đoạn n+1
A1: nhu cầu cách đây một giai đoạn
An: nhu cầu cách nay n giai đoạn
Ví dụ : Công ty Cokyvina có số liệu thống kê về số máy điện thoại trong 3 năm
2006, 2007 và 2008 là 50.000máy, 36.000 máy và 30.000 may
Như vậy, nhu cầu dự báo cho năm 2009 là:
(50.000 +36.000 + 30.000)/3 = 38.666 máy
2.3.5.5 Phương pháp bình quân di động
Trong trường hợp khi nhu cầu có sự biến động, trong đó thời gian gần nhất có
ảnh hưởng nhiều nhất đến kết quả dự báo, thời gian càng xa thì ảnh hưởng càng
nhỏ, do vậy phương pháp bình quân di động là thích hợp
Phương pháp này dùng kết quả trên cơ sở thay đổi liên tục khoảng thời gian
trước đây cho dự báo giai đoạn tiếp theo. Chẳng hạn, bình quân di động 3 quý có
nghĩa là dự báo quýốau theo theo bình quân của 3 quý trước đó trượt trên dòng thời
gian liên tục khi giai đoạn dự báo trượt trên dòng thời gian đó
Ví dụ: Nhu cầu về máy điện thoại của công ty theo biểu dưới đây: dùng bình
quân di động 3 quý để dự báo nhu cầu cho quý tới( năm 2009):
Quý Số máy điện thoại thực
tế bán được
Dự báo nhu cầu bình quân 3 quý di
động giản đơn
I 9.500
54
II 7.500
III 5.000
IV 7.000 (5.000+7.500+9.500)/3 = 7.333
1 năm sau 8.120 (7.000+5.000+7.500)/3 = 6.500
2 năm sau 9.250 (8.120+7.000+5.000)/3 =6.707
3 năm sau 6.438 (9.250+8.120+7.000)/3 = 8.123
4 năm sau 5.500 (6.438+9.250+8.120)/3 = 7.936
Ngoài ra, người ta còn có thể sử dụng các phương pháp kế hoạch khác như:
PP bình quân di động có trọng số, PP san bằng số mũ giản đơn, PP san bằng số mũ
có điều chỉnh xu hướng, phép hoạch định theo xu hướng.
III. KỸ THUẬT DỰ THẢO CHIẾN LƯỢC TRONG QUẢN TRỊ KINH
DOANH
3.1. Phân tích dự báo, môi trường kinh doanh
Quá trình phân tích là chỉ ra những điểm yếu của doanh nghiệp, từ đó giúp
lãnh đạo có cách thức giải quyết mới hiệu quả hơn.
Sự phân tích một cách đầy đủ phần chênh lệch giữa kế hoạch đề ra với kết
quả đạt được là hoàn toàn cần thiết trong những trường hợp sự chênh lệch là quá
lớn hoặc không nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch đó.
Chính quá trình phân tích này đồng thời với việc tìm ra cách giải quyết trong
chừng mực nhất định dẫn đến làm thay đổi cả chiến lược tổng thể cũng như mục
tiêu, kế hoạch.
a. Phân tích doanh nghiệp
Là quá trình phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp trong
việc so sánh với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường. Các lĩnh vực được
đưa ra so sánh và phân tích gồm:
+ Lĩnh vực tiêu thụ
+ Lĩnh vực nghiên cứu và phát triển
55
+ Lĩnh vực sản xuất
+ Lĩnh vực mua sắm
+ Lĩnh vực nhân sự
+ Lĩnh vực tài chính...
