Tài liệu Giáo trình môn học Kế toán quản trị: 1
LỜI NÓI ĐẦU
Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập chương trình Cao đẳng nghề Kế
toán Doanh nghiệp, Thạc sỹ Kinh tế Nguyễn Sơn Ngọc Minh đã tiến hành biên
soạn giáo trình môn học Kế toán quản trị.
Giáo trình được biên soạn trên cơ sở quyết định số 15/2008/QĐ-
BLĐTBXH ngày 31 tháng 03 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương
binh và Xã hội về việc ban hành chương trình khung đào tạo trình độ Cao đẳng
nghề Kế toán Doanh nghiệp, tài liệu tham khảo là các giáo trình Kế toán quản trị
của Học viện Tài chính, trường Đại học Thương mại Hà Nội và một số tài liệu
khác có liên quan đến môn học.
Nội dung giáo trình gồm 5 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về kế toán quản trị.
Chương II: Phân loại chi phí
Chương III: Phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận
và thông tin thích hợp với quyết định ngắn hạn
ChươngIV: Dự toán sản xuất kinh doanh
Chương V: Xác định chi phí và định giá sản phẩm và dịch vụ
Trong quá trình biên soạn, soạn giả đã cố gắ...
77 trang |
Chia sẻ: khanh88 | Lượt xem: 652 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giáo trình môn học Kế toán quản trị, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI NÓI ĐẦU
Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập chương trình Cao đẳng nghề Kế
toán Doanh nghiệp, Thạc sỹ Kinh tế Nguyễn Sơn Ngọc Minh đã tiến hành biên
soạn giáo trình môn học Kế toán quản trị.
Giáo trình được biên soạn trên cơ sở quyết định số 15/2008/QĐ-
BLĐTBXH ngày 31 tháng 03 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương
binh và Xã hội về việc ban hành chương trình khung đào tạo trình độ Cao đẳng
nghề Kế toán Doanh nghiệp, tài liệu tham khảo là các giáo trình Kế toán quản trị
của Học viện Tài chính, trường Đại học Thương mại Hà Nội và một số tài liệu
khác có liên quan đến môn học.
Nội dung giáo trình gồm 5 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về kế toán quản trị.
Chương II: Phân loại chi phí
Chương III: Phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận
và thông tin thích hợp với quyết định ngắn hạn
ChươngIV: Dự toán sản xuất kinh doanh
Chương V: Xác định chi phí và định giá sản phẩm và dịch vụ
Trong quá trình biên soạn, soạn giả đã cố gắng thể hiện nội dung giáo
trình để đảm bảo tính lý luận, tính khoa học và tính thực tiễn phù hợp với nhận
thức chung của học sinh Cao đẳng nghề Kế toán doanh nghiệp. Tuy nhiên trong
quá trình biên soạn giáo trình không tránh khỏi những thiếu sót, soạn giả rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của độc giả để giáo trình ngày càng hoàn thiện
hơn.
2
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1. KHÁI NIỆM, MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1. Khái niệm về kế toán quản trị
Kế toán quản trị là một khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin
định lượng về hoạt động của đơn vị một cách cụ thể, giúp các nhà quản lý trong
quá trình ra các quyết định liên quan đến việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện,
kiểm tra, kiểm soát và đánh giá tình hình thực hiện các hoạt động của đơn vị.
1.2. Mục tiêu của kế toán quản trị
Mục tiêu của kế toán quản trị là loại kế toán dành riêng cho các nhà quản
lý, trợ giúp cho việc ra quyết định theo các tình huống rát cụ thể của các nhà
quản lý. Các quyết định của các nhà quản lý thường liên quan đến vấn đề chi phí
(tiêu dùng nguồn lực) và (lợi ích) giá trị thu được do các chi phí tạo ra. Vì vậy,
mục tiêu của kế toán quản trị tập trung vào 2 mục tiêu chủ yếu sau:
- Mục tiêu liên kết giữa việc tiêu dùng các nguồn lực (chi phí ) và nhu cầu
tài trợ với các nguyên nhân của việc tiêu dùng các nguồn lực đó (chi phí phát
sinh) để thực hiện các mục đích cụ thể của đơn vị.
Đối với kế toán quản trị, mô hình doanh nghiệp thể hiện dưới dạng gắn
các mục đích mà doanh nghiệp theo đuổi với các nguồn lực mà doanh nghiệp có
thể huy động với việc tiêu dùng các nguồn lực này (thể hiện thông qua các chi
phí).
Mục đích mà danh nghiệp theo đuổi có thể rất đa dạng, nó có thể là:
+ Bán được một khối lượng sản phẩm nào đó.
+ Tôn trọng và thực hiện một thời hạn giao hàng cụ thể.
+ Khả năng giải quyết vấn đề nào đó tại hiện trường trong một khoảng
thời gian nhất định
- Mục tiêu tìm cách tối ưu hoá mối quan hệ giữa chi phí với giá trị (lợi
ích) mà chi phí đó tạo ra.
Bất kể khi quyết định lựa chọn một phương án tối ưu của nhà quản trị,
bao giờ cũng quan tâm đến hiệu quả kinh tế của phương án mang lại; vì vậy, kế
toán quản trị phải tìm cách tối ưu hoá quan hệ giữa chi phí và lợi ích của phương
án lựa chọn. Tuy nhiên, không có nghĩa mục tiêu duy nhất là luôn hạ thấp chi
phí.
3
1.3. Nhiệm vụ của kế toán quản trị
Ngoài những nhiệm vụ của kế toán nói chung là: thu nhận, xử lý, phân
tích thông tin, số liệu; kiểm tra, giam sát tình hình tài chính, tài sản; cung cấp
thông tin, tổ chức phân tích thông tin, đề xuất các giải pháp phục vụ yêu cầu
quản trị và quyết định kinh tế, tài chính của đơn vị; nhiệm vụ cụ thể của kế toán
quản trị là:
- Tính toán và đưa ra mô hình nhu cầu vốn cho một hoạt động hay một
quyết định cụ thể
- Đo lường, tính toán chi phí cho một hoạt động, sản phẩm hay một quyết
định cụ thể
- Tìm ra những giải pháp tác động lên các chi phí để tối ưu hoá mối quan
hệ Chi phí-Khối lượng-Lợi nhuận.
2. KẾ TOÁN QUẢN TRỊ, KẾ TOÁN TÀI CHÍNH VÀ KẾ TOÁN CHI PHÍ
2.1. Kế toán tài chính và kế toán quản trị
Kế toán tài chính và kế toán quản trị là hai bộ phận của kế toán doanh
nghiệp, chúng có mối quan hệ chặt chẽ, đồng thời cũng có nhiều điểm khác biệt.
2.1.1. Sự khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị
Do có đối tượng sử dụng thông tin khác nhau, mục đích sử dụng thông tin
cũng khác nhau nên giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính có nhiều điểm
khác biệt cơ bản sau:
Tiêu thức phân
biệt
Kế toán tài chính Kế toán quản trị
- Đối tượng sử
dụng thông tin
Chủ yếu là đối tượng bên
ngoài (cổ đông, người cho
vay, khách hàng, nhà cung
cấp, ngân hàng, các nhà
đầu tư, các cơ quan Chính
phủ)
Đối tượng bên trong đơn vị
(chủ DN, ban GĐ, quản lý
viên, giám sát viên, các quản
đốc)
-Nguyên tắc trình
bày và cung cấp
thông tin
Tuân theo các nguyên tắc,
chuẩn mực kế toán quốc tế
và quốc gia
Linh hoạt, thích hợp từng tình
huống, từng đơn vị; không bắt
buộc tuân theo các nguyên tắc,
chuẩn mực kế toán chung, các
qui đinh của Nhà nước về
KTQT (nếu có) cũng chỉ là
hướng dẫn.
- Tính pháp lý Có tính pháp lệnh, tuân Tuỳ thuộc đơn vị, mang tính
4
theo qui định thống nhất
của Luật, chế độ kế toán
nội bộ và thuộc thẩm quyền
của nhà quản lý.
- Đặc điểm thông
tin
- Chủ yếu dưới hình thức
giá trị, thông tin thực hiện
về những giao dịch, nghiệp
vụ đã phát sinh
- Thu thập từ chứng từ ban
đầu, qua quá trình ghi sổ,
tổng hợp báo cáo
-Cả hình thức giá trị, hiện vật,
lao động; thông tin chủ yếu
hướng tới tương lai (hướng tới
những sự kiện chưa phát sinh-
sẽ phát sinh)
- Thông tin thường không có
sẵn, nên cần phải thu thập từ
nhiều nguồn khác nhau (dựa
vào hệ thống ghi chép ban đầu
của kế toán, kết hợp với nguồn
từ các bộ phận liên quan)
- Hình thức báo
cáo sử dụng
Báo cáo tổng hợp; theo hệ
thống báo cáo tài chính;
bắt buộc theo mẫu
Báo cáo theo từng bộ phận,
từng tình huống ra quyết định;
linh hoạt theo yêu cầu quản lý
(không bắt buộc theo khuôn
mẫu)
- Kỳ báo cáo Định kỳ ( quý, năm) Thường xuyên, kỳ ngắn, theo
yêu cầu của nhà quản trị
(không qui định được kỳ báo
cáo)
2.1.2. Sự giống nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị
Kế toán tài chính và kế toán quản trị có nhiều điểm giống nhau và là hai
bộ phận không thể tách rời của kế toán doanh nghiệp, chúng có những điểm
giống nhau cơ bản sau:
- Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều đề cập đến các sự kiện kinh tế
trong doanh nghiệp và đều quan tâm đến tài sản, nguồn vốn, chi phí, doanh thu,
kết quả hoạt động.. Một bên phản ánh tổng quát và một bên phản ánh chi tiết, tỉ
mỉ các vấn đề đó.
- Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều dựa trên hệ thống ghi chép ban
đầu của kế toán. Hệ thống ghi chép ban đầu là cơ sở để kế toán tài chính soạn
thảo các báo cáo tài chính định kỳ, cung cấp cho các đối tượng bên ngoài. Đối
vói kế toán quản trị, hệ thống đó cũng là cơ sở để vận dụng, xử lý nhằm tạo ra
các thông tin thích hợp cho việc ra quyết định của các nhà quản trị. Kế toán
quản trị sử dụng rộng rãi các ghi chép hàng ngày của kế toán tài chính, mặc dù
có triển khai và tăng thêm số liệu cũng như nội dung của các thông tin đó.
- Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều biểu hiện trách nhiệm của
người quản lý. Kế toán tài chính biểu hiện trách nhiệm của người quản lý cấp
5
cao, còn kế toán quản trị biểu hiện trách nhiệm của các nhà quản lý các cấp bên
trong doanh nghiệp. Nói cách khác, kế toán tài chính hay kế toán quản trị đều
tham gia vào quản lý doanh nghiệp.
