Tài liệu Giáo trình môn học: Kinh tế học vĩ mô (Phần 1): ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI
TRƯỜNG CAO ĐẢNG NGHỀ YÊN BÁI
GIÁO TRÌNH
MÔN HỌC: KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
NGHỀ: KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP
TRÌNH ĐỘ : CAO ĐẲNG NGHỀ
Tháng 8 năm 2014
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
2
MỤC LỤC
Trang
Chương I:
KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ HỌC VÀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ 7
1. Khái niệm về kinh tế học và những đặc trưng của kinh tế học 7
1.1. Khái niệm về kinh tế học 7
1.2. Những đặc trưng của kinh tế học 8
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu môn học 8
2.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô 8
2.2. Phương pháp nghiên cứu kinh tế học 9
3. Tổ chức kinh tế của một nền kinh tế hỗn hợp 10
3.1. Ba chức năng cơ bản của một nền kinh tế học 10
3.2. Tổ chức kinh tế của một nền kinh tế hỗn hợp 11
4. Một số khái niện liên quan cơ bản 14
4.1. Yếu tố sản xuất 14
4.2. Giới hạn khả năng sản xuất 14
4.3. Chi phí cơ hội 16
4.4. Một số khái niệm khác 16
5. Hệ thống kinh tế vĩ mô 18
5.1. Tổng cung (AS) 18
5.2....
58 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 576 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo trình môn học: Kinh tế học vĩ mô (Phần 1), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI
TRƯỜNG CAO ĐẢNG NGHỀ YÊN BÁI
GIÁO TRÌNH
MÔN HỌC: KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
NGHỀ: KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP
TRÌNH ĐỘ : CAO ĐẲNG NGHỀ
Tháng 8 năm 2014
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
2
MỤC LỤC
Trang
Chương I:
KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ HỌC VÀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ 7
1. Khái niệm về kinh tế học và những đặc trưng của kinh tế học 7
1.1. Khái niệm về kinh tế học 7
1.2. Những đặc trưng của kinh tế học 8
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu môn học 8
2.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô 8
2.2. Phương pháp nghiên cứu kinh tế học 9
3. Tổ chức kinh tế của một nền kinh tế hỗn hợp 10
3.1. Ba chức năng cơ bản của một nền kinh tế học 10
3.2. Tổ chức kinh tế của một nền kinh tế hỗn hợp 11
4. Một số khái niện liên quan cơ bản 14
4.1. Yếu tố sản xuất 14
4.2. Giới hạn khả năng sản xuất 14
4.3. Chi phí cơ hội 16
4.4. Một số khái niệm khác 16
5. Hệ thống kinh tế vĩ mô 18
5.1. Tổng cung (AS) 18
5.2. Tổng cầu (AD) 19
5.3. Cân bằng tổng cung, tổng cầu 19
6. Mục tiêu và công cụ trong kinh tế vĩ mô 20
6.1. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô 20
6.2. Chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu 21
7. Câu hỏi ôn tập 22
Chương II
TỔNG SẢN PHẨM VÀ TỔNG THU NHẬP QUỐC DÂN 24
1. Tổng sản phẩm quốc dân, thước đo thành tựu của nền kinh tế 24
1.1.Các khái niệm cơ bản 24
1.2. Biến danh nghĩa và biến thực tế 27
1.3. Mối quan hệ giữa GDP và GNP 28
2. Các phương pháp xác định GDP 29
2.1. Vòng chu chuyển kinh tế vĩ mô 29
2.2. Ba phương pháp xác định GDP 31
2.2.1. Phương pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm 31
2.2.2. Phương pháp xác định GDP theo luồng chi phí 33
2.2.3. Phương pháp xác định GDP theo giá trị gia tăng 34
3. Các đồng nhất thức kinh tế vĩ mô cơ bản 35
3.1. Trong nền kinh tế giản đơn 35
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
3
3.2. Trong nền kinh tế đóng 36
3.3. Trong nền kinh tế mở 37
4. Câu hỏi ôn tập 38
Chương III
TỔNG CẦU VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA 40
1. Tổng cầu và sản lượng cân bằng của nền kinh tế 40
1.1. Tổng cầu trong nền kinh tế 40
1.2. Cách xây dựng hàm tổng cầu và xác định sản lượng cân bằng
của nền kinh tế 43
1.2.1. Trong mô hình kinh tế giản đơn
1.2.2. Trong mô hình kinh tế đóng có sự tham gia của Chính
phủ 48
1.2.3. Trong mô hình kinh tế mở 50
2. Chính sách tài khóa 52
2.1. Khái niệm 52
2.2. Cách thức và tác động của chính sách tài khóa 53
2.3. Vấn đề thêm hụt ngân sách và các biện pháp tài trợ 55
3. Câu hỏi ôn tập 56
Chương IV
TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 59
1. Chức năng của tiền tệ 59
1.1. Định nghĩa 59
1.2. Chức năng của tiền tệ 59
1.3. Các loại tiền tệ 60
2. Thị trường tiền tệ 61
2.1. Cầu tiền 61
2.2. Cung tiền 63
2.3. Sự cân bằng tiền tệ 67
2.4. Ngân hàng trung ương và vai trò kiểm soát tiền tệ 69
3. Mô hình IS-LM 70
3.1. Đường IS 70
3.2. Đường LM 71
3.3. Sự kết hợp đường IS-LM 72
4. Sự kết hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ 73
4.1. Chính sách tiền tệ 73
4.2. Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ 74
5. Câu hỏi ôn tập 75
Chương V
TỔNG CUNG VÀ CHU KỲ KINH DOANH 78
1. Thị trường lao động 78
1.1. Cầu lao động 78
1.2. Cung lao động 79
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
4
1.3. Sự cân bằng thị trường lao động 79
2. Tổng cung và các mô hình tổng cung 80
2.1. Tổng cung 80
2.2. Các mô hình tổng cung 81
2.3. Quá trình điều chỉnh của nền kinh tế trong ngắn hạn và dài
hạn 83
3. Chu kỳ kinh doanh 84
3.1. Định nghĩa 84
3.2. Cơ chế của chu kỳ kinh doanh 85
4. Câu hỏi ôn tập 88
Chương VI
THẤT NGHIỆP VÀ LẠM PHÁT 89
1. Thất nghiệp 89
1.1. Khái niệm 89
1.2. Phân loại thất nghiệp 89
1.3. Phân tích thị trường lao động 91
2. Lạm phát 93
2.1. Khái niệm 93
2.2. Phân loại lạm phát 94
3. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp 95
3.1. Đường phillips 95
3.2. Trường hợp lạm phát do cầu kéo 97
3.3. Trường hợp lạm phát do chi phí đẩy 97
3.4. Trường hợp lạm phát dự kiến 97
4. Câu hỏi ôn tập 99
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
5
LỜI GIỚI THIỆU
Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu những sự lựa chọn mà các cá nhân,
doanh nghiệp, chính phủ và toàn xã hội đưa ra khi họ phải đối mặt với sự khan hiếm
về nguồn lực. Theo truyền thống, kinh tế học được chia thành hai phân ngành: Kinh
tế học vi mô và Kinh tế học vĩ mô. Đối với sinh viên khối kinh tế, đây là các môn học
cơ sở, cung cấp khung lý thuyết cho các môn định hướng ngành và kinh tế ngành.
Cuốn sách “ Giáo trình: Kinh tế học vĩ mô” được biên soạn cho những học
sinh, sinh viên cao đẳng lần đầu tiên tiếp cận với kinh tế học vĩ mô. Mục tiêu của
cuốn sách là cung cấp cho người học những thuật ngữ, nguyên lý và các mô hình kinh
tế vĩ mô, giúp cho người học vận dụng lý thuyết để lý giải các hiện tượng, các vấn đề
kinh tế vĩ mô trong thực tiễn đời sống hằng ngày.
Cuốn sách này bao gồm 6 chương:
Chương 1: Khái quát về kinh tế học và kinh tế học vĩ mô
Chương 2: Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân
Chương 3: Tổng cầu và chính sách tài khóa
Chương 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ
Chương 5: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
Chương 6: Thất nghiệp và lạm phát
Trong quá trình biên soạn cuốn sách này, bên cạnh việc dựa vào chương trình
khung do Tổng cục dạy nghề ban hành, tác giả đã kế thừa, tham khảo cuốn đề cương
bài giảng Kinh tế học vĩ mô của trường Cao đẳng Công nghiệp Hà nội, và tham khảo
nhiều giáo trình: Kinh tế học vĩ mô; Bài tập nguyên lý kinh tế vĩ mô của Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân. Chúng tôi tin rằng cuốn sách này sẽ giúp ích cho người học
trong quá trình học tập, nghiên cứu và ứng dụng lý thuyết kinh tế học vĩ mô. Mặc dù
đã hết sức cẩn trọng trong quá trình biên soạn nhưng chắc chắn cuốn sách sẽ không
tránh khỏi thiếu sót, chúng tôi mong muốn nhận được sự đóng góp và phê bình từ
người đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài tập Nguyên Lý kinh tế vĩ mô - Trường đại học kinh tế quốc dân
2. Đề cương bài giảng môn: kinh tế vĩ mô - Trường cao đẳng công nghiệp Thái
Nguyên
3. Giáo trình Nguyên lý kinh tế vĩ mô - Trường đại học Kinh tế quốc dân
4. Giáo trình Kinh tế vĩ mô - Bộ giáo dục và đào tạo
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
7
Chương I
KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ HỌC VÀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
1.Khái niệm về kinh tế học và những đặc trưng của kinh tế học
1.1. Khái niệm về kinh tế học
Kinh tế học là môn khoa học ra đời cách đã hơn hai thế kỷ. Từ đó đến nay, kinh
tế học trải qua nhiều giai đoạn phát triển và cũng đã xuất hiện nhiều định nghĩa. Sau
đây là một trong những định nghĩa thông dụng về kinh tế học được nhiều nhà kinh tế
hiện nay thống nhất:
Kinh tế học là môn học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào nguồn
tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hóa cần thiết và phân phối cho
các thành viên của xã hội.
Các vấn đề kinh tế xuất hiện do chúng ta mong muốn nhiều hơn so với cái mà
chúng ta nhận được. Chúng ta muốn một thế giới an toàn và hòa bình, chúng ta muốn
có không khí trong lành và nguồn nước sạch, chúng ta muốn sống lâu và sống khỏe,
chúng ta muốn có trường đại học, bệnh viện hiện đại, chúng ta muốn sống trong căn
hộ tiện nghi.....Mỗi thứ mà chúng ta nhận được luôn bị hạn chế bởi thời gian và thu
nhập. Kết quả là chúng ta luôn có những mong muốn không thế được thỏa mãn. Cái
mà tổng thể xã hội có thể nhận được bị giới hạn bởi các nguồn lực sản xuất mà chúng
ta có thể sử dụng. Các nguồn lực này bao gồm tài nguyên thiên nhiên, lao động và tri
thức công nghệ cùng các công cụ và thiết bị mà chúng ta tạo ra. Việc chúng ta thất
bại trong việc thỏa mãn mong muốn đó là do khan hiếm nguồn lực và vì vậy chúng ta
phải lựa chọn phương án tối ưu nhất trong các phương án sẵn có. Và kinh tế học là
môn học nghiên cứu những sự lựa chọn mà các cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ và
toàn xã hội đưa ra khi họ đối mặt với sự khan hiếm.
Kinh tế học được chia ra thành hai phân ngành lớn: Kinh tế học vĩ mô và Kinh
tế học vi mô. Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu hoạt động của toàn bộ tổng thể rộng lớn
của nền kinh tế như tăng trưởng kinh tế, sự biến động của giá cả, việc làm, lạm phát
của cả nước, cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái...Trong khi đó, Kinh tế vi mô lại
nghiên cứu sự hoạt động của các tế bào trong nền kinh tế là các doanh nghiệp riêng lẻ.
Kinh tế học cũng có thể được chia thành kinh tế học Thực chứng và Chuẩn tắc tùy
vào cách thức sử dụng. Kinh tế học thực chứng là việc mô tả và phân tích các sự kiện,
những mối quan hệ trong nền kinh tế và để trả lời những câu hỏi: “Là bao nhiêu?”
“Là gì?” “Như thế nào?”. Ví dụ: Hiện nay tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu? Nếu lạm phát
giảm đi 2% thì thất nghiệp có tăng lên không và tăng lên bao nhiêu? Còn Kinh tế học
chuẩn tắc lại đề cập đến mặt đạo lý được giải quyết bằng sự lựa chọn và để trả lời câu
hỏi : “Nên làm gì?”. Ví dụ: Tỷ lệ thất nghiệp cao đến độ nào thì chấp nhận được? Có
nên tăng chi phí quốc phòng hay không...Khi nghiên cứu các vấn đề kinh tế thường
được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển sang kinh tế học chuẩn tắc.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
8
1.2. Những đặc trưng của kinh tế học
Đặc trưng cơ bản và quan trọng của kinh tế học gắn liền với tiền đề nghiên
cứu và phát triển của môn học này. Đó là việc kinh tế học nghiên cứu sự khan hiếm
của các nguồn lực một cách tương đối với nhu cầu kinh tế, xã hội. Nếu có thể sản xuất
với số lượng vô hạn về mọi hàng hóa, thì sẽ không có hàng hóa kinh tế và cũng không
cần tiết kiệm hay nghiên cứu kinh tế học.
Đặc trưng quan trọng thứ hai của kinh tế học là tính hợp lý của nó. Nghĩa là,
khi phân tích hoặc lý giải một sự kiện kinh tế nào đó, cần phải dựa trên những giả
thiết nhất định về diễn biến của sự kiện kinh tế này. Ví dụ: Nếu muốn phân tích xem
người tiêu dùng muốn mua thứ gì, với số lượng bao nhiêu, kinh tế học giả định rằng
người tiêu dùng tìm cách mua được nhiều hàng hóa nhất với thu nhập có hạn của
mình. Tương tự như vậy, khi xem xét xem doanh nghiệp sản xuất cái gì, với số lượng
là bao nhiêu và bằng cách nào, kinh tế học giả định rằng doanh nghiệp tìm cách tối đa
hóa thu nhập của mình với những rằng buộc nhất định về các yếu tố sản xuất. Tuy
nhiên, tính chất hợp lý của những giả thiết này chỉ có ý nghĩa tương đối.
Đặc trưng phổ biến thứ ba của kinh tế học là: Kinh tế học là bộ môn nghiên
cứu về mặt lượng. Việc thể hiện các kết quả nghiên cứu kinh tế bằng những con số có
tầm quan trọng đặc biệt. Khi phân tích kết quả của các hoạt động kinh tế, nếu chỉ
nhận định nó tăng lên hay giảm đi thì chưa đủ, mà còn phải xác định xem sự thay đổi
đó là bao nhiêu.
Đặc trưng thứ tư của kinh tế học là: tính toàn diện và tính tổng hợp của nó,
tức là khi xem xét các hoạt động và sự kiện kinh tế phải đặt nó trong mối liên hệ với
các hoạt động và sự kiện kinh tế khác trên phương diện một nước, thậm chí trên
phương diện nền kinh tế thế giới. Ví dụ: Để chống lạm phát, Ngân hàng TW của một
nước quyết định giảm mức cung tiền. Kết quả là tổng cầu giảm làm cho không chỉ giá
cả giảm mà cả sản lượng và việc làm giảm. Mặt khác, do giảm mức cung tiền làm cho
đồng tiền nước này tăng giá, hàng xuất khẩu tăng giá tương đối và hàng nhập khẩu
giảm giá, làm cho xuất khẩu ròng giảm dẫn đến sản lượng và việc làm giảm, trong khi
đó các nước có quan hệ buôn bán với nước này lại tăng được xuất khẩu làm cho việc
làm và sản lượng của họ lại tăng....