Chính việc phân tích này đưa đến một kết quả mà chúng ta có thể gọi là:
Tính cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ngoài ra có thể phân tích hình thức tổ chức quản trị doanh nghiệp và cơ cấu
doanh nghiệp. Kết quả phân tích phải cụ thể, phải chỉ ra được đâu là điểm mạnh,
điểm trung bình và điểm yếu của doanh nghiệp. Bởi nó chính là những dữ liệu quan
trọng nhất cho việc hoạch định chiến lược, kế hoạch cho kỳ sau.
b. Phân tích môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
Là việc đưa ra những ảnh hưởng đặc biệt của môi trường kinh doanh đối với
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi phân tích môi trường kinh doanh của
doanh nghiệp cần dựa vào các nội dung sau:
- Phân tích môi trường kinh tế:
+ Hệ thống kinh tế
+ Thực trạng kinh tế nói chung
+ Thực trạng về thị trường lao động
- Phân tích môi trường xã hội và văn hoá gồm:
+ Các yếu tố xã hội
+ Quan điểm về lòng tin
+ Sự năng động của người lao động
- Phân tích môi trường công nghệ: sự xuất hiện và áp dụng công nghệ mới
- Phân tích môi trường chính trị và luật pháp
+ Trật tự xã hội và luật pháp
+ Sự ảnh hưởng của các tổ chức xã hội đối với chính trị và luật pháp
- Phân tích các nhân tố về sinh thái:
+ Cơ sở hạ tầng
56
+ Điều kiện địa lý
+ Tình hình khí hậu
- Phân tích các yếu tố liên quan đến thị trường
+ Với thị trường mua: giá vật tư, chi phí...
+Với thị trường tiêu thụ: sức mua hàng hoá, sự biến động về tiêu thụ
trên thị trường
+ Tình trạng cạnh tranh (thị phần tăng hay giảm )
+ Thực trạng thị trường thế giới
Việc phân tích môi trường kinh doanh để doanh nghiệp xác định các cơ hội
hoặc những rủi ro có thể gặp trong kinh doanh.
3.2. Dự thảo chiến lược kinh doanh
Một nhiệm vụ rất cơ bản của quản trị doanh nghiệp là việc phát triển chiến
lược kinh doanh vì ngày càng có nhiều vấn đề đặt ra liên quan đến quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn như sự bão hoà thị trường, sự thay đổi các
quan niệm giá trị, công nghệ mới cũng như vấn đề liên minh khu vực, toàn cầu và
vấn đề môi trường.
Trước hết, quản trị doanh nghiệp cần phải nắm bắt được các vấn đề đó làm
tiền đề cho việc hoạch định chiến lược.
Chiến lược được hiểu là những định hướng kinh doanh, những phương pháp
hay sự lựa chọn và các khả năng để giải quyết vấn đề kinh doanh đặt ra. Một sự
chuẩn bị thấu và dài hạn của quản trị doanh nghiệp cho những vấn đề chắc chắn sẽ
xảy ra trong kinh doanh.
Vì vậy, một chiến lược mới phải được phát triển một các có hệ thống.
Có thể coi quy trình dự thảo chiến lược được chia thành 2 giai đoạn chủ yếu:
- Giai đoạn 1: Phân tích tình hình thực trạng của doanh nghiệp (tức là trả lời
câu hỏi “ chúng ta đang ở đâu ”?).
- Giai đoạn 2: Là dự thảo các chiến lược mới (tức là trả lời câu hỏi “ chúng ta
muốn tới đâu và bằng cách nào ”). ở giai đoạn 2 cần nắm vững một số vấn đề sau:
57
+ Các định hướng quan điểm của lãnh đạo, của chuyên gia.
Đây là cơ sở quan trọng để đề ra các chiến lược. Tuy nhiên, rất khó nhận biết
quan điểm của các chuyên gia vì nó thường xuất phát từ các ý đồ cá nhân.
Chẳng hạn như:
Nhiều chủ doanh nghiệp muốn duy trì kiểu quản trị gia đình và muốn giữ vị trí
lớn nhất bằng việc tự đầu tư từ lợi nhuận của doanh nghiệp, họ không muốn phát triển
nhanh doanh nghiệp bằng cách huy các nguồn vốn là vì sợ mất quyền kiểm soát.
Một nhóm người khác lại thích một hoàn cảnh ít lợi nhuận và cũng ít rủi ro.
Không cần nỗ lực lắm cho việc tăng doanh thu.