2.2. Kế toán chi phí với kế toán quản trị
Nội dung chủ yếu, phổ biến của kế toán quản trị trong doanh nghiệp bao
gồm:
- Kế toán quản trị chi phí và giá thành sản phẩm;
- Kế toán quản trị bán hàng và kết quả kinh doanh;
- Phân tích mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận;
- Lựa chọn thông tin thích hợp cho việc ra quyết định;
- Lập dự toán ngân ách sản xuất, kinh doanh;
- Kế toán quản trị một số khoản mục khác;
- Kế toán quản trị tài sản cố định;
- Kế toán quản trị hàng tồn kho;
- Kế toán quản trị lao động và tiền lương;
- Kế toán quản trị các khoản nợ
Ngoài các nội dung chủ yếu trên, doanh nghiệp có thể thực hiện các nội
dung kế toán quản trị khác theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Như vậy, kế toán quản trị nói chung là việc thu thập, xử lý, phân tích và
cung cấp thông tin kinh tế, tài chính phục vụ việc điều hành, kiểm tra và ra các
quyết định kinh tế.
Còn kế toán quản trị chi phí và giá thành sản phẩm là một bộ phận quan
trọng trong kế toán quản trị nói chung, nhằm cung cấp các thông tin về tình hình
chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp trong một thời kỳ
nhất định phục vụ cho việc ra các quyết định liên quan đến chi phí và giá thành
sản phẩm.
2.3. Kế toán quản trị với các môn khoa học khác
Thông tin kế toán quản trị là nhằm phục vụ chức năng ra quyết định của
nhà quản trị và thường không có sẵn nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép
ban đầu của kế toán, kế toán quản trị còn phải kết hợp với nhiều ngành khác
như: Thống kê, Kinh tế học, Quản lý để tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin
thành dạng hữu ích.
6
3. VAI TRÒ CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC
CHỨC NĂNG QUẢN LÝ
3.1. Vai trò của kế toán quản trị trong việc thực hiện chức năng quản
lý ở doanh nghiệp
Trách nhiệm của các nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp là điều hành
và quản lý các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Các chức năng cơ bản của quản
lý doanh nghiệp, tất cả xoay quanh vấn đề “ ra quyết định”. Để quản lý và ra
quyết định đối với các tình huống thì cần phải có thông tin. Chức năng cơ bản
của quản lý được khái quát bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1. Chu kỳ thực hiện các chức năng quản lý
Qua sơ đồ này có thể thấy sự liên tục của hoạt động quản lý từ khâu lập kế
hoạch đến thực hiện, kiểm tra, đánh giá rồi sau đó quay lại khâu lập kế hoạch
cho kỳ sau, tất cả đều xoay quanh trục quyết định.
Như vậy, để làm tốt các chức năng quản lý, nhà quản trị phải có thông tin
cần thiết để có thể ra các quyết định đúng đắn. Kế toán quản trị là nguồn chủ
yếu cung cấp nhu cầu thông tin đó. Vai trò của kế toán quản trị thể hiện trong
các khâu của quá trình quản lý được thể hiện cụ thể như sau:
- Trong giai đoạn lập kế hoạch và dự toán
Lập kế hoạch là xây dựng các mục tiêu phải đạt được và vạch ra các bước
thực hiện để đạt được những mục tiêu đó. Các kế hoạch này có thể là kế hoạch
dài hạn, ngắn hạn.
Lập kế hoạch
Ra quyết định
Kiểm tra
Tổ chức,
điều hành
Đánh giá
7
Dự toán cũng là một loại kế hoạch nhằm liên kết các mục tiêu và chỉ rõ
cách huy động, sử dụng các nguồn lực để đạt các mục tiêu đề ra.
Kế toán quản trị thu thập thông tin thực hiện (quá khứ) và những thông tin
liên quan đến tương lai (thông tin dự đoán, dự tính) để phục vụ cho việc lập kế
hoạch, dự toán.
- Trong giai đoạn tổ chức thực hiện
Trong khâu tổ chức thực hiện, các nhà quản trị phải biết cách liên kết tốt
nhất giữa các yếu tố, tổ chức, con người và các nguồn lực , sao cho kế hoạch
được thực hiện ở mức cao nhất và hiệu quả nhất.
Kế toán quản trị có vai trò thu thập và cung cấp các thông tin đã và đang
thực hiện để phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh của nhà quản trị và chỉ
đạo thực hiện các quyết định (như các quyết định ngắn hạn: quyết định loại bỏ
hoặc tiếp tục duy trì kinh doanh một bộ phận nào đó; quyết định tự sản xuất hay
mua; quyết định bán ngay nửa thành phẩm hay tiếp tục chế biến hoặc các
quyết định dài hạn khác..) Ngoài ra còn thu thập thông tin thực hiện để phục
vụ cho việc kiểm tra đánh giá sau này.
- Trong giai đoạn kiểm tra và đánh giá:
Nhà quản trị sau khi đã lập kế hoạch đầy đủ và hợp lý, tổ chức thực hiện
kế hoạch, đòi hỏi phải kiểm tra, đánh giá hoạt động (kết quả công việc) và đánh
giá việc thực hiiện kế hoạch. Phương pháp thường dùng là so sánh số liệu thực
hiện với số liệu của kế hoạch và dự toán, xác định những sai biệt giữa kết quả
đạt được với các mục tiêu đề ra. Do đó, kế toán quản trị có vai trò cung cấp
thông tin thực hiện từng bộ phận; giúp nhà quản lý nhận diện và đánh giá kết
quả thực hiện, những vấn đề còn tồn tại cần có tác động của quản lý; đồng thời
phục vụ cho việc lập kế hoạch, dự toán kỳ sau.
-Trong khâu ra quyết định.
Phần lớn thông tin do kế otán quản trị cung cấp nhằm giúp các nhà quản
lý ra quyết định. Đó là một chức năng quan trọng, xuyên suốt các khâu của quản
trị doanh nghiệp, từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, đến kiểm tra, đánh
giá.
Kế toán quản trị có vai trò cung cấp thông tin, soạn thảo các báo cáo phân
tích số liệu, thông tin thích hợp giữa các phương án đưa ra để lựa chọn; tư vấn
cho nhà quản trị lựa chọn phương án, quyết định phù hợp, tối ưu nhất.
8
Kế toán quản trị giúp các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định không
chỉ bằng cách cung cấp thông tin thích hợp,mà còn bằng cách vận dụng các kỹ
thuật phân tích vào những tình huống khác nhau, để từ đó nhà quản trị lựa chọn,
ra quyết định thích hợp nhất.
3.2. Phương pháp nghiệp vụ của kế toán quản trị
KTQT là một bộ phận của kế toán doanh nghiệp nên trước hết phải áp
dụng các phương pháp chung của kế toán, đó là phương pháp chứng từ kế toán,
phương pháp tài khoản kế toán, phương pháp tính giá và phương pháp tổng hợp
cân đối kế toán. Tuy nhiên việc vận dụng các phương pháp này cũng có những
đặc điểm khác so với KTTC.
Song đặc điểm của thông tin KTQT chủ yếu phục vụ quá trình ra quyết
định của các nhà quản trị. Thông tin này thường không có sẵn, do đó KTQT phải
vận dụng một số phương pháp nghiệp vụ để xử lý chúng thành dạng phù hợp với
nhu cầu của các nhà quản trị.Các phương pháp thường được vận dụng là:
3.2.1. Thiết kế thông tin thành dạng so sánh được.
Thông tin sẽ vô dụng nếu thiếu các tiêu chuẩn để so sánh với nó. Do
đó để chuyển những thông tin đã thu thập được thành dạng hữu ích, KTQT sẽ
phân tích và thiết kế chung thành dạng có thể so sánh được. Quá trình ra quyết
định của nhà quản trị phải dựa vào những so sánh này để đánh giá và ra quyết
định.
3.2.2. Phân loại chi phí.
Kiểm soát chi phí là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và quan trọng
của nhà quản trị nên việc phân loại chi phí sao cho hữu ích và thích hợp với nhu
cầu quản trị cũng là một phương pháp cuả KTQT.
KTQT thực hiện việc phân loại chi phí theo nhiều tiêu thức khác nhau để
phục vụ cho các mục đích khác nhau của quản trị doanh nghiệp.
3.2.3. Trình bày mối quan hệ giữa các thông tin kế toán theo dạng
phương trình.
Dạng phương trình rất tiện dụng cho việc phân tích và dự đoán một số quá
trình chưa xảy ra căn cứ trên các dữ kiện đã có và mối quan hệ đã xác định.Do
đó trình bày mối quan hệ giữa các thông tin kế toán dưới dạng phương trình
cũng là một phương pháp được KTQT sử dụng làm căn cứ cho việc tính toán lập
kế hoạch.
3.2.4. Trình bày thông tin dưới dạng đồ thị:
9
Đồ thị là cách thể hiện dễ thấy và rõ ràng nhất mối quan hệ và xu hướng
biến thiên của thông tin. Do đó phương pháp này cũng được KTQT sử dụng khá
thông dụng.
3.3. Tổ chức hệ thống bộ máy kế toán quản trị
3.3.1. Nội dung của tổ chức KTQT trong doanh nghiệp
Để phục vụ cho việc ra quyết định của nhà quản trị, tổ chức KTQT trong
doanh nghiệp có thể được thực hiện theo chức năng hoặc theo khâu công việc
của quá trình kế toán.
3.3.1.1. Tổ chức KTQT trong doanh nghiệp theo chức năng.
Theo chức năng của KTQT, KTQT trong doanh nghiệp được tổ chức theo
các nội dung cụ thể sau:
- Tổ chức thu nhận thông tin.
+ Thu nhận thông tin quá khứ: Bộ phận thông tin này được thu nhận
thông qua kế toán chi tiết, chi tiết hoá các chỉ tiêu KTTC theo yêu cầu quản trị.
+ Thu nhận thông tin tương lai: Bộ phận thông tin này được thu nhận
thông qua các bộ phận chức năng của doanh nghiệp, nhằm có được những dự
đoán tương lai liên quan đến hoạt động của DN, từ đó xây dựng hệ thống kế
hoạch, dự toán giúp nhà quản trị điều hành hoạt động của DN có hiệu quả.
- Tổ chức phân tích thông tin:
+ Tổ chức phân tích thông tin quá khứ: Trên cơ sở các thông tin quá khứ
đã thu nhận được, KTQT tiến hành so sánh, phân tích tình hình thực hiện kế
hoạch, dự toán xác định các nhân tố ảnh hưởng, những tồn tại và nguyên nhân
của nó để đưa ra những giải pháp khắc phục, khai thác khả năng tiềm tàng để sử
dụng các nguồn lực của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao hơn.
+ Tổ chức phân tích thông tin tương lai, cung cấp thông tin để tư vấn cho
nhà quản trị ra quyết định: KTQT đặc biệt quan tâm tới việc phân tích mối quan
hệ chi phí- khối lượng- lợi nhuận, phân tích điểm hoà vốn trong kinh doanh
phục vụ cho việc ra quyết định ngắn hạn. Đồng thời KTQT cũng rất chú trọng
đến việc phân tích thông tin bằng phương pháp nhất định như: phương pháp
hiện giá thuần, phương pháp tỷ lệ sinh lợi nội bộ. giúp nhà quản trị ra các
quyết định đầu tư dài hạn.
3.3.1.2. Tổ chức KTQT trong doanh nghiệp theo các khâu công việc của
quá trình kế toán.