Đặc trưng cuối cùng của kinh tế học là: các kết quả nghiên cứu chỉ xác định
được ở mức trung bình vì các kết quả này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác
nhau và không thể xác định tất cả các yếu tố này.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu môn học
2.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô.
Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu hoạt động tổng thể nền kinh tế. Hằng ngày tại
mỗi quốc gia có hàng triệu quyết định kinh tế được người tiêu dùng, các hãng sản
xuất, công nhân, các viên chức chính phủ đưa ra. Kinh tế học vĩ mô xem xét, phân
tích và đánh giá kết quả tổng hợp của tất cả hoạt động cá nhân này. Ví dụ: Trong một
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
9
tháng nào đó, hàng ngàn doanh nghiệp có thể tăng giá cho các sản phẩm của mình,
trong khi nhiều doanh nghiệp khác lại giảm giá. Để hiểu được sự thay đổi giá cả nói
chung, kinh tế học vĩ mô sẽ xem xét sự biến động của mức giá trung bình chứ không
phải giá cả của từng mặt hàng hay từng nhóm hàng. Tương tự như vậy, trong kinh tế
học vĩ mô người ta quan tâm tới tổng sản lượng của nền kinh tế, chứ không phải sản
lượng của từng loại hàng riêng lẻ.
Như vậy đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô là những xu hướng chung
của nền kinh tế chứ không phải các vấn đề liên quan đến từng đơn vị kinh tế riêng lẻ.
Các câu hỏi lớn của đời sống kinh tế được kinh tế vĩ mô tìm cách giải quyết : Điều gì
làm cho một nước giàu hơn hay nghèo đi theo thời gian? Công dân của một nước sẽ
tiết kiệm được bao nhiêu cho tương lai? Tại sao mức giá ở một số nước có xu hướng
tăng nhanh trong khi ở các nước khác giá cả lại giảm hay ổn định và tăng
chậm?....Một nội dung lớn trong kinh tế học vĩ mô là nghiên cứu các chính sách của
chính phủ có ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động chung của nền kinh tế. Đa số các
nhà kinh tế cho rằng các chính sách có ảnh hưởng rộng khắp và có thể dự tính được
chiều hướng chung của mức sản xuất, việc làm, mức giá cả chung và thương mại
quốc tế. Nhiều nhà kinh tế lại cho rằng chính phủ nên chủ động sử dụng các chính
sách kinh tế vĩ mô để cải thiện thành tựu kinh tế vĩ mô.
Nói tóm lại: Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia trước
những vấn đề kinh tế và xã hội cơ bản như: Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất
nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hóa và tư bản, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu
nhập giữa các thành viên trong xã hội.
2.2. Phương pháp nghiên cứu kinh tế học
Khác với khoa học tự nhiên, khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế người ta
thường áp dụng phương pháp quan sát. Điều đó là do các hiện tượng kinh tế hết sức
phức tạp, thường xuyên biến động và chịu nhiều yếu tố tác động. Khi nghiên cứu cần
phải thu thập các số liệu. Muốn biết xem lạm phát có xảy ra không, mức độ như thế
nào, thì cần phải biết được số liệu về sự tăng lên của mức giá nói chung, nền kinh tế
đang tăng trưởng hay suy thoái thì phải có số liệu về GNP, GDP....
Sau khi đã có số liệu, cần phải tiến hành phân tích với các phương pháp phân
tích thích hợp. Đời sống kinh tế luôn diễn ra hết sức phức tạp với hàng ngàn loại giá
cả và hàng triệu hộ gia đình, với vô vàn các mối quan hệ chằng chịt và đan xen với
nhau. Và để nghiên cứu được vấn đề kinh tế mà chúng ta quan tâm, chúng ta phải sử
dụng một phương pháp quan trọng đó là phương pháp trừu tượng hóa, bóc tách các
nhân tố không định nghiên cứu (cố định các nhân tố này) để xem xét các mối quan hệ
kinh tế giữa những biến số cơ bản. Khi phân tích trừu tượng như vậy, việc sử dụng
các phương pháp thống kê có ý nghĩa rất lớn.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
10
Sau đó cần rút ra những kết luận, đối chiếu với thực tế, phát hiện ra những điểm
bất hợp lý, đề ra các giả thiết mới, rồi lại kiểm nghiệm bằng thực tế để rút ra những
kết luận sát thực tế hơn với đời sống kinh tế
Tóm lại: Các nhà kinh tế học cố gằng nghiên cứu đối tượng của mình với tính
khách quan của một nhà khoa học. Cũng giống như các ngành khoa học khác, các nhà
kinh tế quan sát các sự kiện, phát triển các lý thuyết và thu thập dữ liệu để kiểm định
chúng. Việc nghiên cứu kinh tế học có một đóng góp rất lớn vào nhận thức của bạn về
thế giới và nhiều vấn đề xã hội của nó. Tiếp cận nghiên cứu kinh tế với một tư duy
mở sẽ giúp bạn hiểu được các sự kiện mà bạn chưa từng biết trước đó.
3. Tổ chức kinh tế của một nền kinh tế hỗn hợp
3.1. Ba chức năng cơ bản của một nền kinh tế
Tất cả các nền kinh tế quốc dân đều phải thực hiện ba chức năng cơ bản sau:
Chức năng thứ nhất: Sản xuất ra những hàng hóa và dịch vụ nào, với số lượng
bao nhiêu. Cơ sở của chức năng này là sự khan hiếm nguồn lực so với nhu cầu của xã
hội. Nếu một nước có số lượng không hạn chế các nguồn lực kinh tế, thì không cần
phải giải quyết vấn đề là xem sản xuất cái gì, tức là không có nhu cầu sản xuất đúng
những thứ cần thiết hay những thứ mà mọi người muốn có. Khi đó trong xã hội sẽ
thừa thãi những hàng hóa không dùng đến gây ra một sự lãng phí rất lớn. Tuy nhiên,
trong thực tế không bao giờ nguồn lực là vô hạn, chỉ có nhu cầu của con người là
ngày càng tăng lên. Nhiệm vụ chủ yếu mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng cần phải giải
quyết đó là, giảm đến mức tối thiểu sự lãng phí trong việc sản xuất ra những sản phẩm
không cần thiết và tăng cường đến mức tối đa việc sản xuất ra những sản phẩm cần
thiết. Nếu thực hiện tốt nhiệm vụ này là nền kinh tế đã sử dụng có hiệu quả nguồn lực
của mình để đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.
Chức năng thứ hai: Các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra như thế nào.
Việc lựa chọn đúng đắn vấn đề này thông thường cũng đồng nghĩa với việc sử dụng
số lượng đầu vào ít nhất để sản xuất ra một số lượng sản phẩm nhất định.
Chức năng thứ ba: Hàng hóa và dịch vụ được sản xuất cho ai hay sản phẩm
quốc dân được phân chia như thế nào cho các thành viên của xã hội.
Ba chức năng trên là những vấn đề mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng phải thực
hiện, bất kế hình thức hay trình độ của nó phát triển như thế nào. Tất cả các chức năng
này đều mang tính lựa chọn, bởi vì các nguồn lực cần thiết để sản xuất ra sản phẩm
đều khan hiếm. Sở dĩ có sự lựa chọn là do tồn tại rất nhiều các cách sử dụng nguồn
lực khác nhau trong việc sản xuất ra những sản phẩm khác nhau. Cũng như có nhiều
phương pháp khác nhau để sản xuất ra sản phẩm cụ thể và có nhiều phương pháp
khác nhau để phân phối các hàng hóa và thu nhập cho các thành viên trong xã hội.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
11
Cách thức để giải quyết ba vấn đề cơ bản nêu trên, hay thực hiện ba chức năng
cơ bản của một nền kinh tế tùy thuộc vào lịch sử, hệ tư tưởng và chính sách của từng
đất nước.
3.2. Tổ chức kinh tế của nền kinh tế hỗn hợp
Các hệ thống kinh tế khác nhau có những cách tổ chức kinh tế khác nhau để
thực hiện ba chức năng cơ bản của nền kinh tế. Trong lịch sử phát triển của loài người
cho thấy có các kiểu tổ chức kinh tế : Tập quán truyền thống; chỉ huy, thị trường, hỗn
hợp. Dù theo hình thức nào thì các nền kinh tế đều phải thực hiện tốt ba chức năng cơ
bản của mình.
Nền kinh tế tập quán truyền thống tồn tại dưới thời công xã nguyên thủy. Trong
xã hội này vấn đề sản xuất cái gì, cho ai, như thế nào được thực hiện theo thói quen,
theo kinh nghiệm, theo tập tục được truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Nền kinh tế chỉ huy (kế hoạch hóa tập trung), tại đó chính phủ đóng vai trò
quyết định tất cả trong việc sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai. Việc sản xuất ra sản
phẩm, phân phối sản phẩm không theo nhu cầu thực tế mà theo kế hoạch tập trung
thống nhất của nhà nước. Chính vì vậy sẽ dẫn đến việc lãng phí khi sử dụng nguồn
lực để sản xuất ra những sản phẩm không cần thiết, chưa đáp ứng được tối đa nhu cầu
của xã hội.
Nền kinh tế thị trường, trong đó ba chức năng cơ bản được thực hiện thông qua
cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế này, cá nhân người tiêu dùng, doanh nghiệp tác
động lẫn nhau trên thị trường để xác định một hệ thống giá cả thị trường, lợi nhuận,
thu nhập....Các doanh nghiệp sẽ sản xuất ra những mặt hàng (cái gì) đem lại lợi nhuận
cao nhất, bằng những kỹ thuật sản xuất rẻ nhất (như thế nào) và tiêu dùng của các hộ
gia đình (cho ai) được xác định bởi tiền công có được nhờ lao động và lợi tức thu
được nhờ sở hữu tài sản của mình.
Nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế kết hợp các nhân tố thị trường, chỉ huy và
truyền thống. Trong nền kinh tế này các thể chế công cộng và thể chế tư nhân đều
kiểm soát kinh tế. Thể chế tư nhân kiểm soát thông qua bàn tay vô hình của cơ chế thị
trường, còn thể chế công cộng kiểm soát thông qua những mệnh lệnh và những chính
sách nhằm kích thích về tài chính và tiền tệ của chính phủ... Trong nền kinh tế hỗn
hợp các thể chế kinh tế được chia thành bốn nhóm: người tiêu dùng, doanh nghiệp,
chính phủ, người nước ngoài.
Người tiêu dùng: là tất cả các cá nhân và hộ gia đình, họ mua hàng hóa và dịch
vụ để thỏa mãn những nhu cầu về thực phẩm, quần áo, dịch vụ, đi lại....Những hàng
hóa này được gọi là hàng tiêu dùng, vì chúng được cá nhân và gia đình tiêu dùng cho
đời sống. Cần phân biệt giữa hàng tiêu dùng với hàng tư bản (máy móc, thiết bị...) là
hàng hóa mua về để sản xuất ra những hàng hóa khác thường được Chính phủ và các
doanh nghiệp mua. Người tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn trong việc quyết định sản
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
12
xuất cái gì trong nền kinh tế, vì họ mua và tiêu dùng phần lớn sản phẩm của nền kinh
tế. Mặc dù người tiêu dùng không gặp nhau để thống nhất mua cái gì nhưng người ta
vẫn thấy rằng hành vi tiêu dùng của ho bị thúc đẩy bởi một số yếu tố chung nào đó và
có thể dự báo một cách đáng tin cậy về hành vi mua hàng của họ. Yếu tố chung nhất,
dễ nhận thấy nhất của người tiêu dùng là luôn muốn thỏa mãn tối đa nhu cầu của họ
với số thu nhập có hạn. Điều này lý giải tại sao khi đứng trước một loại hàng hóa bán
ra với những mức giá khác nhau người tiêu dùng sẽ lựa chọn hàng hóa với giá thấp
để thỏa mãn các nhu cầu khác.
Các doanh nghiệp: Người sản xuất hàng hóa và dịch vụ tư nhân giữ một vai
trò quan trọng trong vấn đề quyết định sản xuất cái gì và như thế nào. Tầm quan trọng
của vai trò này tùy thuộc vào vị trí quan hệ của các nhà sản xuất tư nhân và Chính phủ
trong từng nước. Yếu tố cơ bản nhất nhằm giải thích cho phương thức hoạt động của
các nhà sản xuất tư nhân trong nền kinh tế, dù đó là nông trại gia đình, hộ kinh doanh
thương nghiệp hay doanh nghiệp công nghiệp là mục đích kiếm được lợi nhuận cao
nhất. Nguyện vọng này không phải lúc nào cũng đúng với tất cả các nhà sản xuất
nhưng nhìn chung, đó là giả định hợp lý để dùng cho phân tích kinh tế về hành vi của
các nhà sản xuất tư nhân.
Trong nền kinh tế chỉ bao gồm hai tác nhân kinh tế chủ yếu đó là người tiêu
dùng và các doanh nghiệp (Chính phủ không can thiệp vào đời sống kinh tế) được gọi
là nền kinh tế thị trường tự do. Trong nền kinh tế này các hộ gia đình mua hàng tiêu
dùng và bán các yếu tố sản xuất. Giá cả ở thị trường hàng hóa được xác định trên cơ
sở cân đối mức cầu của người tiêu dùng và mức cung của hãng kinh doanh, còn giá cả
ở thị trường yếu tố sản xuất được xác định trên cơ sở can đối mức cầu của các hãng
kinh doanh và mức cung của ngườ tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, mọi lợi ích
riêng của từng cá nhân trong xã hội sẽ được cơ chế thị trường dẫn dắt đến chỗ đạt
được lợi ích tốt đẹp nhất cho tất cả mọi người. Tuy nhiên cơ chế thị trường có những
hạn chế và thất bại mà đòi hỏi phải có sự can thiệp quản lý của Chính phủ.
Chính phủ: Trong nền kinh tế hỗn hợp Chính phủ (Từ Trung ương tới địa
phương) vừa là người mua hàng hóa dịch vụ cũng vừa là nhà sản xuất. Ngoài những
nhiệm vụ thông thường: công an, tòa án, giáo dục, y tế...(người mua) Chính phủ còn
cung cấp các dịch vụ khác: vận tải, thông tin liên lạc, điện, nước....Với tư cách là
người sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ Chính phủ tác động vào việc sản xuất ra cái gì,
như thế nào giống như các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, với tư cách là thể chế
công cộng Chính phủ chi phối nền kinh tế phức tạp hơn các doanh nghiệp tư nhân.
Chính phủ tham gia vào nền kinh tế với ba chức năng chủ yếu: Chức năng hiệu quả;
Chức năng công bằng; Chức năng ổn định để chi phối điều tiết nền kinh tế.
Chức năng hiệu quả: Với cơ chế thị trường, nền kinh tế sẽ gặp phải tình trạng
cạnh tranh không hoàn hảo hay có nhân tố độc quyền. Một người cạnh tranh không
hoàn hảo là một người mà hành động của họ có thể ảnh hưởng đến giá cả của một mặt
hàng. Khi sức mạnh độc quyền có khả năng tác động đến giá cả của một thị trường
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
13
nào đó, thì ta sẽ thấy giá cả thường cao hơn mức hiệu quả, làm méo mó nhu cầu và
tạo ra lợi nhuận siêu ngạch cho nhà độc quyền. Chính vì vậy chính phủ có thể đề ra
những đạo luật chống độc quyền. Một trường hợp nữa cho thấy mặt không hiệu quả
của cơ chế thị trường, một doanh nghiệp hoặc cá nhân nào đó gây ra những tác động
tới xã hội nhưng lại không phải trả phí hay nhận đúng số tiền cần được trả cho những
tác động này. Ví dụ, một nhà máy điện chạy bằng than nhả khói làm ô nhiễm môi
trường xung quanh, mà không phải trả lệ phí cho những người xung quanh đó. Để hạn
chế tác động bên ngoài này, Chính phủ đề ra các luật lệ điều tiết nhằm ngăn chặn các
tác động tiêu cực. Ngoài ra Chính phủ còn phải quản lý các ngành then chốt của nền
kinh tế, trợ giá cho những mặt hàng thiết yếu : xăng dầu, điện nước...