Họ thường hoài nghi đối với các hoạt động của nhà nước.
Trong một số trường hợp khác lại có những định hướng theo cách mở rộng
các hoạt động liên kết có tính chất quốc tế; hoặc thường sử dụng chiến lược tối ưu
hoá lợi nhuận khi xuất hiện sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh.
+ Các định hướng chủ yếu : thường nhằm vào 3 hướng sau :
• Định hướng mục tiêu: cải tiến chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để tăng
thị phần.
• Các chiến lược ứng xử mang tính định hướng, gồm :
Chiến lược từ bỏ ( rút lui khỏi một thị trường)
Chiến lược thích ứng ( tiếp cận với một thị trường)
Chiến lược cố thủ ( quyết tâm trụ lại ở một thị trường)
Chiến lược chiếm lĩnh ( trực tiếp hay gián tiếp )
Chiến lược liên kết ( liên kết dọc, ngang)
Chiến lược tập trung ( hợp nhất thành các hãng, tập đoàn lớn)
Chiến lược quốc tế hoá ( liên minh chiến lược với các hãng nước ngoài)
• Các định hướng chiến lược về cơ cấu :
Thành lập cơ sở mới (Xí nghiệp hay chi nhánh)
Đổi mới hình thức tổ chức (từ công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty
cổ phần)
58
+ Các chiến lược chủ yếu gồm :
Các chiến lược của doanh nghiệp thường được hoạch định theo bốn bình
diện chính của quá trình kinh doanh gồm:
• Chiến lược kinh tế: chiến lược phát triển thị trường, chiến lược sản phẩm,
chiến lược marketing hỗn hợp, chiến lược mua sắm, tuyển dụng
• Chiến lược tài chính: khả năng thanh toán, chiến lược sử dụng lợi nhuận,
chiến lược khấu hao, tạo vốn và đầu tư
• Chiến lược có tính chất kinh tế xã hội: chiến lược về tiền lương, chiến lược
khuyến khích người lao động, chiến lược linh hoạt chỗ làm việc
• Chiến lược về quản trị: tổ chức doanh nghiệp, quản trị con người, chiến
lược về cơ cấu doanh nghiệp.
+ Các chiến lược lĩnh vực : Là chiến lược được sử dụng cho từng lĩnh vực
kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp:
• Chiến lược về lĩnh vực marketing: chiến lược giữ vững thị trường, phát
triển thị trường, chiến lược sản phẩm mới, chiến lược tiêu thụ
• Chiến lược nghiên cứu và phát triển: tiến bộ kỹ thuật, phát triển sáng kiến,
thu thập ý tưởng mới, tăng cường trách nhiệm đối với sản phẩm
• Chiến lược về sản xuất: hoàn thiện quá trình sản xuất, khai thác tiềm năng
công nhân, chiến lược tăng giảm năng lực sản xuất, điều khiển bằng máy tính điện tử.
• Chiến lược về mua sắm vật tư: chiến lược dự trữ, cấp phát nguyên vật liệu,
chiến lược liên kết với nhà cung cấp, tổ chức mua.
• Chiến luợc nhân sự: phát huy sáng kiến, chiến lược tăng năng suất lao
động, hạ chi phí nhân công, cải tiến thù lao lao động.
• Chiến lược tài chính: ổn định khả năng thanh toán, chiến lược tự đầu tư từ
lợi nhuận, chiến lược đầu tư ra ngoài hợp lý, chiến lược tăng vốn tự có, loại bỏ các
rủi ro tiền tệ.
3.3. Hoạch định chương trình quản trị kinh doanh
59
Mỗi quản trị viên trong doanh nghiệp dù ở cấp nào, xét cho cùng chỉ thực
hiện một hoặc một số hoạt động quản trị nhất định. Tuy nhiên toàn bộ các hoạt
động đó lại đòi hỏi phải nằm trong một hệ thống chặt chẽ, liên hệ gắn bó với nhau.