10
Các khâu công việc của quá trình kế toán bao gồm: tổ chức hạch toán ban
đầu, tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán, tổ chức hệ thống sổ kế toán,
tính giá và lập báo cáo kế toán. Việc tổ chức KTQT trong doanh nghiệp theo các
khâu công việc của quá trình kế toán được thực hiện như sau:
- Tổ chức hạch toán ban đầu:
+ Sử dụng hệ thống chứng từ kế toán bắt buộc để thu nhận thông tin kế
toán theo qui định.
+ Cụ thể hoá hệ thống chứng từ hướng dẫn, chọn lọc, bổ sung, sửa đổi các
chỉ tiêu trên chứng từ cho phù hợp với nội dung KTQT.
+ Thiết kế một số chứng từ kế toán cần thiết để phản ánh các nội dung
thông tin thích hợp theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp trong việc thu nhận, xử
lý và cung cấp thông tin cho việc đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, định
mức và dự toán cũng như phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch, định mức và dự
toán mới.
+ Tổ chức luân chuyển chứng từ hợp lý
- Tổ chức tài khoản kế toán:
Trên cơ sở hệ thống tài khoản kế toán thống nhất do nhà nước ban hành,
trên cơ sở yêu cầu quản lý chi tiết đốivới từng đối tượng để mở các tài khoản chi
tiết cấp 2, cấp 3, cấp 4, nhằm chi tiết hoá các thông tin KTQT, từ đó xử lý,
tổng hợp, phân tích thông tin một cách khoa học và có hệ thống.
- Tổ chức hệ thống sổ kế toán:
Thiết kế hệ thống sổ kế toán chi tiết với số lượng sổ, kết cấu mẫu sổ và
các chỉ tiêu cần phản ánh phù hợp với các yêu cầu quản trị khác nhau, đồng thời
phù hợp với trình độ trang bị công nghệ xử lý thông tin tại doanh nghiệp.
- Tính giá và lập báo cáo quản trị:
+ Sử dụng các phương pháp tính giá mang tính chất đặc thù của kế toán
quản trị đến xác định giá trị tài sản phục vụ cho việc xây dựng định mức chi phí,
lập dự toán chi phí, phân tích điểm hoà vốn trong kinh doanh, xác định giá ngắn
hạn,
+ Trên cơ sở các thông tin đã thu nhận, cần lập hệ thống báo cáo kế toán
nội bộ gồm báo cáo nhanh, báo cáo định kỳ, báo cáo đột xuất, báo cáo chi tiết,
báo cáo tổng hợp,. Từ đó kết hợp sử dụng các phương pháp kỹ thuật khác
nhau để phân tích các chỉ tiêu thực hiện, giúp nhà quản trị ra quyết định đúng
đắn và hiệu quả hơn.
11
3.3.2. Mô hình tổ chức kế toán quản trị
Giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Tuy nhiên giữa hai loại kế toán này cũng có tính độc lập tương đối. Vì
vậy, xuất phát từ điều kiện cụ thể và yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp mà
tổ chức KTQT trong doanh nghiệp có thể được xây dựng theo một trong 2 mô
hình sau:
3.3.2.1.Mô hình tổ chức kế toán quản trị kết hợp kế toán tài chính
Theo mô hình này, phòng kế toán của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận
kế toán đảm nhiệm các phần hành KTTC cụ thể. Tương ứng với mỗi bộ phận
của KTTC sẽ bao gồm các phần hành KTQT. Nhân viên kế toán ở mỗi bộ phận
sẽ thực hiện đồng thời các công việc của KTTC và KTQT.
- Các công việc của KTTC được thực hiện cho mỗi phần hành kế toán bao
gồm:
+ Căn cứ vào các chứng từ kế toán, KTTC ghi sổ kế toán tổng hợp và sổ
kế toán chi tiết có liên quan.
+ Cuối kỳ, kiểm tra, đối chiếu, khoá sổ kế toán làm căn cứ để lập các báo
cáo tài chính.
- Các công việc của KTQT được thực hiện tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý
đối với từng phần hành kế toán. Chẳng hạn:
+ Bộ phận kế toán tiền mặt, KTQT thực hiện các công việc sau:
. Ghi nhận nghiệp vụ thu chi tiền vào các sổ kế toán chi tiết được mở theo
yêu cầu quản trị.
. Lập dự toán thu, chi theo từng mục đích, từng bộ phận sử dụng tiền.
+ Bộ phận kế toán chi phí- giá thành, KTQT thực hiện các công việc sau:
. Phân loại chi phí, lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí, phương pháp
phân bổ chi phí, tính giá thành sản phẩm theo mục tiêu quản trị.
. Xây dựng định mức, lập dự toán hi phí SXKD.
. Mở hệ thống sổ kế toán chi tiết để thu thập thông tin chi tiết về chi phí
sản xuất, giá thành SP theo yêu cầu quản trị.
. Cung cấp thông tin để lập báo cáo quyết toán ( như báo cáo SX theo
phân xưởng).
12
- Việc tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình này có những ưu nhược điểm
sau:
+ Ưu điểm cơ bản của mô hình này:
. Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý tổng hợp và quản lý chi tiết theo từng chỉ
tiêu.
. Phân công, phân nhiệm trong phòng kế toán thuận lợi, đơn giản, dễ làm,
tạo điều kiện quản lý chặt chẽ công việc của nhân viên kế toán.
. Thu nhận, xử lý thông tin nhanh
. Thuận lợi cho việc cơ giới hoá công tác kế toán
+ Nhược điểm:
. Không tạo điều kiện thuận lợi cho chuyên môn hoá theo hai loại kế toán
(KTTC và KTQT) từ đó hạn chế quá trình quản lý nội bộ.
3.3.2. 2. Mô hình tổ chức kế toán quản trị độc lập với kế toán tài chính
Theo mô hình này, phòng kế toán của doanh nghiệp có bộ phận KTQT
riêng, thực hiện các công việc độc lập với KTTC. Các công việc của KTQT
được thực hiện ở bộ phận này bao gồm:
- Mở hệ thống sổ kế toán chi tiết theo yêu cầu quản lý
- Lập dự toán các chỉ tiêu và theo dõi tình hình thực hiện dự toán.
- Phân loại chi phí, lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí, phương pháp
phân bổ chi phí, tính giá thành sản phẩm theo mục tiêu quản trị.
- Phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí.
- Cung cấp số liệu, tài liệu cho việc lập dự toán mới và lập BCQT.
Việc tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình này có những ưu nhược điểm
sau:
- Ưu điểm cơ bản của mô hình này là tạo điều kiện thuận lợi cho chuyên
môn hoá theo 2 loại kế toán (KTTC và KTQT).
- Nhược điểm:
. Không có sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý tổng hợp và quản lý chi tiết
theo từng chỉ tiêu.
. Thu nhận, xử lý thông tin chậm do phải tăng thêm thủ tục luân chuyển
chứng từ kế toán.
13
Câu hỏi ôn tập:
1.Khái niệm kế toán quản trị, nội dung cơ bản và mục tiêu, nhiệm vụ của
kế toán quản trị doanh nghiệp?
2. Phân biệt sự giống và khác nhau giữa kế toán quản trị và kế toán tài
chính?
3. Phân tích vai trò của kế toán quản trị trong việc thực hiện các chức
năng quản lý.
4. Trình bày nội dung của kế toán quản trị.
5. Phân tích ưu, nhược diểm của các mô hình tổ chức kế toán quản trị.
14
CHƯƠNG 2:
PHÂN LOẠI CHI PHÍ VÀ PHÂN TÍCH BIẾN ĐỘNG CHI PHÍ
1. KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT CỦA CHI PHÍ
1.1. Khái niệm
Kế toán quản trị có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp các thông
tin về hoạt động của doanh nghiệp giúp các nhà quản lý thực hiện chức năng
quản trị doanh nghiệp. Đa số các thông tin mà các nhà quản lý cần thường có
liên quan với các chi phí của doanh nghiệp. Do đó để có thể cung cấp những
thông tin về chi phí của doanh nghiệp một cách đầy đủ và hữu ích, cần phải hiểu
biết về khái niệm, bản chất, nội dung của chi phí.
Thuật ngữ chi phí có từ thời trung cổ (từ thế kỷ thứ V sau công nguyên) từ
đó cho đến nay người ta vẫn quan niệm chi phí như là những hao phí phải bỏ ra
để đổi lấy sự thu về.
Hiện tại cũng có nhiều khái niệm khác nhau về chi phí.
Xét dưới góc độ kế toán, theo chuẩn mực kế toán Việt nam – Chuẩn mực
số 01 “ Chuẩn mực chung”: Chi phí là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích
kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra,các khoản khấu trừ
tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu, không
bao gồm khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu.
Theo quan điểm của các trường đại học khối kinh tế: chi phí của doanh
nghiệp được hiểu là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và
các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá trình hoạt động
kinh doanh, biểu hiện bằng tiền và tính cho 1 thời kì nhất định .
Các khái niệm trên tuy có khác nhau về cách diễn đạt, về mức độ khái
quát nhưng đều thể hiện bản chất của chi phí là những hao phí phải bỏ ra để đổi
lấy sự thu về, có thể thu về dưới dạng vật chất định lượng được như số lượng
sản phẩm hoặc thu về dưới dạng tinh thần hay dịch vụ được phục vụ
1.2. Bản chất của chi phí
Bản chất kinh tế của chi phí được thể hiện ở các điểm sau:
- Nội dung của chi phí có thể biểu hiện bằng công thức:
C + V + M1
Trong đó:
15
+ C là hao phí lao động vật hoá - giá trị của tư liệu sản xuất đã tiêu hao
như khấu hao TSCĐ, chi phí vật liệu, công cụ, dụng cụ
+ V là hao phí lao động sống như chi phí về tiền lương (tiền công) phải trả
cho người lao động tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh.
+ M1 là một phần giá trị mới sáng tạo ra như các khoản trích theo tiền
lương: BHXH, BHYT, KPCĐ; các khoản thuế có tính chất chi phí như thuế tài
nguyên, thuế môn bài, thuế nhà đất; chi phí lãi vay.
- Các chi phí của doanh nghiệp phải được đo lường và tính toán bằng tiền
trong một khoảng thời gian xác định (năm, quí, tháng)
- Xét ở góc độ doanh nghiệp, chi phí luôn có tính cá biệt, nó bao gồm tất
cả các khoản chi phí mà doanh nghiệp phải chi ra để tồn tại và hoạt động.
- Độ lớn của chi phí phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản:
+ Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong một thời gian
nhất định.
+ Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu hao và tiền công của một đơn vị lao
động đã hao phí.
Để hiểu rõ hơn về nội dung, bản chất của chi phí cũng cần phải phân biệt
chi tiêu với chi phí của doanh nghiệp trong một thời kỳ.
Chi tiêu của doanh nghiệp là sự chi ra, sự giảm đi đơn thuần của tài sản
bằng tiền trong doanh nghiệp, không kể các khoản chi tiêu đó dùng vào việc gì?
dùng như thế nào? Chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm : chi cho quá
trình mua hàng (chi mua sắm vật tư, hàng hoá), chi cho quá trình sản xuất
kinh doanh (chi cho sản xuất chế tạo sản phẩm ), chi cho quá trình tiêu thụ sản
phẩm, hàng hoá (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo), chi cho hoạt động quản
lý và cho các hoạt động khác.