Chức năng công bằng: Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa được phân phối
cho những người có nhiều tiền mua nhất chứ không phải theo nhu cầu lớn nhất. Như
vậy, ngay cả khi nền kinh tế hoạt động có hiệu quả thì nó cũng có thể dẫn tới sự bất
bình đẳng rất lớn trong xã hội. Người ta có nhiều tiền không phải chi do lao động giỏi,
lao động chăm chỉ mà cũng có thể là do trúng sổ số, hưởng thừa kế...Do vậy, cần phải
có chính sách phân phối lại thu nhập: sử dụng thuế lũy tiến, đánh thuế vào người giầu
cao hơn người nghèo, xây dựng hệ thống hỗ trợ thu nhập nhằm giúp đỡ cho những
người già, người tàn tật...xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Có nghĩa
là biện pháp thu thuế sẽ lấy đi một số hàng hóa của một nhóm người, thu hẹp khả
năng mua sắm của họ. Và việc chi tiêu tiền thuế cho các quỹ trơ cấp, bảo hiểm sẽ tăng
thêm việc tiêu dùng hàng hóa dịch vụ của một nhóm người khác. Chính phủ làm rất
tốt vai trò này và do đó ảnh hưởng tới việc phân phối cho ai trong nền kinh tế.
Chức năng ổn định: Ngoài hai chức năng trên Chính phủ còn có chức năng là
duy trì sự ổn định kinh tế. Lịch sử phát triển cho thấy rằng, có những thời kỳ nền kinh
tế phát triển rất mạnh, lạm phát tăng vọt nhưng cũng có thời kỳ suy thoái nặng nề với
thất nghiệp tăng cao. Đó chính là những bước thăng trầm của chu kỳ kinh doanh.
Chính phủ có thể sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để tác động đến
sản lượng, việc làm và lạm phát nhằm giảm bớt những giao động của chu kỳ kinh
doanh.
Một nền kinh tế nếu chỉ có ba tác nhân kinh tế trên thì đó là một nền kinh tế
đóng. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều có nền kinh tế mở có
thêm sự tham gia của tác nhân kinh tế nữa : Người nước ngoài
Người nước ngoài: Các doanh nghiệp, chính phủ nước ngoài tác động đến các
hoạt động kinh tế diễn ra ở một nước thông qua việc mua bán hàng hóa và dịch vụ,
vay mượn, viện trợ, đầu tư nước ngoài. Một số nước có nền kinh tế khá mở thì người
nước ngoài có vai trò quan trọng, bởi vì xuất khẩu, nhập khẩu, vay nợ, viện trợ và đầu
tư nước ngoài tác động đáng kể đến quy mô, cơ cấu và thành tựu kinh tế của những
nước này.
Tóm lại: Nền kinh tế hỗn hợp là một nền kinh tế trong đó cơ chế thị trường
xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, còn Chính phủ thì điều tiết thị
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
14
trường thông qua các chương trình thuế, chi tiêu và ban hành các luật lệ. Mô hình
“kinh tế hỗn hợp” của từng nước có thể khác nhau tùy thuộc vào mức độ can thiệp
của Chính phủ đối với thị trường.
4. Một số khái niệm liên quan cơ bản.
4.1. Yếu tố sản xuất.
Nhìn chung cái mà con người có là các yếu tố sản xuất, còn cái mà con người
cần là các sản phẩm, là hàng hóa, là dịch vụ. Quá trình biến đổi các yếu tố sản xuất
thành những thứ mà con người cần gọi là quá trình sản xuất. Yếu tố sản xuất là các
đầu vào của quá trình sản xuất và được chia thành ba nhóm:
Đất đai (theo nghĩa rộng) bao gồm toàn bộ đất dùng cho canh tác, xây dựng
nhà ở, đường sá...và tài nguyên thiên nhiên: than, quặng, cây lấy gỗ....
Lao động: là năng lực của con người được sử dụng theo một mức độ nhất định
trong quá trình sản xuất. Người ta đo lao động bằng thời gian của người lao động sử
dụng trong quá trình sản xuất.
Tài sản cố định: là những hàng hóa như máy móc, đường sá, nhà xưởng....được
sản xuất ra để rồi lại được sử dụng để sản xuất ra những hàng hóa khác. Việc tích lũy
các tài sản này trong nền kinh tế có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao
hiệu quả sản xuất.
Trong nền kinh tế hiện đại, nhiều nhà kinh tế cho rằng quản lý và công nghệ
cũng là đầu vào, một yếu tố sản xuất.
4.2.Giới hạn khả năng sản xuất.
Nguồn lực là luôn luôn khan hiếm, nhưng nhu cầu của con người ngày càng
tăng. Để đáp ứng được nhu cầu của xã hội, nền kinh tế phải sử dụng có hiệu quả
nguồn lực khan hiếm. Ta hãy xét một nền kinh tế với số lượng các yếu tố sản xuất và
trình độ công nghệ cho trước (có giới hạn). Khi sản xuất cái gì, như thế nào nền kinh
tế này phải quyết định xem các yếu tố hạn chế này được phân phối như thế nào giữa
hàng ngàn, hàng vạn các loại hàng hóa khác nhau có thể được sản xuất.
Ví dụ: Một nền kinh tế với nguồn lực hạn chế của mình chỉ sản xuất hai loại
hàng hóa : thực phẩm và quần áo. Ta có bảng 1.1 trình bày những khả năng thay thế
khác nhau giữa quần áo và thực phẩm.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
15
Khả năng Thực phẩm (tấn) Quần áo (bộ)
A 0 7,5
B 1 7
C 2 6
D 3 4,5
E 4 2,5
F 5 0
Bảng 1.1: Những khả năng sản xuất thay thế khác nhau
Biểu diễn những khả năng này trên đồ thị và nối những điểm này lại ta được
đường giới hạn khả năng sản xuất.
Hình 1.1
L¬ng thùc
QuÇn ¸ o
6,0
4,5
3,0
1,5
0,0 1 2 3 4 5
7,5 A
B
C
D
E
F
N*
M*
Trong hình 1.1, dọc theo đường từ A đến B,C.... xã hội ngày càng có ít quần áo
và nhiều lương thực hơn. Việc chuyền quần áo thành lương thực được thực hiện thiện
thông qua việc chuyển tài nguyên được sử dụng trong việc sản xuất ra quần áo sang
sản xuất lương thực. Trong ví dụ này ta đã ngầm định là nền kinh tế đang ở trên
đường giới hạn khả năng sản xuất của mình ( sử dụng hết tài nguyên) và khi đó ta nói
nền kinh tế đang hoạt động có hiệu quả. Như vậy, một nền kinh tế có hiệu quả khi nó
không thể tăng sản lượng một loại hàng hóa mà không cắt giảm sản lượng một loại
hàng hóa khác. Những điểm nằm ở phía trong đường giới hạn khả năng sản xuất (như
điểm M ) là điểm thể hiện nền kinh tế chưa đạt hiệu quả, là do sử dụng không hết
nguồn tài nguyên hoặc do một yếu tố nào đó về mặt công nghệ, về chính trị hoặc độc
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
16
quyền, khiến không thể kết hợp một cách có hiệu quả các yếu tố đầu vào của sản xuất.
Những điểm nằm ngoài đường giới hạn khả năng sản xuất (như điểm N) là không thể
đạt được của nền kinh tế vì không đủ nguồn lực.
Xét trong một khoảng thời gian nhất định, chẳng hạn một năm thì mỗi nền kinh
tế đều có một đường giới hạn khả năng sản xuất tiềm tàng của mình. Theo thời gian,
số lượng các yếu tố sản xuất và công nghệ có thể thay đổi, nên bản thân đường giới
hạn khả năng sản xuất có thể thay đổi dịch chuyển ra ngoài hoặc vào trong.
4.3. Chi phí cơ hội
Do các nguồn tài nguyên là khan hiếm nên xã hội hoặc từng con người luôn
luôn phải lựa chọn xem sẽ tiến hành những hoạt động cụ thể gì trong những hoạt động
có thể được tiến hành: đọc một quyển truyện hay, xem một bộ phim truyền hình, nghỉ
hè hay đi làm thêm để kiếm tiền....Trong những trường hợp này, khi chúng ta quyết
định làm một việc gì đó, tức là đã bỏ mất cơ hội để làm các việc khác và khả năng
việc khác đó mất đi được gọi là chi phí cơ hội.
Ví dụ: Giả sử bạn có 300 nghìn đồng, bạn có thể mua một chiếc quạt bàn hoặc
mua một đôi giày mới. Nếu bạn quyết định mua chiếc quạt bàn thì ta có thể nói rằng
chi phí cơ hội của chiếc quạt bàn là đôi giày mới.
Khái niệm chi phí cơ hội có thể được minh họa thông qua giới hạn khả năng
sản xuất. Trở lại đường giới hạn khả năng sản xuất ở hình 1.1. Giả sử nước này muốn
sản xuất thêm quần áo từ 4,5 nghìn bộ ở điểm D lên 6 nghìn bộ ở điểm C. Chi phí cơ
hội của quyết định này là gì? Đó là lượng lương thực bị mất đi để có nguồn lực sản
xuất thêm quần áo. Và chi phí cơ hội của 1,5 nghìn bộ quần áo chính là 1 tấn lương
thực. Chi phí cơ hội của một quyết định là giá trị hàng hóa hoặc dịch vụ bỏ qua khi
chúng ta lựa chọn quyết định đó và bỏ qua các quyết định khác trong điều kiện khan
hiếm các yếu tố thực hiện quyết định.
Khái niệm chi phí cơ hội cho thấy rằng các chi phí tính bằng số tiền thực tế bỏ
ra không phải luôn là một số phản ánh chính xác các chi phí thực tế. Ví dụ, với quyết
định đi học đại học, chi phí của việc đi học được tính toán như thế nào. Nếu bạn quyết
định đi học đại học, bạn có thế tính toán toàn bộ chi phí ăn ở, học phí, đi lại...trong
một năm là 5.000.000đ. Vậy đã hết chi phí của việc học đại học trong một năm? Chưa
hết chúng ta phải tính cả chi phí cơ hội của việc đi học đại học, đó chính là thời gian
thay vì học bạn có thể đi làm kiếm tiền. Nếu bạn đi làm có thể kiếm được
5.000.000đ/năm thì như vậy chi phí cho việc đị học lúc này của bạn không còn là
5.000.000đ nữa mà là 10.000.000đ.
4.4. Một số khái niệm khác
a) Tổng sản phẩm quốc dân và sự tăng trưởng kinh tế.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
17
Tổng sản phẩm quốc dân (GDP) là giá trị của toàn bộ hàng hóa và dịch vụ mà
một quốc gia sản xuất ra trong một thời gian nhất định. Tổng sản phẩm quốc dân là
thước đo cơ bản hoạt động của nền kinh tế.
Tổng sản phẩm tính theo giá hiện hành gọi là tổng sản phẩm danh nghĩa
(GNPn).
Tổng sản phẩm tính theo giá cố định gọi là tổng sản phẩm thực tế (GNPr).
Tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa thường tăng nhanh hơn tổng sản phẩm
quốc dân thực tế. Sự khác nhau đó là do giá cả của hàng hóa và dịch vụ tăng lên, nói
cách khác là do có lạm phát. Còn tổng sản phẩm quốc dân thực tế tăng lên là do hai
nguyên nhân chủ yếu sau:
- Số lượng nguồn lực (tư bản, lao động, tài nguyên) trong nền kinh tế đã tăng
lên.
- Hiệu quả sử dụng nguồn lực đó cũng tăng lên
Tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc dân thực tế gọi là tỷ lệ tăng trưởng. Hay nói
cách khác, khi nói tăng trưởng kinh tế là đã hàm ý tăng tổng sản phẩm quốc dân thực
tế (GNPr).
b) Chu kỳ kinh tế (kinh doanh) và sự thiếu hụt sản lượng.
Nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển tiêu biểu thường phải chống
đối với vấn đề chu kỳ kinh tế. Liên quan đến chu kỳ kinh tế là sự đình trệ sản xuất,
thất nghiệp và lạm phát.
Chu kỳ kinh tế là sự giao động của GNP thực tế xung quanh xu hướng tăng lên
của sản lượng tiềm năng.
Độ lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế gọi là sự thiếu hụt sản
lượng.
Nghiên cứu sự thiếu hụt sản lượng giúp cho việc tìm ra những biện pháp chống
lại chu kỳ kinh tế nhằm ổn định kinh tế.
c) Tăng trưởng, thất nghiệp và lạm phát
Khi một nền kinh té có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một nguyên nhân là đã sử dụng
tốt hơn lực lượng lao động. Như vậy tăng trưởng nhanh thì thất nghiệp có xu hướng
giảm đi. Bên cạnh đó, khi tăng trưởng cao thì lạm phát lại có xu hướng tăng lên và
ngược lại. Muốn giảm lạm phát trong thời kỳ ngắn thì các chính sách kinh tế đều
hướng vào việc thắt chặt chi tiêu, giảm tổng cầu và do đó nền kinh tế phải trải qua
một thời kỳ đình đốn, suy thoái và thất nghiệp. Mặt khác, trong thời kỳ ngắn lạm phát
càng cao thì thất nghiệp sẽ giảm. Các mối quan hệ tăng trưởng-lạm phát, lạm phát-
thất nghiệp, tăng trưởng-thất nghiệp đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả chưa có câu
trả lời rõ ràng, nhưng các mối quan hệ này là căn cứ để chính phủ đưa ra các chính
sách kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ cụ thể của nền kinh tế.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
18
5.Hệ thống kinh tế vĩ mô
Có nhiều cách mô tả hoạt động của nền kinh tế. Theo cách tiếp cận hệ thống,
nền kinh tế được xem như là một hệ thống-gọi là hệ thống kinh tế vĩ mô. Hệ thống
này được mô tả đặc trưng bởi ba yếu tố: Đầu vào, đầu ra và hộp đen kinh tế vĩ mô.
Các yếu tố đầu vào bao gồm những tác động từ bên ngoài như thời tiết, dân số, chiến
tranh...hay những tác động của các chính sách của nhà nước nhằm điều chỉnh hộp đen
kinh tế vĩ mô để đạt được các muc tiêu đã định trước. Các yếu tố đầu ra bao gồm: sản
lượng, việc làm, giá cả....Là kết quả hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô. Yếu tố
trung tâm của hệ thống kinh tế vĩ mô là hộp đen kinh tế vĩ mô. Hoạt động của hộp đen
như thế nào sẽ quyết định chất lượng của các biến đầu ra. Hai lực lượng quyết định
hoạt động của hộp đen là tổng cung (AS) và tổng cầu (AD).
5.1.Tổng cung (AS)
Tổng cung bao gồm tổng khối lượng sản phẩm quốc dân mà các doanh nghiệp
sẽ sản xuất và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất và chi
phí sản xuất đã cho. Lượng tổng cung phụ thuộc vào quyết định của các doanh nghiệp
trong việc sử dụng lao động và các đầu vào khác để sản xuấ ra hàng hóa, dịch vụ bán
cho các tác nhân trong nền kinh tế. Tổng cung liên quan đến sản lượng tiềm năng. Sản
lượng tiềm năng là sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể sản xuất trong điều kiện
toàn dụng nhân công mà không gây nên lạm phát. Tổng cung phụ thuộc vào giá cả và
chi phí. Khi giá cả và chi phí sản xuất thấp, các doanh nghiệp có thể sản xuất ít hơn
sản lượng tiềm năng nhưng với mức giá cao hơn thì ngược lại. Tuy nhiên các doanh
nghiệp luôn muốn tăng sản lượng của mình để đạt được sản lượng tiềm năng. Do vậy
ngoài giá cả và chi phí, tổng cung còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố làm tăng sản
lượng tiềm năng : lao động, vốn, tài nguyên, công nghệ...