Để đi sâu hoạch định một chương trình quản trị, chúng ta cần tìm hiểu xem quá
trình quản trị doanh nghiệp gồm những nội dung gì mà trước hết là chúng ta đi tìm
hiểu thế nào là hoạch định.
3.3.1. Khái niệm hoạch định
Hoạch định là quá trình xác định mục tiêu và những giải pháp tốt nhất để đạt
tới mục tiêu đó.
3.3.2.Các loại hoạch định chương trình quản trị doanh nghiệp
3.3.2.1 Hoạch định mục tiêu sản xuất kinh doanh
Thông thường, mục tiêu được coi như kết quả của các quyết định. Nó là sự
diễn tả một tình trạng mong muốn trong tương lai của doanh nghiệp.
a. Hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp
Việc xác định hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp được tiếp cận theo
nhiều cách:
- Theo cách tiếp cận có tính chất thứ bậc, người ta cho rằng doanh nghiệp có
các mục tiêu sau:
+ Mục tiêu bao trùm (mục tiêu chiến lược)
+ Mục tiêu trung gian (mục tiêu chiến thuật)
+ Mục tiêu điều kiện (mục tiêu tác nghiệp)
- Theo theo cách tiếp cận với thời gian, mục tiêu của doanh nghiệp gồm:
+ Mục tiêu dài hạn(từ 3 năm trở lên)
+ Mục tiêu trung hạn (từ 1- 3 năm)
+ Mục tiêu ngắn hạn (dưới 1 năm)
- Theo cách tiếp cận với nội dung của quá trình kinh doanh, mục tiêu của
doanh nghiệp gồm:
60
+ Mục tiêu mang tính chất tiền tệ:
• Muc tiêu tăng doanh thu
• Mục tiêu hạ giá thành sản phẩm
• Mục tiêu tăng lợi nhuận.
• Mục tiêu tăng khả năng chi trả.
• Mục tiêu bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh.
+ Mục tiêu không mang tính chất tiền tệ:
• Tăng tỷ trọng thị phần (Phần chiếm hữu thị phần của doanh nghiệp)
• Tăng sức mạnh uy tín của doanh nghiệp .
• Tăng năng suất và chất lượng của sản phẩm
b. Những chú ý khi hoạch định mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp
Khi hoạch định mục tiêu, doanh nghiệp cần lưu ý:
- Các yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến mục tiêu: Giá cả, lãi suất,
thị trường, chính sách thuế.
- Xác định số lượng mục tiêu phù hợp với thời kỳ kinh doanh, phân tích mối
quan hệ qua lại giữa các mục tiêu.
Ví dụ :
+ Mối quan hệ giữa doanh thu và lợi nhuận (đồng thuận)
+ Mối quan hệ giữa lợi nhuận và chi phí (đối nghịch)
+ Mối quan hệ giữa vốn kinh doanh và thị trường (tỷ trọng thị phần- xu
hướng vô can)
- Đề ra thời gian và kế hoạch cụ thể thực hiện các mục tiêu.
3.3.2.2. Hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh
Một chương trình quản trị sẽ không có ý nghĩa nếu không đề cập đến việc
xây dựng kế hoạch.Sau khi đã xác định được hệ thống mục tiêu và chiến lược kinh
doanh, kế hoạch kinh doanh được coi là con đường thực hiện các mục tiêu đó.
3.3.2.3. Tổ chức thực hiện hoạch định chương trình quản trị kinh doanh
61
Trong khuôn khổ của việc hoạch định một chương trình quản trị doanh
nghiệp, nội dung tổ chức thực hiện được đề cập tới ba vấn đề sau:
a. Diễn tả mức độ ảnh hưởng đến các lĩnh vực quản trị
Trong quá trình kinh doanh, ở từng lĩnh vực kinh doanh sẽ có những sự cố tác
động nhất định, việc thống kê các sự cố đó là bước đầu tiên cần thiết để thực hiện.