Còn chi phí, chỉ bao gồm những hao phí về tài sản và lao động có liên
quan đến việc tạo ra doanh thu và thu nhập để hình thành lợi nhuận của kỳ hạch
toán chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ.
Chi tiêu và chi phí có mối liên hệ mật thiết với nhau, chi tiêu là cơ sở phát
sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Nhưng chi tiêu và chi
phí là hai khái niệm khác nhau. Giữa chi tiêu và chi phí của doanh nghiệp trong
cùng một thời kỳ có sự khác nhau về lượng và về thời gian:
* Sự khác nhau về lượng: Chi phí của doanh nghiệp không bao gồm các
khoản chi tiêu có đặc điểm sau:
16
Các khoản chi tiêu làm giảm tài sản bằng tiền nhưng làm tăng tài sản khác
trong doanh nghiệp ( ví dụ: dùng tiền mặt, TGNH mua hàng hoá, công cụ dụng
cụ)
Các khoản chi tiêu làm giảm tài sản nhưng đồng thời cũng làm giảm một
khoản nợ phải trả của doanh nghiệp ( ví dụ: dùng tiền để nộp thuế, trả nợ người
bán, trả lương cho nhân viên)
Sự khác biệt này sẽ làm cho tổng chi tiêu và tổng chi phí của doanh
nghiệp trong một kỳ không bằng nhau.
* Sự khác nhau về thời gian: Do có sự không phù hợp về thời gian phát
sinh các khoản chi tiêu và thời gian phát huy tác dụng của nó đối với thu nhập
của doanh nghiệp:
Có những khoản chi tiêu ở kỳ này nhưng còn được chờ để phân bổ vào
chi phí của kỳ sau (chi phí trả trước ).
Có những khoản chưa chi tiêu ở kỳ này (sẽ chi ở kỳ sau) nhưng đã được
tính trước vào chi phí của kỳ này (chi phí phải trả ).
Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí của một kỳ trong doanh
nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị
của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất kinh doanh cũng như yêu cầu của kỹ
thuật hạch toán.
Tại các doanh nghiệp, chi phí bao gồm nhiều loại có tính chất kinh tế,
công dụng khác nhau và yêu cầu quản lý đối với từng loại cũng khác nhau. Việc
quản lý chi phí không chỉ căn cứ vào số liệu tổng chi phí mà phải theo dõi, kiểm
soát dựa vào số liệu của từng loại chi phí. Bởi vậy, muốn quản lý tốt chi phí tất
yếu phải phân loại chi phí.
2. PHÂN LOẠI CHI PHÍ
Các DN hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau (sản xuất,
thương mại, dịch vụ) hoặc sản xuất kinh doanh những loại sản phẩm, dịch vụ
khác nhau thì nội dung, tính chất của chi phí cũng sẽ khác nhau. Tuy nhiên, hoạt
động của doanh nghiệp sản xuất thường phức tạp hơn các loại hình DN khác, do
chức năng của nó bao gồm cả sản xuất, lưu thông và quản lý. Sự hiểu biết về cơ
cấu chi phí của doanh nghiệp sản xuất sẽ cung cấp những kiến thức rộng, bao
quát của việc xác định chi phí, nên sẽ rất ích lợi trong việc tìm hiểu cơ cấu chi
phí của các loại hình DN khác. Mặt khác, mặc dù trong thực tế ngoài hoạt động
sản xuất kinh doanh các DN còn có thể thực hiện các hoạt động khác, nhưng
hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn là hoạt động cơ bản giúp DN đạt được mục
17
tiêu đã xác định. Do đó, phần này giáo trình sẽ tập trung vào phương pháp phân
loại chi phí phục vụ cho việc ra quyết định của nhà quản trị trong DN thuộc loại
hình hoạt động sản xuất.
2.1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Cách phân loại này căn cứ vào vai trò của chi phí với từng chức năng hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Phân loại chi phí theo chức năng là
cơ sở để tập hợp chi phí và xác định giá thành sản phẩm, đồng thời cung cấp
thông tin có hệ thống cho việc lập các báo cáo tài chính (Bảng cân đối kế toán,
Báo cáo kết quả kinh doanh theo chức năng hoạt động..).
Theo tiêu thức này chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được chia thành các loại sau:
a) Chi phí sản xuất:
Chi phí sản xuất là những khoản chi phí phát sinh tại các phân xưởng
(bộ phận ) sản xuất gắn liền với các hoạt động sản xuất chế tạo sản phẩm của
DN.
Chi phí sản xuất bao gồm 3 khoản mục chi phí cơ bản đó là:
* Chi phí nguyên vật liệu (NVL) trực tiếp: là toàn bộ các chi phí về
nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu được sử dụng trực tiếp để sản
xuất, chế tạo sản phẩm, cung cấp dịch vụ. Chi phí về nguyên vật liệu chính
thường dễ nhận diện cho từng đối tượng chịu chi phí (từng sản phẩm, loại sản
phẩm, công trình, hạng mục.) nên khi hạch toán khoản chi phí này chỉ cần căn
cứ chứng từ gốc để hạch toán trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí. Còn chi
phí vật liệu phụ, nhiên liệu có thể liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí.
Truờng hợp này để hạch toán chi phí vào từng đối tượng chịu chi phí phải tiến
hành phân bổ theo tiêu thức phù hợp (chi phí NVL chính, định mức chi phí).
Trong quản lý khoản mục chi phí NVL trực tiếp, nhà quản lý cần chú ý khi nhận
diện chi phí vật liệu phụ, bởi lẽ ngoài việc dùng trực tiếp để sản xuất chế tạo sản
phẩm, vật liệu phụ còn được dùng để phục vụ, quản lý sản xuất. Mà giá trị vật
liệu phụ dùng để phục vụ , quản lý sản xuất không được hạch toán vào khoản
mục chi phí NVL trực tiếp, nó thuộc nội dung khoản mục chi phí sản xuất
chung.
* Chi phí nhân công trực tiếp: là các khoản chi phí phải trả cho công nhân
trực tiếp thực hiện quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện các dịch vụ,
bao gồm lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp, tiền công và các khoản
18
trích theo tiền lương(BHXH, BHYT, KPCĐ) được tính vào chi phí sản xuất
trong kỳ của công nhân trực tiếp thực hiện quá trình sản xuất.
Chi phí nhân công trực tiếp dễ nhận diện cho từng đối tượng chịu chi phí.
Thông thường nhân viên hạch toán chỉ cần căn cứ vào bảng chấm công, phiếu kê
khối lượng sản phẩm, công việc hoàn thành và cấp bậc lương của công nhân để
hạch toán khoản mục chi phí này.Trừ trường hợp trong cùng một qui trình công
nghệ sản xuất lại chế tạo ra nhiều loại sản phẩm khác nhau thì để hạch toán
khoản mục chi phí này cho từng loại sản phẩm, kế toán cũng phải tiến hành phân
bổ cho từng đối tượng chịu chi phí theo tiêu thức phù hợp ( định mức chi phí
nhân công, chi phí NVL).
* Chi phí sản xuất chung: là tất cả các khoản chi phí sản xuất phát sinh tại
phân xưởng sản xuất ngoài 2 khoản mục chi phí NVL trực tiếp và nhân công
trực tiếp để phục vụ và quản lý sản xuất. Chi phí sản xuất chung bao gồm:
+ Chi phí nhân viên phân xưởng: đó là các chi phí về tiền công, tiền lương
phải trả cho những nhân viên làm nhiệm vụ phục vụ, quản lý sản xuất ( công
nhân sửa chữa, bảo trì máy móc thiết bị sản xuất, quản đốc phân xưởng) và
các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ ) được tính vào chi phí sản
xuất của những nhân viên này.
+ Chi phí vật liệu quản lý: là chi phí về vật liệu phụ dùng cho phục vụ,
quản lý sản xuất.
+ Chi phí công cụ, dụng cụ dùng trong sản xuất sản phẩm .
+ Chi phí khấu hao máy móc, thiết bị và TSCĐ khác dùng trong sản xuất
sản phẩm.
+ Chi phí dịch vụ thuê ngoài dùng trong sản xuất (điện , nước)
+ Chi phí sản xuất khác.
Chi phí sản xuất chung là một khoản mục chi phí phức tạp bao gồm nhiều
yếu tố chi phí có đặc điểm, tính chất biến đổi khác nhau. Đây là khoản mục chi
phí khó định lượng, khó xây dựng định mức, nên trong quản lý, khoản mục chi
phí sản xuất chung cần phải được chú ý kiểm soát chặt chẽ.
Trong thực tế chi phí sản xuất chung thường được tập hợp theo phạm vi
địa điểm sản xuất (phân xưởng, công đoạn,...). Nếu phân xưởng (công đoạn) sản
xuất chỉ thực hiện sản xuất một loại sản phẩm thì chi phí sản xuất chung là chi
phí trực tiếp. Trường hợp phân xưởng (công đoạn) sản xuất thực hiện sản xuất
nhiều loại sản phẩm thì chi phí sản xuất chung là chi phí gián tiếp, do đó để hạch
19
toán chi phí sản xuất chung cho từng đối tượng chịu chi phí kế toán cũng phải
tiến hành phân bổ theo những tiêu thức phù hợp (số giờ lao động trực tiếp, định
mức chi phí sản xuất chung, số giờ máy hoạt động..).
Chi phí NVL trực tiếp kết hợp với chi phí nhân công trực tiếp gọi là chi
phí ban đầu. Chi phí ban đầu phản ánh mức chi phí chủ yếu để sản xuất sản
phẩm, chi phí này có thể nhận diện cho từng đơn vị sản phẩm và là cơ sở để lập
kế hoạch về lượng chi phí chủ yếu cần thiết để sản xuất loại sản phẩm đó.
Chi phí nhân công trực tiếp kết hợp với chi phí sản xuất chung được gọi là
chi phí chuyển đổi. Chi phí chuyển đổi phản ánh mức chi phí cần thiết để
chuyển đổi nguyên liệu từ dạng thô sang dạng thành phẩm và là cơ sở để lập kế
hoạch về lượng chi phí cần thiết để chế biến 1 lượng nguyên liệu nhất định
thành thành phẩm.
Chi phí sản xuất chỉ phát sinh ở những DN thuộc loại hình sản xuất (sản
xuất công nghiệp, sản xuất xây lắp)
b) Chi phí ngoài sản xuất:
Chi phí ngoài sản xuất là những khoản chi phí doanh nghiệp phải chi để
thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, cung cấp dịch vụ và chi cho bộ máy
quản lý doanh nghiệp . Căn cứ vào chức năng hoạt động chi phí ngoài sản xuất
được chia thành 2 loại:
* Chi phí bán hàng: là chi phí lưu thông và tiếp thị trong quá trình bán sản
phẩm, hàng hoá, cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Loại chi phí này gồm chi phí
giao hàng, quảng cáo, giao dịch, lương nhân viên bán hàng
* Chi phí quản lý doanh nghiệp: là những chi phí có liên quan đến việc tổ
chức, quản lý hành chính và phục vụ sản xuất kinh doanh có tính chất chung
toàn doanh nghiệp.