Đường biểu diễn tổng cung trên đồ thị là đường có hướng dốc lên về phía phải.
Cần phân biệt đường tổng cung trong ngắn hạn và trong dài hạn. Trong dài hạn, tổng
cung là một đường song song với trục tung và cắt trục hoành ở mức sản lượng tiềm
năng. Điều này cho thấy, trong dài hạn chi phí đầu vào đã điều chỉnh thì các doanh
nghiệp không còn động lực để tăng sản lượng. Giá cả sẽ tăng lên nhanh chóng để đáp
ứng với sự thay đổi của tổng cầu. Do đó mà đường cung dài hạn sẽ thẳng đứng (hình
1.2a).
Trong ngắn hạn tổng cung là một đường ban đầu tương đối nằm ngang, khi
vượt qua điểm sản lượng tiềm năng đường tổng cung sẽ dốc ngược lên. Điều này nói
lên rằng, ở dưới mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ về giá cả đầu ra sẽ
khuyến khích các doanh nghiệp tăng nhanh sản lượng để đáp ứng nhu cầu đang tăng
lên. Sở dĩ họ làm như vậy vì trong khoảng thời gian ngắn đứng trước giá đầu vào cố
định họ có thể đồng thời tăng sản lượng và tăng giá để thu lợi nhuận.(hình 1.2b)
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
19
H×nh 1.2a
S¶n l î ng thùc tÕ
M
øc
g
i¸ AS
S¶
n
l
în
g
tiÒ
m
n
¨n
g
H×nh 1.2b
S¶n l î ng thùc tÕ
M
øc
g
i¸ AS
S¶
n
l
în
g
tiÒ
m
n
¨n
g
P
Q
P
Q
5.2.Tổng cầu (AD)
Tổng cầu là tổng khối lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng (tổng sản phẩm
quốc dân) mà các tác nhân trong nền kinh tế sẽ sử dụng tương ứng với mức giá cả, thu
nhập và các biến số kinh tế khác đã cho. Tổng cầu phụ thuộc vào giá cả, thu nhập của
công chúng, vào dự đoán của các hãng kinh doanh về tình hình kinh tế cũng như các
biến chính sách khác như thuế, chi tiêu của chính phủ, khối lượng tiền tệ và lãi suất.
Đường biểu diễn tổng cầu trên đồ thị có độ dốc xuống. Điều này hàm ý khi
mức giá chung giảm đi, khối lượng chi tiêu của toàn bộ nền kinh tế có xu hướng tăng
lên. Nguyên nhân dẫn đến điều đó là do khi giá cả giảm, thu nhập thực tế của công
chúng tăng lên, tiêu dùng thực tế sẽ cao hơn, tổng cầu do đó cao hơn.
Hình 1.3
P
Q
AD
5.3. Cân bằng tổng cung, tổng cầu.
Nếu ghép hai mặt của nền kinh tế - mặt cung và mặt cầu lại với nhau bằng
cách đưa hai đồ thị AD và AS vào cùng một hệ trục tọa độ, ta sẽ thấy hai đường đó
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
20
cắt nhau tại môt điểm E. Điểm E gọi là điểm cân bằng của nền kinh tế mà tại đó tổng
khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà các doanh nghiệp sản xuất và bán ra đúng bằng
khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà nền kinh tế có nhu cầu sử dụng. Tại điểm cân
bằng tổng cung bằng tổng cầu, nói cách khác toàn bộ nhu cầu của nền kinh tế được
các doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ. Giao điểm của của hai đường AS và AD xác định
mức giá cân bằng P0 và sản lượng cân bằng Y0 .
Cần phân biệt sự di chuyển theo đường tổng cung, tổng cầu và sự dịch chuyển
toàn bộ hai đường đó trong hệ trục.
Sự di chuyển theo đường AS và AD biểu thị những thay đổi trong tổng mức
cung hoặc tổng mức cầu tùy thuộc vào giá cả thay đổi.
Sự dịch chuyển toàn bộ đường AS hoặc AD biểu thị những thay đổi của tổng
cung hoặc tổng cầu phụ thuộc vào các tác động của các biến số khác. Đường tổng cầu
dịch chuyển sang trái hoặc sang phải chủ yếu tùy thuộc vào tác động của các biến
chính sách như thuế, chi tiêu của chính phủ, lãi suất...Đường tổng cung dịch chuyển
sang trái hoặc sang phải phụ thuộc vào các tác động của lao động, tài nguyên, kỹ thuật
và chi phí đầu vào khác. Khi nghiên cứu tác động của yếu tố nào đó đến AD hoặc AS
người ta thường cố định những nhân tố khác làm cho việc phân tích trở nên dễ dàng
hơn.
6. Mục tiêu và công cụ trong nền kinh tế vĩ mô
6.1. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một đất nước thường được đánh giá theo 3 dấu
hiệu chủ yếu: ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội. Sự ổn định kinh tế là kết quả
của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế cấp bách như lạm phát, suy thoái, thất
nghiệp trong thời kỳ ngắn hạn. Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi giải quyết tốt những vấn
đề dài hạn hơn, có liên quan đến tằng trưởng kinh tế. Công bằng trong xã hội vừa là
vấn đề xã hội, vừa là vấn đề kinh tế. Để có thể đạt được sự ổn định, tăng trưởng và
công bằng, các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới các mục tiêu cụ thể sau:
a) Mục tiêu sản lượng:
- Đạt được sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức sản lượng tiềm năng
- Tốc độ tăng trưởng cao và bền vững
b) Mục tiêu việc làm
- Tạo được nhiều việc làm tốt
- Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp (duy trì ở mức thất nghiệp tự nhiên)
c) Mục tiêu ổn định giá cả
- Hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do.
d) Mục tiêu kinh tế đối ngoại:
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
21
- Ổn định tỷ giá hối đoái
- Cân bằng cán cân thanh toán
e) Phân phối công bằng
Một số nước coi mục tiêu phân phối công bằng là một trong các mục tiêu quan
trọng. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các mục tiêu trên chúng ta cần lưu ý:
Những mục tiêu trên đây thể hiện trạng thái lý tưởng trong đó sản lượng đạt ở
mức toàn dụng nhân công, lạm phát thấp, cán cân thanh toán cân bằng và tỷ giá hối
đoái là không đổi. Trong thực tế, các chính sách kinh tế vĩ mô chỉ có thể tối thiểu hóa
các sai lệch thực tế so với trạng thái lý tưởng.
Các mục tiêu trên thường bổ sung cho nhau, trong chừng mực chúng hướng vào
việc đảm bảo tăng trưởng sản lượng của nền kinh tế. Song trong một số trường hợp có
thể xuất hiện các mâu thuẫn, xung đột cục bộ. Lúc đó các nhà hoạch định chính sách
cần phải lựa chọn thứ tự ưu tiên và đôi khi phải chấp nhận một sự hy sinh nào đó
trong một thời kỳ ngắn.
Về mặt dài hạn, thứ tự ưu tiên giải quyết các mục tiêu trên đây cũng khác nhau
giữa các nước. Ở các nước đang phát triển tăng trưởng thường có vị trí ưu tiên số 1.
Tuy nhiên nhiều nước đã thành công trong việc giải quyết đồng thời các mục tiêu kinh
tế trong quá trình phát triển của mình.
6.2. Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu
Để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã nêu, Nhà nước có thể sử dụng nhiều
công cụ chính sách khác nhau. Mỗi chính sách lại có những công cụ riêng biệt.
a) Chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chính phủ để
hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tài khóa
có hai công cụ chủ yếu là chi tiêu của Chính phủ và thuế. Chi tiêu của chính phủ có
ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô chi tiêu công cộng, do đó có thể tác động trực tiếp tới
tổng cầu và sản lượng. Thuế làm giảm các khoản thu nhập, do đó làm giảm chi tiêu
của khu vực tư nhân, từ đó cũng tác động đến tổng cầu và sản lượng. Thuế khóa cũng
có thể tác động tới đầu tư và sản lượng về mặt dài hạn. Về mặt ngắn hạn chính sách
tài khóa có tác động đến sản lượng thực tế và lạm phát phù hợp với mục tiêu ổn định
kinh tế. Về mặt dài hạn chính sách tài khóa có thể tác động điều chỉnh cơ cấu kinh tế
giúp cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài.
b) Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ chủ yếu nhằm tác động đến đầu tư tư nhân hướng nền kinh tế
vào mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ
yếu là lượng cung về tiền và lãi suất. Khi Ngân hàng trung ương thay đổi lượng cung
về tiền thì lãi suất thay đổi tăng hoặc giảm sẽ tác động tới đầu tư tư nhân, do vậy ảnh
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
22
hưởng tới tổng cầu và sản lượng. Chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến GNP
thực tế về mặt ngắn hạn, song do tác động đến đầu tư nên nó cũng ảnh hưởng lớn đến
GNP trong dài hạn
c) Chính sách thu nhập
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các biện pháp mà Chính phủ sử dụng
nhằm tác động trực tiếp đến tiền công giá cả để kiềm chế lạm phát. Chính sách này sử
dụng nhiều loại công cụ, từ các công cụ có tính chất cứng rắn như giá, lương, những
chỉ dẫn chung để ấn định tiền công và giá cả, những quy tắc pháp lý rằng buộc sự thay
đổi giá cả và tiền công ...đến những công cụ mềm dẻo hơn như việc hướng dẫn,
khuyến khích bằng thuế thu nhập...
d) Chính sách kinh tế
Chính sách kinh tế đối ngoại trong các nước thị trường mở là nhằm ổn định tỷ
giá hối đoái và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp nhận được.
Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho hối đoái cân bằng, các quy định về
hàng rào thuế quan bảo hộ mậu dịch và cả những biện pháp tài chính và tiền tệ khác,
tác động vào hoạt động xuất khẩu.
Trên đây là tập hợp các chính sách và công cụ chính sách chủ yếu mang sắc
thái lý thuyết phù hợp với nền kinh tế thị trường đã phát triển. Trong thực tế, biểu
hiện và sự vận dụng các chính sách này rất đa dạng đặc biệt là ở các nước có nền kinh
tế đang phát triển. Trong các chương sau chúng ta sẽ nghiên cứu
7. Câu hỏi ôn tập
Câu 1: Tổng cầu là gì? Vì sao đường tổng cầu là đường dốc xuống?
Câu 2: Phân biệt tổng cung dài hạn và tổng cung ngắn hạn?
Câu 3: Bạn nhận được 1 triệu đồng trong trò chơi cá cược bóng đá. Bạn có thể
chọn cách tiêu tiền ngay hoặc để dành sau một năm bằng cách gửi tiết kiệm với lãi
suất 10%. Chi phí cơ hội của việc tiêu ngay 1 triệu đồng là gì?
Câu 4: Theo bạn, trong các mục tiêu kinh tế vĩ mô mục tiêu nào là quan trọng
nhất đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay? Thứ tự ưu tiên các mục tiêu là như
thế nào?
Câu 5: Công ty do bạn quản lý đã đầu tư 5 tỷ đồng để đưa ra thị trường một sản
phẩm mới, nhưng quá trình chưa hoàn tất. Trong một cuộc họp gần đây, các nhân viên
bán hàng của bạn thông báo rằng sự xuất hiện của các sản phẩm cạnh tranh sẽ làm
giảm doanh thu dự kiến của sản phẩm mới xuống còn 3 tỷ đồng. Nếu chi phí để hoàn
tất quá trình triển khai và chế tạo sản phẩm là 1 tỷ đồng, thì bạn có nên tiếp tục phát
triển sản phẩm đó nữa không? Mức chi phí cao nhất mà bạn có thể trả để hoàn tất quá
trình triển khai là bao nhiêu?
Câu 6: Hãy trình bày sự đánh đổi mà các tác nhân sau đây phải đối mặt
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
23
a) Gia đình bạn cần đưa ra quyết định có nên mua một chiếc ô tô mới hay
không
b) Một đại biểu quốc hội cần quyết định chi tiêu bao nhiêu cho các công viên
quốc gia.
c) Một giám đốc công ty đang cân nhắc xem có nên khai trương một nhà máy
mới không
d) Một vị giáo sư cần quyết định sử dụng bao nhiêu thời gian để chuẩn bị bài
giảng
Câu 7: Bạn đang cân nhắc xem có nên đi nghỉ mát hay không. Hầu hết chi phí
của kỳ nghỉ (vé máy bay, khách sạn, tiền lương không được nhận) được tính bằng
tiền, nhưng lợi ích của kỳ nghỉ lại có tính chất tâm lý. Bạn so sánh các lợi ích và chi
phí này như thế nào?
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
24
Chương II
TỔNG SẢN PHẨM VÀ THU NHẬP QUỐC DÂN
Khi nghiên cứu các mục tiêu kinh tế vĩ mô chúng ta đã coi sản lượng là một
trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá thành tựu của một nền kinh tế. Mức sản
lượng cao hay thấp có liên quan đến mức giá cả, việc làm, lãi suất và những biến số
kinh tế vĩ mô khác. Vì vậy, chương này sẽ trình bày khái niệm, phương pháp tính
toán, đo lường tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân và mối liên hệ giữa các chỉ tiêu
tổng sản phẩm, thu nhập quốc dân và các đồng nhất hình thức kinh tế vĩ mô cơ bản.
1.Tổng sản phẩm quốc dân, thước đo thành tựu của nền kinh tế
1.1. Các khái niệm cơ bản
b) Khái niệm tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
Khái niệm : Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là một chỉ tiêu đo lường tổng giá
trị bằng tiền của các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất trong
một thời kỳ (thường lấy là 1 năm) bằng các yếu tố sản xuất của mình .
Như vậy, tổng sản phẩm quốc dân (GNP) đánh giá kết quả của hàng triệu giao
dịch và hoạt động kinh tế do công dân của một nước tiến hành trong một thời kỳ nhất
định. Đó chính là con số đạt được khi dùng thước đo tiền tệ tính toán giá trị của các
hàng hóa khác nhau mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, Chính phủ mua sắm và
tiêu dùng trong một thời kỳ nhất định. Những hàng hóa và dịch vụ đó là các hàng hóa
và dịch vụ tiêu dùng cuối cùng của các hộ gia đình; thiết bị, nhà xưởng mua sắm và
xây dựng lần đầu của các hãng kinh doanh; nhà mới xây dựng; hàng hóa và dịch vụ
mà các cơ quan quản lý nhà nước mua sắm và phần chênh lệch giữa hàng hóa xuất
khẩu và nhập khẩu.
Dùng thước đo tiền tệ để đo lường giá trị sản phẩm là thuận lợi vì thông qua giá
cả thị trường chúng ta có thể cộng giá trị của các loại hàng hóa có hình thức, nội dung
vật chất khác nhau : cam, chuối, xe hơi, tầu du hành vũ trụ...Nhờ vậy, có thể đo lường
kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh tế chỉ bằng một con số, một tổng lượng duy
nhất.
b)Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Khái niệm : Tổng sản phẩm quốc nội đo lường giá trị thị trường của tất cả các
hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia,
trong thời kỳ nhất định (thường là 1 năm).