Các lĩnh vực quản trị Các sự cố thường gặp
* Lĩnh vực vật tư:
- Mua sắm vật tư: Quyết định thời gian mua
- Bảo quản kho vật tư: Mất mát
- Quản lý vật tư: Lỗi trong giao nhận
* Lĩnh vực sản xuất như:
- Thời hạn thực hiện: Gián đoạn do các “bệnh tật”
- Tận dụng công suất: Sự cố máy móc
- Bảo đảm chất lượng: Lỗi của nguyên vật liệu
* Lĩnh vực Marketing như:
- Chuẩn bị sản xuất: Thiếu các ý tưởng, phương án
- Xây dựng giá cả: Bị sức ép từ chi phí
- Thực hiện việc
tiêu thụ sản phẩm: Lỗi trong các dự đoán
* Lĩnh vực nhân sự:
- Bố trí nhân công đúng chỗ: Hạn chế do đào tạo
- Phát triển nhân sự: Khó khăn trong đào tạo, đánh giá
nhân viên.
62
-Thái độ của nhân viên: Không hài lòng với DN
* Lĩnh vực tài chính kế toán :
- Tổ chức hoạt động TC: Có vấn đề ra quyết định
-Kế toán: Lỗi trong sổ sách, chứng từ
-Xây dựng bảng tổng kết: Thiếu số liệu
* Nghiên cứu và phát triển:
-Nghiên cứu cơ bản: Thiếu thông tin
-Nghiên cứu mới: Thiếu ý tưởng
-Thẩm định: Không chặt chẽ
Nhận biết sơ lược các sự cố trên từng lĩnh vực để có cách nhìn toàn diện cho
cấp quản trị là cần thiết, đặc biệt đối với cấp quản trị cao cấp. Ngoài ra, một số sự
cố rất hay gặp trong việc điều phối hoạt động giữa các lĩnh vực trong doanh nghiệp
là vấn đề phân phối các nguồn lực.
b. Điều khiển bằng các kỹ năng quản trị
Các kỹ năng cần thiết để thực hiện một trương trình quản trị, các quản trị
viên cần thiết phải có đầy đủ các kỹ năng quản trị và biết sử dụng các kỹ năng đó
để xử lý các vấn đề phát sinh.
Các kỹ năng cần có như :
- Kỹ năng thông tin và kiểm tra
- Kỹ năng kế hoạch và quyết định
- Kỹ năng tổ chức
- Kỹ năng tâm lý học
- Kỹ năng phối hợp thông tin
- Kỹ năng dự đoán
c.Vận dụng các kỹ năng
Có thể mô tả việc vận dụng các kỹ năng tương ứng với các vấn đề phát sinh
ở bảng sau:
63
Các vấn đề phát sinh Các kỹ năng vận dụng
- Thiếu hụt, lỗi NVL - Kỹ năng kiểm tra
- Vấn đề thiếu thống nhất - Kỹ năng phối hợp thông tin
- Lỗi trong dự đoán - Kỹ năng dự đoán
- Sức ép chi phí - Thanh toán, kiểm tra lại các khoản chi phí
- Phối hợp thời gian - Kỹ năng kế hoạch
- Thiếu ý tưởng - Kỹ năng sáng tạo
- Quá nhiều việc - Kỹ năng uỷ quyền
- Vấn đề quyền hạn - Kỹ năng tổ chức
d. Điều khiển bằng các công cụ quản trị
ở tất cả các cấp quản trị trong doanh nghiệp, việc sử dụng các công cụ quản
trị mang lại một giá trị to lớn. Các công cụ cơ bản cần sử dụng gồm:
Công cụ có tính chất pháp lý: Là những điều khoản có tính chất pháp lý
thường được thể hiện trong hợp đồng lao động, nó là cơ sở quan trọng để xử lý mối
quan hệ công tác trong quá trình làm việc.
- Công cụ khuyến khích: Sử dụng công cụ khuyến khích đúng quyền hạn và
đúng thực tế là điều cần lưu ý đối với các quản trị viên.
- Công cụ thông tin: Các quản trị viên phải có đầy đủ thông tin mới nhất về
mọi mặt h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giaotrinh_qtdn_p1_9918.pdf