Giống như chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng và chi phí quản lý
doanh nghiệp cũng là những khoản mục chi phí có nội dung phức tạp bao gồm
nhiều yếu tố chi phí có đặc điểm, tính chất khác nhau, liên quan đến nhiều bộ
phận trong doanh nghiệp. Vì vậy việc kiểm soát, quản lý và phân bổ chi phí bán
hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp cho các đối tượng chịu chi phí rất khó khăn,
đôi khi dẫn đến việc đánh giá sai kết quả hoạt động của từng bộ phận và hậu quả
là sẽ làm giảm tinh thần phấn khởi, năng động sáng tạo của các bộ phận trong
doanh nghiệp.
Tất cả các loại hình tổ chức doanh nghiệp đều phát sinh chi phí ngoài sản
xuất .
20
Sơ đồ 2.1- Phân loại chi phí theo chức năng
2.2. Phân loại theo mối quan hệ với thời kỳ xác định lợi nhuận
Theo tiêu thức này chi phí của doanh nghiệp được chia thành 2 loại như
sau:
* Chi phí sản phẩm: là những khoản chi phí gắn liền với quá trình sản
xuất chế tạo sản phẩm hay quá trình mua hàng hoá để bán. Đối với doanh nghiệp
sản xuất thì chi phí sản phẩm chính là chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp và chi phí sản xuất chung, còn đối với doanh nghiệp thương mại thì chi
phí sản phẩm chính là giá mua hàng hoá và chi phí mua hàng hoá .
Đặc điểm của chi phí sản phẩm là khi sản phẩm, hàng hoá chưa được bán
ra thì chi phí sản phẩm được phản ánh trong giá thành hàng tồn kho trên bảng
cân đối kế toán. Khi sản phẩm , hàng hoá được bán ra thì chi phí sản phẩm sẽ
được chuyển vào chỉ tiêu giá vốn hàng bán trên báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh. Như vậy một vòng luân chuyển của chi phí sản phẩm có thể trải qua
nhiều kỳ báo cáo, do đó nó có thể ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh
của nhiều kỳ . Đây là dòng chi phí gắn liền với nhiều rủi ro tiềm tàng từ sự biến
động của thị trường. Để quản lý tốt loại chi phí này, nhằm hạn chế rủi ro thì các
nhà quản lý doanh nghiệp phải có kế hoạch dự trữ sản phẩm, hàng hoá hợp lý
CP SXC
Chi phí
hoạt
động
SX KD
của DN
CPSX
CP NVLTT CPNCTT
CP ban đầu CP chuyển đổi
CP ngoài SX
CP bán hàng CP QLDN
21
vừa đảm bảo liên tục có sản phẩm, hàng hoá để bán ra đồng thời tránh để sản
phẩm, hàng hoá tồn kho ứ đọng .
* Chi phí thời kỳ: là những chi phí để hoạt động kinh doanh trong kỳ
không tạo nên giá trị hàng tồn kho, mà trực tiếp làm giảm lợi nhuận của kỳ mà
chúng phát sinh.
Như đã phân tích ở phần trên, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp đều được xem là chi phí thời kỳ. Những khoản chi phí này không phải là
một phần của giá trị sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua vào. Chúng được
thể hiện trên báo cáo kết quả kinh doanh của kỳ mà chúng phát sinh và làm giảm
lợi nhuận của kỳ đó.
Để hiểu rõ hơn về chi phi sản phẩm và chi phí thời kỳ chúng ta hãy xem
xét cách thể hiện chúng trên báo cáo kết quả kinh doanh qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.2 – Sự vận động của chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ
(Doanh nghiệp sản xuất)
Chưa
tiêu
thụ
Bảng cân
đối kế
toán
-Sp dở
dang.
-Thành
phẩm tồn
Chi phí sản phẩm
CF NVLTT CF NCTT CF SXC
Sản phẩm đang chế tạo
Thành phẩm Tiêu thụ
DT bán hàng
Giá vốn HB
Lợi nhuận gộp
CPBH,
CPQLDN
LN thuần
CF thời kỳ
Báo cáo KQ kinh
doanh
-
=
-
=
22
Bảng 2.1 - Báo cáo kết quả kinh doanh theo chức năng
(Doanh nghiệp sản xuất)
Chỉ tiêu Số tiền
1.Doanh thu
2. Giá vốn bán hàng (2 = 2c- 2d )
a.Giá trị thành phẩm tồn kho đầu kỳ
b.Giá trị thành phẩm hoàn thành trong kỳ
c.Giá trị thành phẩm sẵn có chờ bán (c = a+b
)
d.Giá trị thành phẩm tồn kho cuối kỳ
3.Lợi nhuận gộp (3 = 1-2 )
4.Chi phí kinh doanh ( 4 = 4a+ 4b)
a. Chi phí bán hàng
b. Chi phí quản lý doanh nghiệp
5.Lợi nhuận trước thuế thu nhập DN (5 = 3-4)
Sơ đồ 2.3 – Sự vận động của chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ
(Doanh nghiệp thương mại)
Bảng cân
đối kế toán
Khoản mục
hàng tồn
Doanh thu BH
Giá vốn hàng bán
Lợi nhuận gộp
CFBH, CFQL
Lợi nhuận thuần
Chi phí sản phẩm
Giá mua
hàng hoá
Chi phí
mua hàng
Giá trị hàng mua vào
CF thời kỳ
-
=
-
=
Báo cáo kết quả KD
23
Bảng 2.2: Báo cáo kết quả kinh doanh theo chức năng của chi phí
( Doanh nghiệp thương mại)
Chỉ tiêu Số tiền
1.Doanh thu bán hàng
2.Giá vốn bán hàng (2 = 2c- 2d )
a.Giá trị hàng hoá tồn kho đầu kỳ
b.Giá trị hàng hoá mua vào trong kỳ
c.Giá trị hàng hoá sẵn có chờ bán (c=a+b)
d.Giá trị hàng hoá tồn kho cuối kỳ
3.Lợi nhuận gộp (3 = 1-2 )
4.Chi phí kinh doanh ( 4 = 4a + 4b)
a.Chi phí bán hàng
b.Chi phí quản lý doanh nghiệp
5.Lợi nhuận trước thuế thu nhập DN (5 = 3- 4)
Báo cáo kết quả kinh doanh theo chức năng thường được lập chung cho
toàn doanh nghiệp và được sử dụng chủ yếu để cung cấp thông tin cho các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp. Chúng ta cần chú ý để phân biệt nó với dạng báo
cáo kết quả kinh doanh lập theo ứng xử của chi phí.
2.3. Phân loại theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí
Theo cách phân loại này, chi phí SXKD được chia làm 2 loại: Chi phí
trực tiếp và chi phí gián tiếp.
- Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng
kế toán tập hợp chi phí (như từng loại sản phẩm, công việc, hoạt động, đơn đặt
hàng,); chúng có thể được qui nạp trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí.
Trong quản trị doanh nghiệp nói chung và quản trị chi phí nói riêng, nếu loại
chi phí này chiếm đa số trong tổng số chi phí thì sẽ thuận lợi cho việc kiểm soát
chi phí và dễ dàng trong việc xác định nguyên nhân gây ra chi phí. Chúng dễ
nhận biết và hạch toán chính xác, ví dụ phần lớn chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp là chi phí trực tiếp.
- Chi phí gián tiếp: là các chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng kế toán
tập hợp chi phí khác nhau nên không thể qui nạp trực tiếp cho từng đối tượng
24
tập hợp chi phí được mà phảI tập hợp theo từng nơi phát sinh chi phí khi chúng
phát sinh, sau đó qui nạp cho từng đối tượng theo phương pháp phân bổ gián
tiếp.
Khi thực hiện phân bổ chi phí cho từng đối tượng, doanh nghiệp cần phải
lựa chọn tiêu chuẩn phân bổ phù hợp. Mức độ hợp lý của chi phí phân bổ cho
từng đối tượng phụ thuộc vào tính hợp lý và khoa học của tiêu chuẩn phân bổ
được lựa chọn. Vì vậy, nếu muốn có những thông tin đúng đắn, chân thực về chi
phí, kết quả, lợi nhuận của từng loại sản phẩm, dịch vụ, từng loại hoạt động của
doanh nghiệp thì các nhà quản trị doanh nghiệp cần quan tâm đến việc lựa chọn
tiêu chuẩn phân bổ chi phí.
Cách phân loại chi phí này có ý nghĩa về mặt kỹ thuật qui nạp chi phí vào
đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Tuy nhiên, thông qua cách phân loại này, các
nhân viên kế toán quản trị có thể tư vấn để các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra
và thực hiện một cơ cấu tổ chức sản xuất, kinh doanh hợp lý để đa số các khoản
chi phí có thể được qui nạp trực tiếp cho từng đối tượng tập hợp chi phí. Từ đó
giúp cho việc kỉem soát chi phí được thuận lợi hơn.
2.4. Phân loại theo cách ứng xử chi phí
Cách phân loại này dựa vào sự “ứng xử” của chi phí với sự thay đổi của
mức độ hoạt động. “ứng xử” của chi phí có nghĩa là các chi phí sẽ tăng giảm
như thế nào đối với những thay đổi của mức độ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ hoạt động sẽ giúp nhà quản lý
nhận biết được “ứng xử” của từng loại chi phí với thay đổi của mức độ hoạt
động, phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí.
Theo tiêu thức này, chi phí được phân thành 3 loại: biến phí (chi phí khả
biến), định phí (chi phí cố định) và chi phí hỗn hợp.
2.4.1. Biến phí:
Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số, tỷ lệ với sự thay đổi của
mức độ hoạt động.
Mức độ hoạt động căn cứ được xem như một nhân tố nguyên nhân trong
quá trình phát sinh biến phí. Một số hoạt động căn cứ thường dùng là tổng số
lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, tổng doanh thu thực hiện, tổng số giờ máy
hoạt động, tổng số giờ lao động, tổng số km vận chuyển.
Tổng số biến phí thay đổi tỷ lệ với sự thay đổi của mức độ hoạt động
nhưng biến phí tính trên 1 đơn vị mức độ hoạt động (1sản phẩm, 1giờ máy hoạt
động..) thì không đổi. Ví dụ: tại một xí nghiệp sản xuất xe đạp điện, mỗi xe cần
25
một bình ắc qui trị giá 1.000.000đ. Như vậy nếu chúng ta xem xét chi phí bình
ắc qui tính cho 1 xe thì nó luôn luôn giữ nguyên là 1 triệu, cho dù trong kỳ xí
nghiệp sản xuất bao nhiêu xe. Chi phí này chỉ thay đổi khi có tác động ở bên
ngoài .
Xem xét kĩ hơn về biến phí, có thể thấy không phải tất cả mọi khoản biến
phí đều có ứng xử như nhau đối với thay đổi của mức độ hoạt động. Có một số
loại biến phí thay đổi tỷ lệ thuận (biến phí tỷ lệ), một số khác cũng thay đổi
nhưng không tuyến tính (biến phí cấp bậc) đối với thay đổi của mức độ hoạt
động.
* Biến phí tỷ lệ: là những khoản biến phí thay đổi về tổng số, tỷ lệ thuận
với sự thay đổi của mức độ hoạt động.