Như vậy, GDP là kết quả của hàng triệu triệu hoạt động kinh tế xảy ra bên
trong lãnh thổ của đất nước. Những hoạt động này có thể do công ty, doanh nghiệp
của công dân nước đó hay công dân nước ngoài sản xuất tại nước đó. Nhưng GDP
không bao gồm kết quả hoạt động của công dân nước sở tại tiến hành ở nước ngoài.
Đây là một phân biệt có ý nghĩa để phân biệt giữa GDP và GNP.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
25
Trong thực tế, một hãng kinh doanh của nước ngoài sở hữu một nhà máy ở
nước ta, dưới hình thức bỏ vốn đầu tư hay liên doanh với các công ty ở nước ta, thì
một phần lợi nhuận của họ sẽ chuyển về nước họ để chi tiêu hay tích lũy. Ngược lại,
công dân nước ta sinh sống và làm việc ở nước ngoài cũng gửi một phần thu nhập về
nước. Tuy vậy phần lớn các khoản thu nhập chu chuyển giữa các nước không phải là
thu nhập từ lao động mà là thu nhập từ lãi tiền gửi, lãi cổ phần, lợi nhuận....Khi hạch
toán người ta thường dùng thuật ngữ “thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài” để chỉ
phần chênh lệch giữa thu nhập của công dân nước sở tại ở nước ngoài và công dân
nước ngoài ở nước sở tại. Đây là dấu hiệu để nhận biết mối quan hệ giữa GNP và
GDP mà chúng ta sẽ nghiên cứu.
Để hiểu một cách thấu đáo khái niệm GDP cần phải lưu ý tới nội dung chuyền
tải trong các cụm từ:
“GDP là giá trị thị trường”: hàm ý là mọi hàng hóa và dịch vụ tạo ra trong nền
kinh tế đều được quy về giá trị tính bằng tiền hay tính theo giá cả của hàng hóa được
người mua và người bán chấp nhận trên thị trường hàng hóa và dịch vụ.
“Tất cả” : GDP tìm cách tính toán tất cả các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất
và bán hợp pháp trên thị trường. GDP không tính tới các giá trị giao dịch ngầm
“Cuối cùng” : Nhấn mạnh rằng GDP chỉ bao gồm những hàng hóa và dịch vụ
cuối cùng.
“Hàng hóa và dịch vụ” :Bao gồm cả hàng hóa hữu hình và vô hình
“Được sản xuất ra”: Sản xuất ra vào kỳ nào thì được tính vào kỳ đó
“Trong phạm vi lãnh thổ quốc gia”: theo vị trí địa lý
“Trong một thời kỳ nhất định” : Thường là 1 năm
c) Tổng sản phẩm quốc dân ròng. (NNP)
Tổng sản phẩm quốc dân ròng (NNP) là phần GNP còn lại sau khi trừ đi khấu
hao. Như đã biết các tư liệu lao động bị hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Sau khi
tiêu thụ sản phẩm các doanh nghiệp phải bù đắp ngay phần hao mòn này. Chúng
không trở thành nguồn thu nhập của các cá nhân, xã hội và chúng không tham gia vào
quá trình phân phối cho các thành viên trong xã hội. Như vậy, không phải tổng đầu
mà là đầu tư ròng cùng với chi tiêu của các hộ gia đình, chính phủ và xuất khẩu ròng
mới là những bộ phận quyết định tốc độ tăng trưởng, nâng cao mức sống người dân.
Những bộ phận này tạo nên tổng sản phẩm quốc dân ròng NNP. Tuy nhiên, việc xác
định tổng mức khấu hao trong nền kinh tế đòi hỏi nhiều thời gian và rất phức tạp. Vì
vậy, để đáp ứng nhu cầu phân tích và tránh phiền phức và đạt hiệu quả trong việc
nghiên cứu các nhà kinh tế thường sử dụng GNP.
d) Thu nhập quốc dân (Y) và thu nhập có thể sử dụng (YD)
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
26
Nếu lấy tổng sản phẩm quốc dân ròng trừ đi phần thuế gián thu (Te) ta được chỉ
tiêu thu nhập quốc dân ròng (Y). Thu nhập quốc dân phản ánh tổng số thu nhập từ các
yếu tố sản xuất: lao động, vốn, đất đai,tài nguyên, khả năng quản lý...của nền kinh tế
hay đồng thời cũng là thu nhập của tất cả các hộ gia đình (các cá nhân) trong nền kinh
tế. Thu nhập quốc dân chính bằng tổng sản phẩm quốc dân ròng trừ đi phần thuế
gián thu.
Y = W + i + r + л (2.1)
Trong đó : Chi phí tiền công, tiền lương là : W
Chi phi thuê vốn (lãi suất) i
Chi phí thuê nhà, thuê đất r
Lợi nhuận л
Hay: Y = GNP – Khấu hao (H) – Thuế giá thu (Te) (2.1.1)
Y = NNP – Te (2.1.2)
Tuy thu nhập quốc dân là chỉ tiêu phản ánh thu nhập từ tất cả các yếu tố của
nền kinh tế, do vậy đã phản ánh mức sống của dân cư. Nhưng để dự đoán khả năng
tiêu dùng và tích lũy của dân cư, các nhà kinh tế phải dựa vào chỉ tiêu trực tiếp hơn
tác động đến tiêu dùng và tích lũy. Đó là thu nhập có thể sử dụng(YD)
Thu nhập có thể sử dụng (YD) là phần thu nhập quốc dân còn lại sau khi các
hộ gia đình nộp lại các loại thuế trực thu(Td) và nhận được các khoản trợ cấp(Tr)
của Chính phủ hoặc doanh nghiệp.
YD = Y- Td + Tr (2.2)
Thuế trực thu (Td) chủ yếu là các loại thuế đánh vào thu nhập do lao động, thu
nhập do thừa kế tài sản, thu nhập do trung số, các loại đóng góp của cá nhân như bảo
hiểm xã hội, lệ phí giao thông....Thu nhập của các hộ gia đình kinh doanh cá thể hay
chung vốn cũng là một dạng bị đánh thuế trực thu và phải trừ ra khỏi thu nhập quốc
dân. Tương tự các loại thuế lợi tức đánh vào các công ty cổ phần và phần lợi nhuận
không chia của các công ty để lại để tích lũy tái sản xuất mở rộng cũng không nằm
trong thành phần của thu nhập có thể sử dụng (YD).
Toàn bộ thu nhập có thể sử dụng (YD) chỉ bao gồm thu nhập mà các hộ gia
đình có thể tiêu dùng (C) và để dành hay tiết kiệm (S).
YD = C + S (2.3)
Qua các khái niệm trên chúng ta có thể tổng hợp mối quan hệ giữa các chỉ
tiêu GNP, GDP, NNP, Y, YD thành sơ đồ như sau:
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
27
Thu nhập ròng
từ tài sản nước
ngoài
Thu nhập ròng
từ tài sản nước
ngoài
Khấu hao
NX Te
G Td-Tr
I
GNP C GDP NNP Y YD
Sơ đồ 2.1: Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu tổng sản phẩm và thu nhập
1.2. Biến danh nghĩa và biến thực tế
Như chúng ta đã biết, tính toán GDP hay GNP bằng giá cả thị trường có thể
tính toán toàn bộ giá trị của các hàng hóa và dịch vụ khác nhau của nền kinh tế.
Nhưng giá cả lại là một thước đo co dãn. Lạm phát thường đưa mức giá chung lên
cao. Do vậy, GNP tính bằng tiền có thể tăng nhanh chóng khi giá trị thực của tổng sản
phẩm tính bằng hiện vật có thể không tăng hoặc tăng rất ít. Để khắc phục nhược điểm
này các nhà kinh tế sử dụng biến danh nghĩa và biến thực tế
a. GNP danh nghĩa (GNPn)
GNPn đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo giá
hiện hành, tức là sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ nào thì tính giá của thời kỳ đó.
GNPnt = ∑ Qit . Pit (2.4)
Trong đó: i: biểu thị loại sản phẩm thứ i
t: biểu thị thời kỳ tính toán
Q: Số lượng sản phẩm
P: Giá của sản phẩm
Nếu thống kê cho thấy GNPn của năm sau cao hơn năm trước, điều này cho
thấy rằng nền kinh tế đã sản xuất ra một số lượng sản phẩm lớn hơn năm trước hoặc
giá bán cao hơn năm trước. GNPn không cho chúng ta biết sự gia tăng của nó chủ yếu
là do đóng góp của sự gia tăng về số lượng hay giá cả. Các nhà kinh tế muốn có một
chỉ tiêu về tổng lượng hàng hóa và dịch vụ được nền kinh tế tạo ra mà không chịu tác
động bởi sự thay đổi của giá cả. Và họ đã sử dụng một chỉ tiêu khác: GNP thực tế
b. GNP thực tế (GNPr)
GNPr đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo giá
cả cố định ở một thời kỳ được lấy làm gốc
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
28
GNPr = ∑ Qit . P0t (2.5)
Trong đó: P0t là giá của sản phẩm thứ i tại năm gốc
Nếu thống kê GNPr cho thấy GNPr năm sau cao hơn năm trước thì đây chỉ
thuần túy là sự biến động về sản lượng năm sau đã cao hơn năm trước còn giá cả đã
được cố định tại năm gốc
Mục tiêu tính toán GNPr là để nắm bắt được hiệu quả hoạt động của toàn bộ
nền kinh tế. GNPr phản ánh lượng hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong nền kinh tế
nên nó cũng cho biết năng lực thỏa mãn các nhu cầu và mong muốn của dân cư trong
nền kinh tế. Do đó, GNPr phản ánh kết quả của nền kinh tế tốt hơn GNPn
Cầu nối giữa GNPn và GNPr là chỉ số giá cả, còn gọi là chỉ số lạm phát (D) tính
theo GNP. Chỉ số giá D đo lường mức giá trung bình của tất cả các hàng hóa và dịch
vụ được tính trong GNP. Nó phản ánh mức giá hiện hành so với mức giá năm cơ sở,
và cho biết sự biến động về giá cả làm thay đổi GNPn
GNPn
D = --------- . 100 (2.7)
GNPr
GNPn
Hay GNPr = -------- (2.7.1)
D
Sau khi đã loại trừ sự biến động về giá cả, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế (g) là
tỷ lệ % thay đổi của GNPr của thời kỳ này so với thời kỳ trước
GNPrt - GNPrt-1
gt = ---------------------- .100 (2.8)
GNPrt-1
1.3. Mối quan hệ giữa GNP và GDP
Một quốc gia cũng giống như một doanh nghiệp luôn tìm cách đo lường kết quả
hoạt động của mình sau mỗi thời kỳ nhất định. Tuy vậy, doanh nghiệp quan tâm nhiều
hơn đến lợi nhuận thu được. Lợi nhuận là thước đo tốt nhất kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, thành tựu kinh tế của một quốc gia phản ánh
trong việc quốc gia đó sản xuất ra được bao nhiêu, nói cách khác, nó đã sử dụng yếu
tố sản xuất của mình đến mức độ nào, để tạo ra sản phẩm phục vụ cho đời sống nhân
dân đất nước mình.
Chỉ tiêu GNP hay GDP là những thước đo tốt nhất về thành tựu kinh tế của một
đất nước. Ngân hàng thế giới (WB) hay quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng như các nhà
kinh tế thường sử dụng các chỉ tiêu này để so sánh quy mô sản xuất của các nước
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
29
khác nhau trên thế giới sau khi tính chuyển số liệu về GNP hay GDP tính bằng đồng
đô la Mỹ.
GNP thống kê sản phẩm được sản xuất ra của một quốc gia trên cơ sở nguồn
lực, nghĩa là tính theo người dân của quốc gia đó. Người dân của nước sở tại, dù sinh
sống ở đâu, trong nước hay nước ngoài nếu tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thì đều
được tính vào GNP của nước sở tại.
GDP thống kê sản phẩm được sản xuất ra của một đất nước tính trên phạm vi
lãnh thổ kinh tế của quốc gia đó. Dù là ai, là dân của nước sở tại hay người nước
ngoài, là doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp nước ngoài, nếu tạo ra sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ trên phạm vi lãnh thổ của nước sở tại đều được tính vào GDP của
nước sở tại.
Vì vậy GNP và GDP khác nhau phần giá trị hàng hóa và dịch vụ mà người dân
nước sở tại sản xuất ra ở nước ngoài và phần giá trị hàng hóa , dịch vụ mà người nước
ngoài tạo ra trong phạm vi lãnh thổ nước sở tại. Phần này được gọi là thu nhập ròng
từ tài sản ở nước ngoài được tính bằng phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa dịch vụ
mà người dân nước sở tại sản xuất ra ở nước ngoài trừ đi phần giá trị hàng hóa dịch
vụ mà người nước ngoài sản xuất ra tại nước sở tại. Do vậy mối quan hệ giữa GNP và
GDP có thể được thể hiện bởi:
GNP = GDP + Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài (2.9)
Hay GDP = GNP - thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài (2.9.1)
GDP và GNP chỉ tiêu nào lớn hơn tùy thuộc vào từng quốc gia và từng thời kỳ
kinh tế của quốc gia đó. Muốn có số liệu chính xác về GDP, GNP cần có phương
pháp khoa học để tính toán GDP và GNP .
2. Các phương pháp xác định GDP.
Trong phần này, ta chỉ quan tâm tới cách tính toán đo lường tổng sản phẩm mà
không chú ý tới sự khác nhau giữa các chỉ tiêu GNP và GDP. Chúng ta tìm cách xác
định một trong hai chỉ tiêu và bằng một điều chỉnh nhỏ ta có thể xác định được chỉ
tiêu còn lại.
2.1. Vòng chu chuyển kinh tế vĩ mô.
Một nền kinh tế hoàn chỉnh bao gồm hàng triệu đơn vị kinh tế: Các hộ gia đình,
các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương. Các đơn vị kinh
tế này tạo nên một mạng lưới chằng chịt các giao dịch kinh tế trong quá trình tạo ra
tổng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Để tìm được cái cốt lõi bên trong của các giao
dịch và đưa ra các phương pháp tính toán tổng sản phẩm một cách có cơ sở khoa học,
chúng ta hãy bắt đầu bằng một trường hợp đơn giản nhất: Bỏ qua khu vực nhà nước
và khả năng tiến hành giao dịch với khu vực nước ngoài, xét một nền kinh tế khép
kín, tự cấp tự túc, chỉ bao gồm hai tác nhân kinh tế : cá nhân hộ gia đình và các doanh
nghiệp.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
30
Các hộ gia đình sở hữu lao động và các yếu tố đầu vào khác của sản xuất: đất
đai,vốn...Các hộ gia đình cung cấp các yếu tố đầu vào sản xuất cho các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp dùng các yếu tố sản xuất này để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ
bán cho các hộ gia đình. Các hộ gia đình có thu nhập từ việc cho thuê các yếu tố sản
xuất và dùng thu nhập đó trả cho các hàng hóa mua từ các doanh nghiệp. Những giao
dịch hai chiều đó tạo nên dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô được trình bày trong hình
dưới đây.
Dòng bên trong là sự luân chuyển các nguồn lực thật: Hàng hóa và dịch vụ từ
các hãng kinh doanh sang hộ gia đình và dịch vụ về các yếu tố sản xuất từ hộ gia đình
sang các hãng kinh doanh. Dòng bên ngoài là các giao dịch thanh toán bằng tiền: các
hãng kinh doanh trả tiền cho các dịch vụ yếu tố sản xuất tạo nên thu nhập của các hộ
gia đình; các hộ gia đình thanh toán các khoản chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ.
Hµng hãa vµ dÞch vô
DÞch vô yÕu tè s¶n xuÊt
Thu nhËp tõ c¸ c yÕu tè s¶n xuÊt
ChØ tiªu hµng hãa vµ dÞch vô
H·ng kinh
doanh Hé gia ®×nh
Sơ đồ 2.2: Dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô
Sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô gợi lên hai cách tính khối lương sản
phẩm trong một nền kinh tế.
- Theo cung trên, chúng ta có thể tính tổng giá trị của các hàng hóa và dịch vụ
được sản xuất ra trong nền kinh tế.
- Theo cung dưới, chúng ta có thể tính tổng mức thu nhập từ các yếu tố sản
xuất.
Nếu giả định rằng toàn bộ số thu nhập của các hộ gia đình được đem chi tiêu
hết để mua hàng hóa và dịch vụ, rằng các doanh nghiệp bán hết được các hàng hóa và
dùng số tiền thu được để tiếp tục triển khai sản xuất, rằng lợi nhuận của các doanh
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
31
nghiệp rốt cục cũng là một khoản thu nhập của các hộ gia đình, thì con số thu được từ
hai cách tính trên đây phải bằng nhau.
Sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô đặt cơ sở cho các phương pháp tính toán
tổng sản phẩm quốc nội. Sơ đồ này gợi ra những ý niệm về tầm quan trọng của hành
vi tiêu dùng của các hộ gia đình. Chính các hộ gia đình chứ không phải doanh nghiệp
quyết định mức chi tiêu trong nền kinh tế, tác động đến việc mở rộng hay thu hẹp sản
xuất. Đồng thời, sơ đồ cũng cho thấy tác động của việc gia tăng cung ứng các yếu tố
sản xuất, đặc biệt là tiến bộ công nghệ đến sự tăng trưởng kinh tế, bằng cách sản xuất
nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ đưa đến thu nhập và chi tiêu nhiều hơn của các hộ gia
đình, nâng cao mức sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
2.2. Ba phương pháp xác định GDP
2.2.1. Phương pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm
Sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô cho thấy có thể xác định GDP theo giá
trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong nền kinh tế. Chúng ta gọi tắt
là phương pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm. Tuy nhiên sơ đồ đó quá đơn
giản, chúng ta sẽ mở rộng sơ đồ đó tính tới cả khu vực Chính phủ và xuất nhập khẩu.
Theo phương pháp này, GDP bao gồm toàn bộ giá trị thị trường của các hàng hóa và
dịch vụ cuối cùng mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh và Chính phủ mua; và
khoản xuất khẩu ròng được thực hiện trong một đơn vị thời gian (một năm).
a) Tiêu dùng của các hộ gia đình (C)
Tiêu dùng của các hộ gia đình (C) bao gồm tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ
cuối cùng của các hộ gia đình mua được trên thị trường để chi dùng trong đời sống
hàng ngày của họ: Cam, chuối, ô tô, xe máy, nghỉ mát, du lịch.....
Như vậy, GDP chỉ bao gồm những sản phẩm được bán và bỏ sót nhiều hàng
hóa và dịch vụ mà các hộ gia đình tự sản xuất để tiêu dùng mà không phải để đem
bán, hoặc những hàng hóa dịch vụ nhìn chung không được mua bán trên thị trường
nhưng rất cần thiết cho đời sống gia đình. Chẳng hạn như nông sản do các gia đình tự
sản xuất,tự tiêu thụ, công việc của các bà nội trợ....
Tuy nhiên, tổng hợp các khoản chi tiêu cho tiêu dùng của các hộ gia đình ghi
chép được cũng đã chiếm 60-70% GDP của đất nước
b) Đầu tư (I)
Tổng sản phẩm không chỉ bao gồm các hàng hóa tiêu dùng của các hộ gia đình
mà còn bao gồm cả hàng hóa đầu tư mà các hãng kinh doanh mua sắm để tái sản xuất
mở rộng. Hàng hóa đầu tư bao gồm trang thiết bị là các tài sản cố định của doanh
nghiệp, nhà ở, văn phòng mới xây dựng và chênh lệch hàng tồn kho của các hãng
kinh doanh
Như vây, đầu tư (I) ở đây khác với đầu tư nói chung. Đầu tư (I) được hiểu theo
cách hiểu của các nhà kinh tế, ứng dụng trong tính toán tổng sản phẩm quốc nội là
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
32
việc mua sắm các tư liệu lao động mới, tạo ra tư bản dưới dạng hiện vật như nhà máy
mới, công cụ mới...Không nên nhầm lẫn với quan niệm đầu tư của các nhà kinh
doanh, như việc đầu tư vốn mua cổ phần, cổ phiếu hay mở một tài khoản tiết kiệm ở
ngân hàng. Đó chỉ là hành động thay đổi thành phần tích sản của cá nhân hay doanh
nghiệp, không làm cho tổng sản phẩm của một đất nước tăng lên.
Cần phân biệt hai khái niệm tổng đầu tư với đầu tư ròng. Tổng đầu tư là giá trị
các tư liệu lao động chưa trừ phần đã hao mòn trong quá trình sản xuất. Còn đầu tư
ròng bằng tổng đầu tư trừ đi khấu hao tài sản cố định (còn gọi là tiêu dùng cơ bản).
Trong tính toán GDP người ta tính tổng đầu tư chứ không phải đầu tư ròng.
Hàng tồn kho hay dự trữ là những hàng hóa được giữu lại để sản xuất hay tiêu
thụ sau này. Thực chất hàng tồn kho là một loại tài sản lưu động. Đó là những vật liệu
hay yếu tố đầu vào của sản xuất sẽ được sử dụng trong chu kỳ sản xuất tới, hoặc các
thành phẩm chờ để bán ra trong thời gian tới. Nhưng theo qui định, chúng được xếp
vào hàng hóa đầu tư khi tính toán tổng sản phẩm quốc nội.
Tóm lại, khái niệm đầu tư là một khái niệm phức tạp. Khái niệm này chỉ rõ
phần tổng sản phẩm quốc nội hay một phần của khả năng sản xuất của xã hội dùng để
tạo vốn cơ bản (vốn cố định) cho nền kinh tế, chứ không phải để tiêu dùng cho hiện
tại. Đầu tư các tác dụng tái sản xuất mở rộng, như vậy có tác dụng tăng tiệu dùng
trong tương lai.
c) Chi tiêu về hàng hóa dịch vụ của Chính phủ (G)
Chính phủ cũng là một tác nhân kinh tế, một người tiêu dùng lớn nhất. Hàng
năm, Chính phủ các nước phải chi tiêu những khoản tiền rất lớn vào việc xây dựng
đường sá, trường học, bệnh viện, quốc phòng, an ninh và trả lương cho bộ máy quản
lý hành chính của Nhà nước. Toàn bộ chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ đều được tính
vào luồng sản phẩm.
Tuy nhiên, không phải mọi khoản chi tiêu của Chính phủ đều được tính vào
GDP. Những khoản thanh toán chuyển nhượng(TR) bao gồm bảo hiểm xã hội, những
khoản trợ cấp cho người già, người tàn tật, trợ cấp thất nghiệp...Những khoản này chi
ra nhưng không tương ứng với một hàng hóa dịch vụ nào mới được sản xuất ra trong
nền kinh tế do đó không làm tăng GDP.
Chi tiêu của Chính phủ được tài trợ bởi thuế (TA). Thuế bao gồm hai loại: trực
thu và gián thu. Nhưng khi tính theo cung trên, nghĩa là tính theo luồng sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ chúng ta chưa quan tâm xử lý vấn đề thuế khóa. Vì rằng bản thân
giá cả thị trường đã bao gồm trong đó các loại thuế gián thu, đánh vào người tiêu
dùng.
d) Xuất và nhập khẩu (X và IM)
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
33
Hàng xuất khẩu là những hàng hóa được sản xuất ra trong nước, nhưng được
bán ra nước ngoài. Hàng nhập khẩu là những hàng hóa được sản xuất ra ở nước ngoài
nhưng được mua để phục vụ nhu cầu nội địa.
Căn cứ vào quan điểm đó, chúng ta thấy hàng xuất khẩu làm tăng tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), trái lại hàng nhập khẩu không nằm trong sản lượng nội địa,
cần được tách khỏi khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà các hộ gia đình các doanh
nghiệp và chính phủ đã mua và tiêu dùng. Do đó khi tính vào tổng sản phẩm quốc nội
ta sẽ tính tới xuất khẩu ròng (NX).
Xuất khẩu ròng (NX) = Xuất khẩu (X) – Nhập khẩu (IM) (2.10)
Để đơn giản, khi tính GDP, người ta công toàn bộ tiêu dùng của các hộ gia đình
(C) với đầu tư của các hãng kinh doanh (I), chi tiêu của chính phủ (G) và phần xuất
khẩu ròng (NX).
Tóm lại, ta có công thức chung để xác định GDP theo phương pháp luồng sản
phẩm như sau:
GDP = C + I+ G + NX (2.11)
2.2.2. Phương pháp xác định GDP theo luồng thu nhập hoặc chi phí.
Khác với phương pháp trên, tính GDP theo giá trị sản phẩm đầu ra, phương
pháp tính GDP theo chi phí các yếu tố đầu vào của sản xuất, mà các doanh nghiệp
phải thanh toán, như tiền công, tiền tra do vay vốn, tiền thuê nhà, thuê đất và lợi
nhuận. Tổng chi phí mà doanh nghiệp phải thanh toán trở thành thu nhập của công
chúng.
Gọi : Chi phí tiền công, tiền lương là : W
Chi phi thuê vốn (lãi suất) i
Chi phí thuê nhà, thuê đất r
Lợi nhuận л
Ta có công thức chung xác định GDP theo yếu tố chi phí trong trường hợp đơn
giản nhất, tức là trường hợp nền kinh tế chỉ bao gồm các hộ gia đình và các doanh
nghiệp, chưa tính tới thuế và khấu hao, khu vực nước ngoài như sau:
GDP theo chi phí cho yếu tố sản xuất = W + i + r + л (2.12)
Trong nền kinh tế có yếu tố Chính phủ và khu vực nước ngoài, khi tính GDP
theo phương pháp này ta cần có hai điều chỉnh:
Một là, vì GDP theo chi phí yếu tố sản xuất chưa tính đến khoản thuế mà Chính
phủ đánh vào hàng hóa tiêu dùng thu qua doanh nghiệp. Đó là thuế gián thu (Te).
Hai là, GDP tính theo chi phí yếu tố chi phí sản xuất chưa tính đến hao mòn tài
sản cố định. Vì rằng hao mồn tài sản cố định không tương ứng với khoản thu nhập
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
34
nào của hộ gia đình. Chi phí khấu hao tài sản cố định phát sinh, doanh nghiệp phải bù
đắp các hao mòn hay toàn bộ tài sản cố định
Với hai điều chỉnh như trên, khi ta tính GDP theo chi phí yếu tố sản xuất ta cần
bổ xung vào công thức (2.8) phần thuế gián thu (Te) và khấu hao tài sản cố định (H)
và ta có công thức tính GDP theo chi phí yếu tố sản xất trong nền kinh tế có đủ bốn
tác nhân kinh tế như sau:
GDP = W + i + r + л + Te + H (2.13)
Và kết quả của hai công thức tính GDP (2.11) và (2.13) là giống nhau.
Từ các nghiên cứu trên ta có thể tổng hợp so sánh hai cách tính hay hai phương
pháp tính toán GDP theo bảng tổng hợp dưới đây:
Phương pháp tính theo luồng sản
phẩm
Phương pháp tính theo thu nhập hay
chi phí
Tiêu dùng (C)
Đầu tư (I)
Chi tiêu của Chính phủ (G)
Xuất khẩu ròng (NX)
GDP theo giá thị trường
Tiền công, tiền lương (W)
Lãi suất (i)
Thuế nhà, thuê đất (r)
Lợi nhuận (л)
Khấu hao (H)
GDP theo chi phí yếu tố sản xuất
Thuế gián thu (Te)
GDP theo giá thị trường
Bảng 2.1: Tóm tắt 2 phương pháp xác định GDP
2.2.3. Phương pháp xác định GDP theo giá trị gia tăng
Theo định nghĩa, GDP là tổng giá trị của hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được
sản xuất ra. Nhưng để các hàng hóa cuối cùng đến tay người tiêu dùng, chúng phải
trải qua nhiều công đoạn sản xuất. Mỗi công đoạn, mỗi doanh nghiêp chuyên môn hóa
chỉ góp một phần giá trị của mình để tạo ra một hàng hóa hoặc dịch vụ hoàn chỉnh.
Vì vậy, khi tính GDP theo cung dưới-luồng thu nhập hoặc chi phí cần rất thận
trọng để tránh tính trùng. Để tránh tính trùng các nhà kinh tế đưa ra một khái niệm :
Giá trị gia tăng
Giá trị gia tăng là khoản chênh lệch giữa giá trị sản lượng của một doanh
nghiệp với khoản mua vào về vật liệu và dịch vụ từ các doanh nghiệp khác, mà đã
được dùng hết trong sản xuất ra sản lượng đó.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
35
Giá trị gia tăng của một doanh nghiệp là số đo phần đóng góp của doanh nghiệp
vào tổng sản lượng của nền kinh tế. Tổng giá trị gia tăng của mọi đơn vị sản xuất và
dịch vụ trong vòng một năm là tổng sản phẩm quốc nội GDP.
Như vậy, để tránh tính trùng, cần chú ý chỉ đưa vào tổng sản phẩm quốc nội
những hàng hóa cuối cùng loại bỏ các hàng hóa trung gian dùng để tạo nên hàng hóa
cuối cùng đó. Hoặc chỉ cộng giá trị gia tăng ở từng giai đoạn sản xuất. Cộng giá trị gia
tăng của các đơn vị sản xuất trong cùng một ngành, rồi cộng giá trị gia tăng của các
ngành trong nền kinh tế, chúng ta thu được một con số đúng bằng GDP.
Kết quả tính toán GDP theo cả ba phương pháp đã trình bày trên đây đều bằng
nhau.
3. Các đồng nhất thức kinh tế vĩ mô cơ bản
Các khái niệm GDP, GNP, Y, YD cũng như phương pháp xác định các chỉ tiêu
đó chính là tinh thần chủ yếu của hệ thống tài khoản quốc gia sử dụng rộng rãi trong
các quốc gia có nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chúng ta quan tâm nhiều hơn tới
việc sử dụng các khái niệm và số liệu ghi chép được, để phân tích các mối quan hệ
ràng buộc các tác nhân trong nền kinh tế với nhau. Chúng ta tập trung vào các đồng
nhất thức kinh tế vĩ mô cơ bản, xuất hiện từ các nguyên lý tính toán GDP, GNP. Đồng
nhất thức khác với đẳng thức. Đồng nhất thức có nghĩa là bằng nhau theo định nghĩa.
3.1.Trong nền kinh tế giản đơn.
Trong nền kinh tế giản đơn chỉ bao gồm hai tác nhân kinh tế: Các hộ gia đình
và các doanh nghiệp. Trong sơ đồ dòng chu chuyển kinh tế vĩ mô (2.2), chúng ta đã
giả định rằng thu nhập của các hộ gia đình được đem chi tiêu hết vào việc mua các
hàng hóa và các dịch vụ tiêu dùng. Do vậy, chi tiêu mua hàng hóa, dịch vụ ở cung
trên bằng thu nhập ở cung dưới. Trong thực tế thì các hộ gia đình thường không tiêu
dùng hết thu nhập của mình, họ để dành một phần thu nhập dưới dạng tiết kiệm (S).
Trong nền kinh tế giản đơn, không có sự tham gia của chính phủ, yếu tố nước
ngoài, không có thuế và trợ cấp
YD = Y và S = Y – C hay Y = C + S (2.14)
Vậy là đã có sự rò rỉ ở cung dưới của dòng luân chuyển, tiết kiệm tách ra khỏi
luồng thu nhập.