Thuộc loại biến phí tỷ lệ như chi phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp trả theo sản phẩm, hoa hồng bán hàng
Về mặt toán học, biến phí tỷ lệ có thể được biểu diễn bằng phương trình:
Y= b.x
Trong đó: - Y là tổng biến phí
- b là biến phí tính đơn vị
- x là mức độ hoạt động.
y y=bx
x
Đồ thị biến phí tỷ lệ
* Biến phí cấp bậc:
Biến phí cấp bậc là những biến phí chỉ thay đổi khi mức độ hoạt động
thay đổi đến một phạm vi giới hạn nào đó.
Khác với biến phí tỷ lệ, biến phí cấp bậc cũng được xem là một loại biến
phí nhưng cách ứng xử của nó không giống như biến phí tỷ lệ (không tuyến tính
với sự thay đổi của mức độ hoạt động).
26
Thuộc loại chi phí này như chi phí lao động gián tiếp, chi phí điện
năng.
Ví dụ một xí nghiệp dệt may công nghiệp định mức chi phí lao động bảo
dưỡng máy dệt công nghiệp: 10 máy/1công nhân kỹ thuật/ ca (8 giờ máy hoạt
động) với mức lương cố định 700.000đ/tháng. Giả sử qui mô của phân xưởng
dệt có 50 máy, ứng xử của chi phí bảo dưỡng máy tại phân xưởng dệt sẽ biến
đổi trong phạm vi: mức độ hoạt động 10 máy – chi phí 700.000đ. Cụ thể:
Nếu 20 máy hoạt động thì chi phí bảo dưỡng là: 2 x 700.000đ =
1.400.000đ.
Nếu 30 máy hoạt động thì chi phí bảo dưỡng là: 3 x 700.000đ =
2.100.000đ.
Nếu 35 máy hoạt động thì chi phí bảo dưỡng là: 4 x 700.000đ =
2.800.000đ.
Nếu 40 máy hoạt động thì chi phí bảo dưỡng là: 4 x 700.000đ =
2.800.000đ.
Như vậy, biến phí cấp bậc chỉ thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi
vượt qua một phạm vi (cấp bậc) qui định. Đối với người quản lý để tiết kiệm và
kiểm soát tốt biến phí cấp bậc cần phải lựa chọn mức độ hoạt động thích hợp
nhằm tận dụng tối đa năng lực sản xuất sẵn có, đồng thời xây dựng, hoàn thiện
đinh mức biến phí ở từng cấp bậc tương ứng.
Về toán học, tổng biến phí cấp bậc có thể biểu diễn bằng phương trình :
Y = bi.xi
Trong đó bi là biến phí một đơn vị mức độ hoạt động ở phạm vi i
y
y3 y = bi.xi
y2
y1
x1 x2 x3 x
Đồ thị biến phí cấp bậc
2.4.2. Định phí
Định phí là những khoản chi phí không thay đổi về tổng số khi mức độ
hoạt động thay đổi trong phạm vi phù hợp. Phạm vi phù hợp là khoảng cách
giữa mức độ hoạt động tối thiểu và mức độ hoạt động tối đa mà doanh nghiệp có
27
thể thực hiện với năng lực hoạt động hiện có. Ví dụ: 1 doanh nghiệp phải đi thuê
nhà làm xưởng sản xuất, diện tích thuê 100m2 chi phí 30.000.000đ/1 năm. Với
diện tích này doanh nghiệp có thể đặt tối đa 10 máy sản xuất, công suất tối đa
của 10 máy là 10.000sp/năm. Trong năm doanh nghiệp có thể sản xuất 5.000sp,
6.000sp, 8.000sp, 10.000 sp thì chi phí thuê nhà cũng vẫn là 30.000.000đ.
Nhưng nếu doanh nghiệp muốn tăng mức độ hoạt động lên hơn 10.000sp
(12.000sp, 15.000 sp.) thì doanh nghiệp phải thuê thêm nhà xưởng và khi đó
chi phí thuê nhà phải tăng thêm. Hay nói cách khác khi hoạt động của doanh
nghiệp vượt khỏi phạm vi phù hợp (> 10.000 sp ) thì định phí thuê xưởng sẽ
phải thay đổi.
Xét về tổng chi phí, định phí không thay đổi nhưng nếu xem xét chúng
trên một đơn vị mức độ hoạt động, định phí tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt động.
Như vậy định phí sẽ luôn luôn tồn tại cho dù doanh nghiệp có hay không có hoạt
động và khi mức độ hoạt động của doanh nghiệp gia tăng thì định phí tính cho
một đơn vị sản phẩm sẽ giảm đi. Khi hoạt động của doanh nghiệp đạt công suất
tối đa thì định phí cho một đơn vị mức độ hoạt động sẽ là thấp nhất. Chúng ta
hãy xem xét ví dụ ở trên nếu doanh nghiệp chỉ sản xuất 5000 sp/năm thì chi phí
thuê nhà xưởng là 6.000đ/sp (30.000.000đ : 5000sp ). Nhưng nêú doanh nghiệp
sản xuất 10.000 sp/năm thì chi phí thuê nhà xưởng chỉ còn 3.000đ/sp
(30.000.000đ : 10.000sp).
Định phí được chia thành 2 loại:
* Định phí bắt buộc:
Định phí bắt buộc là định phí không đễ dàng thay đổi bằng hành động
quản trị. Định phí bắt buộc thường liên quan đến TSCĐ và cấu trúc tổ chức cơ
bản của một doanh nghiệp.
Thuộc loại định phí này có các chi phí như chi phí khấu hao nhà xưởng,
bảo hiểm, lương của ban quản lý cấp cao và các phòng ban chức năng (phòng tổ
chức hành chính, phòng kế toán.)
Định phí bắt buộc có 2 đặc điểm:
- Có bản chất dài hạn
- Không thể giảm xuống đến bằng không (= 0) dù chỉ cho một thời gian
ngắn.
Do các định phí bắt buộc là căn cứ để thực hiện mục tiêu lâu dài của
doanh nghiệp, nên khi lựa chọn quyết định đầu tư vào TSCĐ và cấu trúc tổ chức
cơ bản của doanh nghiệp, nhà quản trị phải cân nhắc, tính toán và phân tích kĩ
28
các thông tin có liên quan đến khả năng và nhu cầu tương lai. Một khi quyết
định đầu tư một loại TSCĐ nào đó đã được ký duyệt và thực hiện thì doanh
nghiệp sẽ bị ràng buộc bởi quyết định đó trong thời gian dài.
Mặt khác định phí bắt buộc không thể tuỳ tiện cắt giảm được, dù chỉ cho
một thời gian ngắn vì nó sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu sinh lợi lâu dài của doanh
nghiệp. Do đó ngay cả khi hoạt động của doanh nghiệp bị gián đoạn đột ngột
hoặc giảm bớt, các định phí bắt buộc vẫn được giữ nguyên không đổi.
Sau khi đã quyết định đầu tư vào TSCĐ thì chiến lược của người quản lý
là phải tổ chức sử dụng các tài sản đó thật hiệu quả trong quá trình thực hiện
nhằm đạt các mục tiêu đã định.
* Định phí tuỳ ý (không bắt buộc)
Định phí tuỳ ý là những định phí có thể thay đổi một cách nhanh chóng
bằng hành động quản trị. Định phí tuỳ ý có thể được thay đổi trong quyết định
hàng năm của nhà quản trị. Ví dụ như chi phí quảng cáo, nghiên cứu, đào tạo
Định phí tuỳ ý có 2 đặc điểm:
- Định phí tuỳ ý liên quan đến kế hoạch ngắn hạn, thường là một năm
- Trong những trường hợp cần thiết có thể cắt bỏ định phí tuỳ ý
Ví dụ: 1 DN hàng năm chi 5.000.000đ cho kế hoạch đào tạo cán bộ quản
lý. Khoản chi phí này có thể bị cắt giảm hoặc ngừng lại do hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Ngược lại khoản chi phí khấu hao nhà
xưởng, giả sử 20.000.000đ/năm thì luôn luôn tồn tại cho dù doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh có thể bị thua lỗ. Chỉ khi nào nhà xưởng hư hỏng phải thanh lý
hoặc doanh nghiệp ngừng hoạt động nhượng bán nhà xưởng thì chi phí khấu hao
mới không tồn tại.
Ngoài việc phân biệt định phí tuỳ ý với định phí bắt buộc, cũng cần phải
nhận thức rõ sự khác nhau giữa định phí tuỳ ý và biến phí cấp bậc. Về hình thức
2 loại chi phí này có những biểu hiện giống nhau và chúng chỉ biến động trong
một phạm vi nhất định. Tuy nhiên giữa chúng có những điểm khác nhau, cần
phân biệt, đó là:
Thứ nhất: biến phí cấp bậc có thể được điều chỉnh rất nhanh, có thể là
hàng tháng khi các điều kiện thay đổi. Trong khi đó định phí tuỳ ý khi đã quyết
định sẽ khó thay đổi hơn mặc dù bản chất cuả nó là có thể điều chỉnh bằng hành
động quản trị. Ví dụ lương của thợ bảo trì có thể được điều chỉnh lên hoặc
xuống rất nhanh theo qui mô hoạt động bằng việc thuê vào hoặc thải bớt công
29
nhân. Ngược lại, một khi doanh nghiệp đã tự ràng buộc mình cho một chương
trình riêng biệt nào đó, giả sử một hợp đồng quảng cáo trong một năm, thì doanh
nghiệp sẽ bị ràng buộc bởi các định phí tuỳ ý kèm theo ít nhất cũng hết năm tài
chính đó .
Thứ hai: độ rộng của phạm vi thay đổi đối với biến phí cấp bậc hẹp hơn
rất nhiều so với phạm vi thay đổi của định phí tuỳ ý. Về thực chất độ rộng phạm
vi thay đổi của các biến phí cấp bậc thường rất hẹp đến nỗi chúng được xem như
là có bản chất khả biến, ngược lại độ rộng phạm vi thay đổi của định phí tuỳ ý
lại quá rộng đến nỗi chúng được xem như là có bản chất bất biển trong phạm vi
phù hợp.
Về toán học, định phí được biểu diễn bằng phương trình đường thẳng
Y = A ( A là hằng số )
y
Y= A
A
x
Đồ thị biểu diễn định phí:
2.4.3. Chi phí hỗn hợp
Chi phí hỗn hợp là những khoản chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí và
định phí. ở một mức độ hoạt động nào đó, chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của
định phí và ở các mức độ khác nhau của hoạt động chúng lại thể hiện đặc điểm
của biến phí.
Ví dụ: Doanh nghiệp “X” thuê 1 xe tải để vận chuyển hàng hoá. Hợp
đồng thuê qui định 2 điều khoản về tiền thuê phải trả là 5.000.000đ/năm và
1000đ/km xe lăn bánh. Giả sử trong năm DN “ X” dùng chiếc xe tải đó để
chuyên chở hàng hoá với quãng đường xe chạy là 10.000km. Chi phí thuê xe
phải trả trong năm là: 5.000.000đ + 10.000km x1.000đ =15.000.000đ (gồm
5.000.000đ là định phí và 10.000.000đ là biến phí). Cho dù trong năm chiếc xe
tải thuê không chạy km nào thì doanh nghiệp “X” vẫn phải trả một khoản thấp
nhất là 5.000.000đ.