Tương tự, ở cung trên, cung hàng hóa và dịch vụ cuối cùng không chỉ bao gồm
hàng tiêu dùng của các hộ gia đình, các doanh nghiệp cũng phải mua một lượng hàng
hóa đầu tư (I). Như vậy, có sự bổ xung thêm vào cung trên.
Ta có : Y = C + I (2.15)
Ta có sơ đồ tiết kiệm và đầu tư trong dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô như sau
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
36
Hé gia ®×nh
TiÕt kiÖm
Hµng hãa vµ dÞch vô
Ng©n hµng
§Çu t
H·ng kinh doanh
Thu nhËp chi phÝ
Sơ đồ 2.3: Tiết kiệm và đầu tư trong dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô.
Từ (2.14) và (2.15) ta có : S = I (2.16) là đồng nhất thức giữa tiết kiệm
và đầu tư.
Sơ đồ 2.3 mô tả một cách khái quát, tiết kiệm làm thế nào chuyển thành đầu tư
trong nền kinh tế thị trường. Và các thể chế tài chính, ngân hàng phát triển trong nền
kinh tế thị trường, thu hút toàn bộ tiết kiệm cho các hãng vay để đầu tư mở rộng sản
xuất.
3.2. Trong nền kinh tế đóng.
Nền kinh tế đóng đã có sự tham gia của tác nhân kinh tế thứ ba đó là Chính
phủ. Thu nhập của các hộ gia đình đã phải làm nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước và
được thêm phần từ trợ cấp của Chính phủ. Và ta có khái niệm thuế ròng (T) là phần
chênh lệch giữa thuế phải nộp cho Nhà nước với khoản trợ cấp được hưởng từ Nhà
nước ( T = Td – Tr)
Khi đó ở cung dưới : Y = C + S + T (2.17)
Tương tự, ở cung trên hàng hóa và dịch vụ không chỉ còn phục vụ cho hộ gia
đình và doanh nghiệp mà còn tính tới cả nhu cầu chi tiêu của Chính phủ. Do vậy:
Y = C + I + G (2.18)
Từ (2.17) và (2.18) ta có : C + S + T = C + I + G
Hay S + T = I + G (2.19) là đồng nhất thức thể
hiện mối quan hệ giữa các tác nhân trong nền kinh tế đóng.
Nếu I = S thì khi đó chi tiêu của Chính phủ đúng bằng số thuế thu về
Nếu I > S thì khi đó chi tiêu của Chính phủ sẽ nhỏ hơn số thuế thu về, Ngân
sách nhà nước sẽ thặng dư.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
37
Nếu I < S thì khi đó Chi tiêu của Chính phủ sẽ lớn hơn số thuế thu về. Ngân
sách nhà nước thâm hụt.
Hé gia ®×nh
TiÕt kiÖm
Hµng hãa vµ dÞch vô
Ng©n hµng
§ Çu t
H·ng kinh doanh
Thu nhËp chi phÝ
Chi tiªu
ChÝnh phñThuÕ
Sơ đồ 2.4. Chính phủ trong dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô
3.3. Trong nền kinh tế mở.
Khi này đã xuất hiện đủ bốn tác nhân kinh tế, bức tranh kinh tế đã sinh động
hơn khi có sự giao lưu với nước ngoài. Khi đó thu nhập của người dân đã được dùng
để mua hàng hóa của nước ngoài và hàng hóa sản xuất ra cũng để phục vụ cả nhu cầu
nước ngoài.
Do vậy, ở cung dưới lúc này thu nhập bao gồm:
Y = C + S + T + IM ( 2.20)
Tương tự, ở cung dưới hóa đã được sản xuất để phục vụ cả bốn tác nhân :
Y = C + I + G + X (2.21)
Từ (2.20) và (2.21) ta có : C + S + T + IM = C + I + G + X
Hay S + T + IM = I + G + X ( 2.22)
Chuyển vế các số hạng tương ứng ta thu được:
(T–G) = (I–S) + (X-IM) (2.23) l
Công thức (2.23) là đồng nhất thức thể hiện mối quan hệ giữa các khu vực hay
các tác nhân trong nền kinh tế. Vế trái là khu vực Chính phủ, vế phải là khu vực tư
nhân (hãng kinh doanh, hộ gia đình) và khu vực nước ngoài. Đồng nhất thức cho thấy
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
38
trạng thái của mỗi khu vực ảnh hưởng tới các khu vực còn lại của đất nước như thế
nào.
Chẳng hạn, nếu khu vực nước ngoài X=IM có nghĩa là cán cân thương mại cân
bằng, nếu ngân sách nhà nước thâm hụt hay G > T thì ở khu vực tư nhân tiết kiệm sẽ
lớn hơn đầu tư. Nói cách khác, khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn số thu được, đầu tư
của doanh nghiệp sẽ thấp hơn tiết kiệm. Ngược lại, nếu nếu đầu tư của doanh nghiệp
đúng bằng tiết kiệm (I=S) thì thâm hụt ngân sách phải được bù đắp bởi thâm hụt cán
cân thương mại. Trường hợp này đất nước lâm vào thâm hụt kép: Thâm hụt ngân sách
và thâm hụt cán cân thương mại. Do đó cần phải có các chính sách và biện pháp kinh
tế vĩ mô để giữ cho các khu vực kinh tế ở trạng thái cân bằng, để toàn bộ nền kinh tế
cân bằng.
Hé gia ®×nh
TiÕt kiÖm
Hµng hãa vµ dÞch vô
Ng©n hµng
§Çu t
H·ng kinh doanh
Thu nhËp chi phÝ
Chi tiªu
ChÝnh phñThuÕ
NhËp khÈu N í c ngoµi
XuÊt khÈu
Sơ đồ 2.5: Người nước ngoài trong dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô
4. Câu hỏi ôn tập
Câu 1: Thế nào là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tổng sản phẩm quốc dân
(GNP). Phân biệt sự giống và khác nhau của hai khái niệm này?
Câu 2: Thế nào là sản lượng tiềm năng?
Câu 3: Trình bày các phương pháp xác định GDP. Có nhất thiết kết quả tính
toán của những phương pháp này phải bằng nhau hay không?
Câu 4: Vào ngày 1.7.2005, một người thợ cắt tóc tên Lâm kiếm được 400.000đ
tiền cắt tóc. Theo tính toán của anh, trong ngày hôm đó các dụng cụ thiết bị của anh
đã bị hao mòn trị giá là 50.000đ. Trong 350.000đ còn lại, anh Lâm chuyển 30.000đ
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
39
cho Chính phủ dưới dạng thuế doanh thu, 100.000đ giữ lại cửa hàng để tích lũy mua
thiết bị mới trong tương lai. Phần thu nhập còn lại 220.000đ anh phải nộp thuế thu
nhập 70.000đ và chỉ mang về nhà thu nhập sau khi đã nộp thuế. Dựa vào thông tin
này,bạn hãy tính đóng góp của anh Lâm vào những chỉ tiêu thu nhập sau:
a. Tổng sản phẩm trong nước ( GDP)
b. Sản phẩm quốc dân ròng (NNP)
c. Thu nhập quốc dân (Y)
d. Thu nhập cá nhân
e. Thu nhập có thể sử dụng (YD)
Câu 5: Giao dịch nào đóng góp nhiều hơn vào giá trị GDP: Chiếc vòng kim
cương mới được một người giàu có mua hay chai nước sôđa mà một người đang khát
mua? Tại sao? Một nước tập trung vào sản xuất một hàng hóa đắt tiền có làm tăng
GDP và tăng phúc lợi kinh tế cho người dân được hay không?
Câu 6: Những hàng hóa đã qua sử dụng, được bán lại và những hàng hóa
không được giao dịch công khai trên thị trường (ví dụ: lương thực thực phẩm được
tạo ra và tiêu dùng ngay tại gia đình) thường không được tính vào GDP. Tại sao lại
như vậy? Điều này ảnh hưởng ra sao đến việc dùng GDP làm thước đo phúc lợi kinh
tế của một nước và so sánh giữa các nước phát triển và kém phát triển?
Câu 7: Theo lý thuyết, khoản chi tiêu mua nhà ở mới của hộ gia đình được tính
vào đầu tư vay tiêu dùng? Còn việc mua xe hơi mới có được tính như vậy hay không?
Tại sao?
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
40
Chương III
TỔNG CẦU VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
Chương này chúng ta sẽ nghiên cứu một bước sâu hơn mặt cầu của nền kinh tế.
Sự hình thành tổng cầu, những yếu tố tác động đến tổng cầu, các mô hình tổng cầu tư
giản đơn đến phức tạp. Cuối cùng là sự vận dụng lý thuyết tổng cầu vào chính sách tài
khóa.
Chúng ta bắt đầu nghiên cứu mặt cầu của nền kinh tế bằng cách giả thiết rằng
giá cả, tiền lương là đã cho và không đổi. Và giả thiết thứ hai là tổng cung cho trước.
Nói cách khác là các hãng kinh doanh có khả năng và sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu
của nền kinh tế. Với hai giả thiết này, chỉ có tổng cầu là ảnh hưởng và quyết định đối
với mức sản lượng cân bằng.
Khi nghiên cứu tổng cầu chúng ta cũng cần lưu ý tới điều kiện để tồn tại tồng
cầu: Có nhu cầu và có khả năng tài chính.
1.Tổng cầu và sản lượng cân bằng của nền kinh tế
1.1.Tổng cầu trong nền kinh tế.
Tổng cầu (AD) là tổng sản lượng trong nước mà các tác nhân kinh tế sẵn sàng
và có khả năng thanh toán tại mỗi mức giá. Trong một nền kinh tế mở, tổng cầu bao
gồm bốn thành tố: Tiêu dùng (C) của các hộ gia đình: Đầu tư (I) của các hãng kinh
doanh; Chi tiêu Chính phủ (G) và Xuất khẩu ròng (NX).
Ta có : AD = C + I + G + NX (3.1)
Đây là phương trình định nghĩa về tổng cầu. Nó chỉ ra rằng tổng cầu bao gồm
tiêu dùng của hộ gia đình, chi tiêu Chính phủ, đầu tư, và xuất khẩu ròng. Có rất nhiều
yếu tố ảnh hưởng tới mức sản lượng mà các tác nhân của nền kinh tế sẵn sàng và có
khả năng mua. Nhưng khi nghiên cứu về tổng cầu chúng ta sẽ cố định các biến số
khác trừ một biến số là mức giá.
Đường tổng cầu được vẽ với giả định rằng tất cả các biến số khác có ảnh hưởng
đến lượng tổng cầu ngoài mức giá như thu nhập, kỳ vọng và chính sách của Chính
phủ không thay đổi. Đường tổng cầu dốc xuống chỉ ra rằng nếu những cái khác không
thay đổi, thì giảm mức giá chung, chẳng hạn từ P0 xuống P1, sẽ có xu hướng làm cho
lượng tổng cầu của quốc gia đó tăng lên, từ Y0 đến Y1.
Đường tổng cầu dốc xuống phản ánh thực tế là mức giá có ảnh hưởng ngược
chiều đến lượng tổng cầu. Trong bốn thành tố của tổng cầu, chi tiêu của Chính phủ
được giả định là biến ngoại sinh do chính sách của Chính phủ quyết định tùy thuộc
vào mục tiêu của điều tiết vĩ mô mà không phụ thuộc vào mức giá. Do đó, để hiểu tại
sao đường tổng cầu dốc xuống chúng ta cần làm rõ sự thay đổi trong mức giá có ảnh
hưởng như thế nào đến ba thành tố còn lại của tổng cầu, bao gồm tiêu dùng, đầu tư và
xuất khẩu ròng.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
41
Y
P
1P
Y0 Y 1
A
B
0P
O
Hình 3.1 Đường tổng cầu:
Đường tổng cầu dốc xuống phản ánh thực tế là mức giá có ảnh hưởng ngược
chiều đến lượng tổng cầu. Trong bốn thành tố của tổng cầu, chi tiêu của Chính phủ
được giả định là biến ngoại sinh do chính sách của Chính phủ quyết định tùy thuộc
vào mục tiêu của điều tiết vĩ mô mà không phụ thuộc vào mức giá. Do đó, để hiểu tại
sao đường tổng cầu dốc xuống chúng ta cần làm rõ sự thay đổi trong mức giá có ảnh
hưởng như thế nào đến ba thành tố còn lại của tổng cầu, bao gồm tiêu dùng, đầu tư và
xuất khẩu ròng.
Mức giá và tiêu dùng: Hiệu ứng của cải.
Khi mức giá giảm thì lượng tiền trong ví hay trong tài khoản ngân hàng của bạn
trở nên có giá trị hơn vì chúng có thể mua được nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Như
vậy một sự cắt giảm trong mức giá chung làm cho các hộ gia định nhận thấy mình trở
nên giầu có hơn và họ sẵn sàng mua nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Sự tăng lên này
của tiêu dùng làm cho tổng cầu tăng lên.
Mức giá và đầu tư: Hiệu ứng lãi suất.
Tại mức giá thấp hơn công chúng sẽ cất giữ tiền ít hơn để mua lượng hàng hóa
và dịch vụ theo kế hoạch. Điều này hàm ý một phần trong số tiền họ nắm giữ để phục
vụ cho động cơ giao dịch trở nên dư thừa. Nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp sẽ tìm
cách cắt giảm lượng tiền đang nắm giữ bằng cách chuyển số tiền mặt hoặc tài khoản
có thể viết séc thành các tài khoản sinh lãi như trái phiếu hoặc tiền gửi ngân hàng có
kỳ hạn và kết quả là lãi suất sẽ giảm. Giảm lãi suất, đến lượt nó có tác dụng khuyến
khích các hãng đầu tư nhiều hơn vào nhà xưởng và các thiết bị mới, và các hộ gia
đình mua nhiều nhà ở mới hơn. Như vậy mức giá giảm sẽ làm giảm lãi suất, khuyến
khích chi tiêu vào các hàng hóa đầu tư và do đó làm tăng lượng tổng cầu.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
42
Mức giá và xuất khẩu ròng: Hiệu ứng tỷ giá hối đoái.
Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, sự giảm giá của hàng trong
nước làm cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam trở nên rẻ hơn một cách tương đối
so với hàng hóa và dịch vụ sản xuất ở nước ngoài tại một mức tỷ giá hối đoái cho
trước. Khi đó một số người tiêu dùng trong nước và nước ngoài có xu hướng chuyển
từ mua hàng của nước khác sang hàng hóa và dịch vụ sản xuất tại Việt Nam. Kết quả
là xuất khẩu được khuyến khích và nhập khẩu bị hạn chế, làm tăng xuất khẩu ròng và
làm tăng lượng tổng cầu.
Như vậy, cả ba hiệu ứng trên đều cho thấy một mối quan hệ ngược chiều giữa
mức giá và khối lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước: Giảm giá
chung sẽ làm tăng lượng tổng cầu, ngược lại tăng mức giá chung sẽ làm giảm lượng
tổng cầu.
Trong hình 3.1 sự di chuyển dọc trên đường tổng cầu phản ánh sự thay đổi của
lượng tổng cầu do sự thay đổi mức giá trong khi các biến số khác ảnh hưởng đến tổng
cầu được giữ nguyên. Sự di chuyển từ điểm A đến điểm B phản ánh lượng tổng cầu
tăng từ Y0 đến Y1 do mức giá giảm xuống từ P0 xuống P1.
Tuy nhiên còn nhiều các biến cố khác ảnh hưởng đến lượng tổng cầu tại một
mức giá nhất định. Khi một sự kiện hoặc 1 chính sách nào đó làm thay đổi lượng tổng
cầu tại một mức giá cho trước, thì tổng cầu sẽ dịch chuyển. Đường tổng cầu sẽ dịch
chuyển sang bên phải khi lượng tổng cầu tăng lên tại mỗi mức giá cho trước, ngược
lại đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang trái khi lượng tổng cầu giảm xuống tại mỗi
mức giá cho trước.