30
Với ví dụ trên, phương trình chi phí thuê xe tải của doanh nghiệp “X” là:
Y = 5.000.000 + 1.000.x ( x là số km xe lăn bánh)
y
15.000.000
10.000.000 Yếu tố khả biến
5.000.000 Yếu tố bất biến
10.000 x
Phương trình biểu diễn chi phí hỗn hợp là :
Y= A + b.x
Chi phí hỗn hợp rất phổ biến trong nhiều loại hình tổ chức doanh
nghiệp như chi phí điện, nước, điện thoại...Phần định trong chi phí hỗn hợp phản
ánh mức chi phí tối thiểu cần thiết để duy trì một dịch vụ ở trạng thái sẵn sàng
sử dụng. Phần biến phí phản ánh chi phí do sự tiêu thụ thực tế của dịch vụ.
Nhằm mục đích lập kế hoạch và kiểm soát chi phí hỗn hợp thì cách
làm tốt nhất là tập hợp chúng khi chúng phát sinh và phân tích chúng thành yếu
tố định phí và biến phí. Nếu việc phân tích được thực hiện trên cơ sở khoa học
và cẩn thận, thì sự gần đúng của các yếu tố định phí và biến phí có thể đạt được.
3. HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHI PHÍ
3.1. Tập hợp và phân bổ chi phí
3.1.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể phát sinh ở nhiều
địa điểm khác nhau, liên quan đến việc sản xuất chế tạo các loại sản phẩm, lao
vụ khác nhau. Các nhà quản trị doanh nghiệp cần biết được các chi phí đó phát
sinh ở đâu, dùng vào việc sản xuất sản phẩm nào? Chính vì vậy, chi phí sản
31
xuất kinh doanh phát sinh trong kỳ phải được kế toán tập hợp theo phạm vi, giới
hạn nhất định. Đó chính là đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên trong việc tổ
chức kế toán chi phí sản xuất. Thực chất của việc xác định đối tượng tập hợp chi
phí sản xuất là xác định nơi phát sinh chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất,
giai đoạn công nghệ) hoặc đối tượng chịu chi phí ( sản phẩm, đơn đặt hàng)
Khi xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất,trước hết phải căn cứ vào
đặc điểm, công dụng của chi phí trong sản xuất; căn cứ vào cơ cấu tổ chức sản
xuất kinh doanh, qui trình công nghệ sản xuất, loại hình sản xuất sản phẩm, khả
năng , trình độ của các nhà quản trị doanh nghiệp, của cán bộ, nhân viên kế toán
và yêu cầu quản lý chi phí, yêu cầu tính giá thành của doanh nghiệp.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm, tình hình cụ thể của doanh nghiệp mà đối tượng
tập hợp chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp có thể là:
Từng sản phẩm, chi tiết sản phẩm, từng loại, nhóm sản phẩm, đơn đặt
hàng.
Từng phân xưởng, đội , trại, bộ phận sản xuất, từng giai đoạn công nghệ
sản xuất.
Toàn bộ qui trình công nghệ sản xuất, toàn doanh nghiệp
Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất một cách khoa học, hợp lý là
cơ sở để tổ chức kế toán chi phí sản xuất ngay từ việc tổ chức hạch toán ban đầu
đến tổ chức tổng hợp số liệu, ghi chép trên tài khoản, sổ chi tiết chi phí sản
xuất
Các chi phí phát sinh sau khi được tập hợp theo từng đối tượng tập hợp
chi phí sản xuất sẽ là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ theo đối
tượng tính giá thành đã xác định.
3.1.2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất được sử dụng trong kế toán chi phí
sản xuất để tập hợp và phân bổ chi phí cho từng đối tượng kế toán tập hợp chi
phí sản xuất đã xác định. Tuỳ theo từng loại chi phí và điều kiện cụ thể, kế toán
có thể vận dụng phương pháp tập hợp chi phí sản xuất cho thích hợp.
3.1.2.1. Phương pháp tập hợp trực tiếp
Phương pháp này áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất phát sinh có
liên quan trực tiếp dến từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất riêng
biệt.Do đó, ngay từ khâu hạch toán ban đầu, chi phí sản xuất phát sinh được
32
phản ánh riêng cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trên chứng từ ban
đầu để căn cứ vào chứng từ thực hiện hạch toán trực tiếp chi phí sản xuất cho
từng đối tượng riêng biệt. Theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh
được tính trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí nên đảm bảo mức độ chính
xác cao. Vì vậy, cần sử dụng tối đa phương pháp tập hợp trực tiếp trong điều
kiện có thể cho phép.
3.1.2.2. Phương pháp phân bổ gián tiếp
Phương pháp này áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất phát sinh có
liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, không tổ chức ghi chép
ban đầu chi phí sản xuất phát sinh riêng cho từng đối tượng được. Trong trường
hợp này, phải tập hợp chi phí sản xuất phát sinh chung cho nhiều đối tượng theo
từng nơi phát sinh chi phí. Sau đó lựa chọn tiêu chuẩn phân bổ khoản chi phí
này cho từng đối tượng chịu chi phí. Việc phân bổ được tiến hành theo trình tự:
Xác định hệ số phân bổ:
Hệ số = Tổng chi phí cần phân bổ
phân bổ Tổng đại lượng tiêu chuẩn phân bổ
Xác định mức chi phí phân bổ cho từng đối tượng: Theo công thức sau:
Ci = Ti x H
Trong đó:
+ Ci là chi phí phân bổ cho đối tượng i
+ Ti là đại lượng tiêu chuẩn phân bổ của đối tượng i
+ H là hệ số phân bổ
Với phương pháp phân bổ gián tiếp, mức độ chính xác của chi phí sản
xuất tính cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phụ thuộc vào tính hợp lý
của tiêu chuẩn phân bổ đươc lựa chọn sử dụng.
Nhiều khi có những chi phí trực tiếp sản xuất sản phẩm cũng phải phân bổ
gián tiếp cho các đối tượng chịu chi phí nếu chúng có liên quan đến nhièu đối
tượng chịu chi phí.Ngược lại, chi phí gián tiếp phục vụ sản xuất cũng có thể tập
hợp trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí, khi chi phí này được hạch toán
riêng biệt cho từng đối tượng chịu chi phí ngay từ khâu hạch toán ban đầu.
3.2. Kế toán chi phí cho việc lập báo cáo
33
Chúng ta đã xác định các chi phí sản phẩm là những chi phí phát sinh
trong việc sản xuất, bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Để thấy được mối quan hệ giữa chi phí sản
phẩm với các báo cáo tài chính- kế toán, chúng ta có thể xem xét sự di chuyển
của các khoản chi phí này qua những tài khoản khác nhau để sau đó được thể
hiện trên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh bằng sơ đồ sau:
Từ sơ đồ trên, có thể thấy các chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công
trực tiếp và chi phí sản xuất chung được hạch toán vào tài khoản đang chế tạo-
đó là những chi phí cần thiết cho việc hoàn thành sản xuất sản phẩm. Khi sản
phẩm được hoàn thành thì giá trị của chúng được chuyển từ sản phẩm đang chế
tạo vào giá trị của thành phẩm. Ở đây sản phẩm được chờ để bán cho khách
hàng. Khi hàng đã được bán, giá trị của chúng lại chyển từ thành phẩm thành giá
trị hàng đã bán và được phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh, được xem là
các phí tổn trong việc xác định thu nhập thuần tuý hoặc lỗ trong kỳ.
Nhưng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi
phí sản xuất chung nếu còn đang ở dây chuyền sản xuất nằm trong các sản phẩm
Các chi phí sản phẩm
Chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp
Bảng cân đối kế
toán (Các khoản
mụchàng tồn
kho)
Chi phí nhân công trực
tiếp
Chi phí sản xuất chung
Sản phẩm đang chế
tạo
Thành phẩm
khoản
mụchàng tồn
Báo cáo kết quả kinh
doanh
-Doanh số bán hàng
-Lãi gộp trừ chi phí bán
hàng và chi phí QLDN
- Lãi thuần của hoạt động
kinh doanh
34
đang chế tạo dở dang hoặc trong các thành phẩm chưa được bán cuối kỳ sẽ được
thể hiện trên bảng cân đối kế toán như là các tài sản tồn kho của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, khi chúng ta xem xét mối quan hệ của chi phí sản phẩm với
các báo cáo tài chính kế toán như trên, căn cứ trên các chức năng của chi phí và
do vậy, không thể phân tách được các chức năng ứng xử của chi phí trong từng
chức năng. Ví dụ trong phần chi phí bán hàng, chi phí quản lý, chi phí sản xuất
chung bao gồm cả chi phí khả biến và bất biến lẫn lộn trong đó. Mặc dù một báo
cáo thu nhập lập theo chức năng chi phí rất cần thiết cho các mục đích báo cáo
ra ngoài, nó vẫn bị hạn chế khi các nhà quản lý sử dụng trong nội bộ doanh
nghiệp trong việc phân tích mối quan hệ giữa chi phí- khối lượng- lợi nhuận,
trong dự toán ngân sách và việc lựa chọn số liệu thích hợp cho mỗi loại quyết
định đặc biệt như phân tích dây chuyền sản xuất, định giá sản phẩm, sử dụng các
nguồn năng lực sản xuất khan hiếm,
Bởi vây, để phục vụ cho mục đích sử dụng nội bộ của người quản lý trong
doanh nghiệp, việc phân tích chi phí thành 2 loại bất biến, khả biến là thể hiện
nó trên báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp là cần thiết. Từ đó, báo
cáo kết quả kinh doanh lập theo cách ứng xử của chi phí phải thể hiện được các
chỉ tiêu chính sau đây:
Báo cáo kết quả kinh doanh
1. Doanh thu bán hàng
(Trừ chi phí khả biến)
- Chi phí nguyên vật liệu khả biến
- Chi phí nhân công khả biến
- Chi phí sản xuất chung khả biến
- Chi phí lưu thông khả biến
- Chi phí quản lý doanh nghiệp khả biến.
2. Số dư đảm phí
(Trừ chi phí bất biến)
- Chi phí sản xuất chung bất biến
- Chi phí lưu thông bất biến
35
- Chi phí quản lý doanh nghiệp bất biến.
3. Thu nhập thuần
Khái niệm số dư đảm phí có thể định nghĩa như là số tiền còn lại của
doanh thu bán hàng sau khi đã trừ đi phần chi phí khả biến và được sử dụng để
trang trải cho các chi phí bất biến và sau đó là lợi nhuận trong kỳ.
3.3. Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh theo mô hình ứng xử chi phí
Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh lập theo mô hình ứng xử chi phí (hay
phương pháp trực tiếp) chỉ sử dụng trong nội bộ doanh nghiệp để phục vụ cho
công tác quản trị doanh nghiệp. Nó được thể hiện qua mẫu sau:
BÁO CÁO KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH THEO MÔ HÌNH
ỨNG XỬ CHI PHÍ
STT Chỉ tiêu Số tiền
1 Doanh thu
2 Biến phí (BP)
- BP sản xuất hàng bán
- BP bán hàng và quản lý
3 Số dư đảm phí
4 Đinh phí sản xuất chung (ĐP)
- ĐP sản xuất chung
- ĐP bán hàng và quản lý
5 Lợi nhuận thuần
Ví dụ: Có tài liệu tháng 7/N tại nhà máy số 1 thuộc doanh nghiệp sản
xuất một loại sản phẩm A.