Y
P
Y0 Y 1
0P
AD1
AD0
O
Hình 3.2: Sự dịch chuyển đường cầu
Các biến cố làm cho đường tổng cầu dịch chuyển: Thay đổi trong tiêu dùng,
trong đầu tư, trong chi tiêu của Chính phủ, trong xuất khẩu ròng.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
43
1.2. Cách xây dựng hàm tổng cầu và xác định sản lượng cân bằng của nền kinh tế.
1.2.1. Trong mô hình kinh tế giản đơn:
Trong nền kinh tế giản đơn chỉ bao gồm hai tác nhân kinh tế chủ yếu đó là: Hộ
gia đình và doanh nghiệp. Đó là nền kinh tế khép kín và chưa có sự tham gia của
Chính phủ:
Tổng cầu là toàn bộ số lượng hàng hóa và dịch vụ mà các hộ gia đình và các
doanh nghiệp dự kiến chi tiêu, tương ứng với mức thu nhập của họ (AD=C+I).
Trong đó C và I đều là những hàm số. Vì vậy trước tiên ta xét hàm tiêu dùng và
hàm đầu tư.
a) Hàm tiêu dùng.
Tiêu dùng là toàn bộ chi tiêu của dân cư về hàng hóa và dịch vụ cuối cùng.
Tiêu dùng của dân cư phụ thuộc và nhiều yếu tố:
- Thu nhập từ tiền công và tiền lương
- Của cải hay tài sản, bao gồm cả các tài sản thực và tài sản tài chính .
- Những yếu tố xã hội, tâm lý, tập quán sinh hoạt khác.
Trong ba yếu tố trên, thu nhập có vai trò quan trọng hơn cả.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hành vi tiêu dùng của dân cư và sự
thay đổi của cơ cấu tiêu dùng cũng như cách thức mà họ thay đổi cơ cấu tiêu dùng khi
thu nhập tăng lên. NHiều công trình đã đi đến kết luận rằng: Khi thu nhập thấp, người
ta phải chi tiêu nhiều hơn cho các nhu cầu thiết yếu như ăn, ở,mặc, đi lại. Cùng với
mức tăng lên của thu nhập, tỷ lệ thu nhập chi cho nhu cầu ăn giảm đi, trái lại tỷ lệ thu
nhập chi cho các nhu cầu mặc, giải trí, du lịch, xe hơi... tăng lên rất nhanh, trong khi
đó tỷ lệ về nhà ở tương đối ổn định.
Nhiều nghiên cứu đã đưa ra giả thiết rằng người tiêu dùng quyết định chi tiêu
của mình có xét đến điều kiện kinh tế lâu dài. Nói cách khác, người ta tiêu dùng dựa
trên dự tính của mình về khả năng thu nhập lâu dài, thường là thu nhập trong suốt
thời gian dài hoặc thu nhập có được trong cả cuộc đời.
Hàm tiêu dùng biểu thị mối quan hệ giữa tổng tiêu dùng và tổng thu nhập. Tổng
tiêu dùng được hiểu là tổng tiêu dùng của tất cả các hộ gia đình trong nền kinh tế.
Thước đo thu nhập ở đây chính là thu nhập có thể sử dụng (YD). Hàm này được xây
dựng bằng phương pháp thống kê số lớn. Trong trường hợp đơn giản nhất, nền kinh tế
chưa có sự tham gia của chính phủ, thu nhập khả dụng bằng với thu nhập quốc dân
(YD=Y) thì hàm tiêu dùng có dạng như sau:
C = C + MPC.Y (3.2)
Trong đó : Y là thu nhập
C là tiêu dùng không phụ thuộc vào thu nhâp
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
44
MPC là xu hướng tiêu dùng cận biên và 0 < MPC < 1
Xu hướng tiêu dùng cận biên biểu thị mối quan hệ giữa sự gia tăng của tiêu
dùng với sự gia tăng thu nhập. Xu hướng tiêu dùng cận biên nói lên rằng, nếu thu
nhập tăng lên một đơn vị thì tiêu dùng có xu hướng tăng lên là bao nhiêu.
∆C
MPC = -------------
∆Y
Y
C
450
C=C+MPC.Y
C
V
Y
AD
Y VO
O
C
Y V
C=C+MPC.Y
Hình 3.3: Đường tiêu dùng và đường tiết kiệm
Đồ thị hàm tiêu dùng mô tả trong hình 3.3, đường phân giác góc 45o hội tụ tất
cả các điểm tại đó, tiêu dùng bằng thu nhập. Giao điểm giữa đường tiêu dùng và
đường phân giác chúng ta gọi là điểm vừa đủ (điểm V). Điểm vừa đủ là điểm mà tại
đó thu nhập vừa đủ để chi tiêu. Phía dưới điểm vừa đủ là những điểm tiêu dùng cao
hơn thu nhập. Phía trên điểm V là những điểm tiêu dùng ít hơn thu nhập. Vậy số thu
nhập dôi ra sẽ được để dành hay tiết kiệm.
Với cách hiểu tiết kiệm là phần dôi ra của thu nhập sau khi tiêu dùng ta có :
S = Y – C => S = Y – C – MPC.Y => S = - C + (1-MPC).Y
Hay S = - C + MPS.Y (3.3)
Trong đó : MPS là xu hướng tiết kiệm cận biên và 0 < MPS < 1
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
45
Xu hướng tiết kiệm cận biên biểu thị dự kiến của các hộ gia đình tăng tiết kiệm
khi thu nhập tăng lên. MPS cho biết, nếu thu nhập tăng lên một đơn vị thì các gia
đình dự kiến tăng lên bao nhiêu tiết kiệm của mình.
Lưu ý rằng thu nhập chỉ có thể đem tiêu dùng hoặc tiết kiệm: MPC+MPS=1.
Ví dụ: xu hướng tiêu dùng cận biên là 0,8 có nghĩa là nếu thu nhập tăng lên
chẳng hạn là 1 triệu đồng thì dân cư có xu hướng tiêu dùng thêm 800.000đ và
200.000đ sẽ giữ dưới dạng tiết kiệm.
Trong hình 3.3 cho thấy tại điểm vừa đủ thì tiết kiệm bằng không, dưới điểm V
tiết kiệm là âm hay tại đó người dân phải đi vay để tiêu dùng, trên điểm V tiết kiệm
tăng cùng với mức thu nhập tăng lên.
b) Hàm đầu tư
Đầu tư là bộ phận lớn hay thay đổi của tổng cầu hay tổng chi tiêu. Đầu tư có
hai vai trò trong kinh tế vĩ mô. Thứ nhất, vì là bộ phận lớn hay thay đổi chủ chi tiêu,
nên những thay đổi bất thường về đầu tư có ảnh hưởng lớn đến tổng sản lượng và thu
nhập về ngắn hạn. Thứ hai, đầu tư dẫn đến tích lũy cơ bản, có tác dụng mở rộng năng
lực sản xuất. Vì vậy về mặt dài hạn, đầu tư làm tăng sản lượng tiềm năng, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
Các hãng kinh doanh dự kiến đầu tư để mong thu được lợi nhuận lớn hơn trong
tương lai, do vậy cầu về đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố sau:
- Mức cầu về sản phẩm do đầu tư mới sẽ tạo ra. Nói cách khác, đó là mức cầu
về sản lượng (GNP) trong tương lai. Nếu mức cầu về sản phẩm càng lớn thì dự kiến
đầu tư của các hãng càng cao và ngược lại.
- Các yếu tố ảnh hưởng tới chi phí đầu tư. Trong nền kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp thường vay vốn ngân hàng hoặc các trung gian tài chính để đầu tư, nên
chi phí đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào lãi suất. Nếu lãi cao, chi phí đầu tư sẽ cao, lợi
nhuận sẽ giảm đi, cầu về đầu tư do đó sẽ giảm đi. Thuế cũng là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến đầu tư. Nếu thuế đánh vào lợi tức mà cao, sẽ hạn chế số lượng và qui mô
các dự án đầu tư. Vì vậy ở một số nước đã áp dụng một chính sách thuế đặc biệt cho
các sản phẩm đầu tư mới, nhằm khuyến khích các hãng đầu tư vào các sản phẩm mới.
- Dự đoán của các doanh nghiệp về tình trạng của nền kinh tế, dự định bổ sung
vào tài sản cố định và hàng tồn kho để sản xuất và bán trong tương lai, do vậy nhu cầu
đầu tư phụ thuộc rất lớn vào dự đoán của họ về tình hình kinh tế tăng trưởng nhanh
đến mức độ nào trong tương lai.
Tuy nhiên, trước khi nghiên cứu chúng ta đã giả định rằng giá cả, lãi suất là cho
trước không đổi và trong mô hình này chưa có tác dụng của thuế. Đầu tư do đó phụ
thuộc chủ yếu vào thu nhập hay sản lượng. Tuy vậy, giữa sản lượng hay thu nhập hiện
tại và dự đoán của các hãng không có mối liên hệ chặt chẽ nào cả. Do vậy để đơn giản
ta giả định rằng đầu tư là một đại lượng không đổi để đơn giản cho việc nghiên cứu:
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
46
Ta có : I = I (3.4)
c) Hàm tổng cầu và phương pháp xác định sản lượng cân bằng
Sau khi đã nghiên cứu về tiêu dùng và hàm tiêu dùng, đầu tư và hàm đầu tư, kết
hợp (3.2) và (3.4) ta có :
AD = C + I => AD = C + MPC.Y + I
Hay AD = ( C + I ) + MPC.Y (3.5)
Với tổng cầu như (3.5) nền kinh tế sẽ cân bằng tại điểm nào? Hãy nhớ giả định
ban đầu, tổng cung là cho trước do đó sản lượng cân bằng sẽ phụ thuộc vào tổng cầu.
Nếu tổng cầu giảm các doanh nghiệp sẽ không bán hết được sản phẩm do họ sản xuất
ra, do đó hàng tồn kho sẽ tồn nhiều hơn. Ngược lại, nều tổng cầu tăng, các hãng sẽ
phải xuất hàng dự trữ ra để bán. Do đó:
Khi giá cả và tiền công cố định và tổng cung là đã cho, thị trường hàng hóa
dịch vụ sẽ đạt trạng thái cân bằng ngắn hạn khi tổng cầu hay tổng chi tiêu đúng bằng
tổng sản lượng sản xuất ra trong nền kinh tế( tổng thu nhập ).
Ở trạng thái cân bằng ngắn hạn, lượng hàng tồn kho không dự kiến bằng không.
Hay nói cách khác, trong cân bằng ngắn hạn, sản lượng sản xuất ra đúng bằng sản
lượng mà các tác nhân trong nền kinh tế cần để tiêu dùng. Dự kiến chi tiêu không bị
phá vỡ do thiếu hàng hóa, ngược lại các hãng không sản xuất nhiều hơn mức có thể
bán được. Khi đó muốn thị trường hàng hóa đạt trạng thái cân bằng thì tổng cầu phải
bằng với sản lượng sản xuất ra (Thu nhập quốc dân Y).
Ta có: Y = AD (3.6)
Thay (3.5) vào (3.6) ta có : Y = ( C + I ) + MPC.Y (3.7)
Giải phương trình với ẩn Y ta có sản lượng cân bằng (Y0) là:
1
Y0 = ------------------ . ( C + I ) (3.8)
1 – MPC
Biểu thức (3.8) là biểu thức xác định sản lượng cân bằng trong nền kinh tế giản
đơn.
Trong hình 3.4, trạng thái cân bằng của thị trường hàng hóa sẽ đạt tại điểm E
tương ứng với mức sản lượng Y0. Bất kỳ mức sản lượng nào khác với điểm E cũng
không bằng với tổng cầu. Mức sản lượng nhỏ hơn sản lượng cân bằng đều nhỏ hơn
tổng cầu hay tổng chi tiêu dự kiến, ngược lại các mức sản lượng cao hơn sản lượng
cân bằng đều vượt mức chi tiêu dự kiến. Tuy vậy không có gì có thể đảm bảo rằng
mức sản lượng cân bằng Y0 là mức sản lượng tiềm năng, tại đó tất cả mọi người muốn
đi làm đều có việc làm.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
47
Y
C
O
450
S¶n lîng thu nhËp
Ch
Ø t
iª
u
C=C+MPC.Y
AD=C+I
I
C
E
Y 0
Hình 3.4: Tổng cầu và sản lượng cân bằng
d) Số nhân
Trong công thức (3.8)
1
Y0 = ------------------ . ( C + I )
1 – MPC
Bây giờ nếu ta thay 1 1
m = ------------ hay m = ----------
1- MPC MPS
Ta có Y0 = m. ( C + I )
Trong đó m là số nhân chi tiêu. Số nhân chi tiêu cho biết sản lượng sẽ thay đổi
bao nhiêu khi có thay đổi một đơn vị trong mức chi tiêu không phụ thuộc vào thu
nhập. Thật vậy, nếu C hoặc I hoặc cả hai tăng lên một đơn vị, thì sản lượng cân bằng
Y0 sẽ tăng lên m đơn vị. Vì 0 < MPC < 1, nên m luôn luôn lớn hơn 1. Độ lớn của m
phụ thuộc vào MPC hoặc MPS. Kết quả là, những thay đổi nhỏ trong tiêu dùng và đầu
tư sẽ được số nhân m khuyếch đại lên nhiều lần. Chính nhờ tác dụng khuyếch đại này,
số nhân chi tiêu có một ý nghĩa rất lớn trong kinh tế học.
Ví dụ các hãng kinh doanh dự kiến tăng đầu tư lên 1 đơn vị. Khi sản lượng
tăng, thu nhập tăng, mức tiêu dùng sẽ tăng. Giả sử MPC = 0,8. Ta có m = 1/(1-0,8)
hay m = 1/0,2 = 5. Như vậy, việc các hãng kinh doanh dự kiến tăng đầu tư lên sẽ tác
động đến sản lượng và thu nhập, đến lượt mình sản lượng và thu nhập lại tác động
vào tiêu dùng. Tiêu dùng tăng đòi hỏi sản lượng lại tăng lên nữa. Cứ như vậy sản
lượng được khuyếch đại lên nhiều lần.
Giáo trình môn: Kinh tế vĩ mô Trường cao đẳng nghề Yên Bái
48
Mô hình số nhân có nhiều ứng dụng trong nền kinh tế nằm trong vùng suy
thoái, sản lượng chưa đạt mức sản lượng tiềm năng. Lúc này các hãng sẽ dễ dàng tăng
sản lượng nhờ thu hút công nhân đang thất nghiệp. Do vậy thất nghiệp sẽ giảm đi và
mức việc làm tăng lên. Khi sản lượng gần đạt hoặc bằng sản lượng tiềm năng, mô
hình số nhân sẽ không có tác dụng hoặc có tác dụng rất nhỏ. Các hãng kinh doanh
không thể tăng sản lượng lên khi tổng cầu tăng. Mọi tác động của tổng cầu sẽ chuyển
sang tăng mức giá.
1.2.2. Trong mô hình kinh tế đóng, có sự tham gia của Chính phủ
a) Chi tiêu của Chính phủ và tổng cầu
Khi chính phủ dự kiến mua sắm hàng hóa dịch vụ, tổng cầu của nền kinh tế sẽ
có dạng: AD = C + I + G (3.9)
Ta thấy rằng, không có một lý do nào cho thấy chi tiêu của chính phủ phụ thuộc
vào thu nhập
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_kinh_te_vi_mo_p1_0615.pdf