- Số lượng sản phẩm:
+ Đầu kỳ: 0
+ Sản xuất trong kỳ: 10.000
+ Tiêu thụ trong kỳ: 8.000
- Biến phí sản xuất 1 sản phẩm (1.000 đ)
+ Nguyên vật liệu trực tiếp : 50
+ Nhân công trực tiếp: 10
36
+ Sản xuất chung: 4
+ Bán hàng và quản lý: 6
- Định phí hoạt động (1.000 d):
+ Sản xuất chung: 60.000
+ Bán hàng và quản lý: 80.000
- Đơn giá bán (1.000đ): 100.000
Yêu cầu: Lập báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh theo mô hình ứng xử
chi phí
Lời giải
BÁO CÁO KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
THEO MÔ HÌNH ỨNG XỬ CHI PHÍ
Tháng 7/N
STT Chỉ tiêu Số tiền
1 Doanh thu 800.000
2 Biến phí (BP) 560.000
- BP sản xuất hàng bán 512.000
- BP bán hàng và quản lý 48.000
3 Số dư đảm phi 240.000
4 Đinh phí sản xuất chung (ĐP) 140.000
- ĐP sản xuất chung 60.000
- ĐP bán hàng và quản lý 80.000
5 Lợi nhuận thuần 100.000
4. PHÂN TÍCH BIẾN ĐỘNG CHI PHÍ
4.1. Khái niệm về phân tích biến động chi phí
Để đánh giá kết quả thực hiện chi phí định mức, phải so sánh giữa chi phí
thực tế với định mức chi phí, nếu có chênh lệch phải làm rõ nguyên nhân gây
chênh lệch và các biện pháp cụ thể để khắc phục các nguyên nhân làm tăng chi
phí so với định mức.
Việc đánh giá này được thực hiện theo từng khoản mục chi phí theo
những nội dung và phương pháp sau:
4.2. Phân tích biến động chi phí
37
4.2.1. Phân tích biến động chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Phân tích biến động của chi phí NVL TT là kết quả so sánh giữa thực hiện
với định mức và xác định các nguyên nhân biến động trên hai mặt lượng và giá
đã tác động như thế nào đến biến động chung. Các nguyên nhân biến động được
xác định theo công thức sau:
Biến động về chi phí NVLTT = Biến động về giá + Biến động về lượng
Biến động về giá = Lượng thực tế x ( Giá thực tế - Giá định mức)
Biến động về lượng = Giá định mức x ( Lượng thực tế - Lượng định
mức)
Từ các công thức tính toán trên cho thấy để tính được biến động sử dụng
nguyên vật liệu trực tiếp, chúng ta phải biệt ba loại thông tin sau:
- Có bao nhiêu lượng thực tế về nguyên liệu đã sử dụng trong các hoạt
động sản xuất.
- Tổng số lượng sản phẩm được sản xuất.
- Mối quan hệ giữa nguyên liệu với sản phẩm
Kết quả so sánh biến động giữa thực tế và định mức được đánh giá như
sau:
- Nếu thực tế lớn hơn định mức, đánh giá không tốt, lúc này chi phí sản
xuất thực tế cao hơn định mức.
- Nếu thực tế nhỏ hơn định mức, đánh giá tốt nếu chất lượng sản phẩm
được bảo đảm.
- Nếu thực tế bằng định mức, đảm bảo thực hiện đúng định mức.
Sau khi so sánh biến động, cần phân tích các nguyên nhân gây ra biến
động về giá và về lượng nguyên vật liệu sau:
- Giá thực tế mua nguyên vật liệu lớn hơn định mức do quan hệ cung cầu
nguyên vật liệu, sự thay đổi về phương thức vận chuyển. Ngược lại, cũng có thể
do cung cấp nguyên vật liệu hoặc là nguyên liệu mua có phẩm chất kém hơn nên
sẽ rẻ hơn.
- Biến động về lượng nguyên liệu sử dụng có thể do chất lượng của
nguyên liệu mua vào. Nếu nguyên liệu có chất lượng kém hơn được dùng trong
quá trình sản xuất thì số lượng phế liệu và sản phẩm có khuynh hướng tăng lên,
kết quả là số lượng nguyên vật liệu được dùng sẽ nhiều lên.
38
Ngoài ra, biến động không tốt về sử dụng nguyên liệu trực tiếp cũng có
thể xảy ra do trình độ của công nhân. Khi công nhân không đủ trình độ phù hợp,
họ sẽ sử dụng lãng phí nguyên liệu trong sản xuất.
4.2.2. Phân tích biến động chi phí nhân công trực tiếp:
Khi phân tích biến động chi phí nhân công trực tiếp cũng phải làm rõ biến
động của hai nhân tố là: sự thay đổi về đơn giá lao động trực tiếp và sự thay đổi
về năng suất lao động trực tiếp.
Biến động mức giá lao động trực tiếp có cùng nội dung ý nghĩa như biến
động giá nguyên vật liệu trực tiếp. Sự thay đổi mức giá lao động trực tiếp có thể
do nhiều nguyên nhân, ví dụ như khi điều động một công nhân có trình độ tay
nghề cao đến làm một công việc có mức giá được tính thấp hơn thì lúc đó biến
động mức giá lao động trực tiếp sẽ xảy ra...
Biến động
về giá =
Số giờ làm việc
thực tế x
Mức giá
thực tê -
Mức giá
tiêu chuẩn
Nguyên tắc tính biến động của năng suất lao động trực tiếp cũng tương tự
như nguyên tắc sự biến động số lượng nguyên vật liệu sử dụng. Đó là một sự
vượt trội hơn so với mức thời gian tiêu chuẩn, được coi là sử dụng lao động
không hiệu quả có có biến động năng suất xấu.
Ngược lại, khi thời gian làm việc thực tế ít hơn so với định mức và chất
lượng sản phẩm được đảm bảo, thì xem như sử dụng có hiệu quả thời gian lao
động và là biến động năng suất tốt. Biến động không xảy ra khi công nhân thực
hiện đúng thời gian tiêu chuẩn cho phép.
Biến động về lượng
lao động trực tiếp =
Mức giá
tiêu chuẩn
x Số giờ làm
việc thực tế
- Số giờ theo
định mức
4.2.3. Phân tích biến động chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung bao gồm nhiều khoản mục chi phí riêng biệt,
thường có giá trị nhỏ và do nhiều bộ phận khác nhau trong doanh nghiệp chịu
trách nhiệm., nên không thể định mức cho từng yếu tố chi sản xuất chung. Vì
vậy, các nhà quản trị phải sử dụng kế hoạch linh hoạt để lập kế hoạch và kiểm
soát chi phí SXC. Chi phí SXC chịu sự tác động của biến phí và định phí SXC,
hai loại chi phí SXC này được tính ra từ kế hoạch sản xuất kinh doanh rồi được
phân tích thành các khoản mục chi phí cần thiết. Biến động chi phí sản xuất
chung (CP SXC) được xác định theo công thức sau:
39
Biến động
CP SXC
= Biến động
BP SXC
+ Biến động
ĐP SXC
Trong đó:
Biến động biến phí sản xuất chung (BP SXC) chịu tác động của hai yếu
tố: biến động về giá và biến động về lượng.
Biến động
BP SXC về
lượng
= Đơn giá biến
phí định mức
Lượng
thực tế
- Lượng định
mức
- Biến động định phí sản xuất chung (ĐP SXC) cũng chịu tác động của
hai yếu tố: biến động về giá và biến động về lượng.
Biến động
ĐP SXC
= Biến động
ĐP SXC về giá
+ Biến động
ĐP SXC về
lượng
Biến động
ĐP SXC về
giá
= Lượng x
thực tế
Đơn giá
định phí
thực tế
- Đơn giá định
phí định mức
Biến động
ĐP SXC về
lượng
= Đơn giá định phí x
định mức
Lượng
thực tế
- Lượng
định
mức
CÂU HỎI ÔN TẬP:
1. Nội dung và tác dụng của các cách phân loại chi phí trong kế toán quản
trị.
Biến động
BP SXC
= Biến động
BP SXC về giá
+ Biến động
BP SXC về lượng
Biến động
BP SXC về giá
= Lượng x
thực tế
Đơn giá
biến phí
thực tế
- Đơn giá biến
phí định mức
40
2. Trình bày các phương pháp tập hợp chi phí vào các đối tượng tập hợp
chi phí.
3. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành theo công việc.
4. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành theo quá trình.
5. Trình bày nội dung phân tích biến động chi phí sản xuất.
BÀI TẬP
Bài tập 1:
Ông M vừa là chủ một xưởng SX đồ mộc, vừa là một chuyên gia tư vấn
trang trí nội thất. Một số thông tin ông M và xưởng sản xuất đồ mộc của ông
như sau:
1. Ông quyết đinh thôi công việc tư vấn trang trí nội thất với mức thu
nhập hàng năm là 10 triệu đồng để chú tâm vào điều hành xưởng mộc.
2. Ông đang có khoản tiền gửi ngân hàng 300 triệu đồng với lãi suất
10%/năm, ông dự định rút về để đầu tư mua sắm thêm thiết bị cho xưởng mộc.
3. Chi phí thuê mặt bằng cho xưởng mộc đã trả trước cho 5 năm, số tiền
50 triệu đồng (hợp đồng thuê cam kết nếu ông M chấm dứt hợp đồng trước thời
hạn thì không được nhận lại tiền).
4. Giá trị nhà xưởng, máy móc thiết bị đã đầu tư cho xưởng mộc là 400
triệu đồng.
5. Chi phí điện thoại và các chi phí khác phục vụ cho khâu bán đồ mộc 20
triệu đồng/năm.
6. Chi phí sản xuất 1 bộ bàn ghế gỗ, gồm:
- Nguyên vật liệu: 3 triệu đồng
- Nhân công: 2 triệu đồng
Yêu cầu: Hãy chỉ rõ trong các thông tin trên, thông tin nào là Chi phí cơ
hội, chi phí chìm, chi phí thời kỳ, chi phí biến đổi gắn với hoạt động kinh doanh
xưởng mộc của ông M.
41
Bài tập 2:
Công ty An Phú có số liệu về chi phí kinh doanh như sau:
Chỉ tiêu Mức chi phí
1- Giá vốn hàng bán 28.000 đ/SP
2- Chi phí hoa hồng của hàng bán 15% doanh thu
3- Chi phí quảng cáo (1.000đ) 50.000 /tháng
4- Chi phí nhân công quản lý DN (1.000đ) 40.000 /tháng
5- Chi phí khấu hao TSCĐ (1.000đ) 16.000/tháng
Chi phí dịch vụ mua ngoài như điện, nước, điện thoại, fax, là chi phí
hỗn hợp. Phòng kế toán đã thống kê các chi phí này liên tục trong 6 tháng theo
bảng sau:
Tháng Khối lượng hàng bán
(sản phẩm)
Chi phí dịch vụ mua
ngoài ( 1.000 đ)
1 8.000 60.800
2 10.000 68.000
3 13.000 77.600
4 16.000 87.200
5 14.000 80.000
6 11.000 72.800
Dự kiến trong tháng tới, công ty bán 15.000 sản phẩm với giá 64.000đ/SP.
Yêu cầu:
Lập báo cáo kết quả hoạt động theo 2 cách phân loại chi phí: theo cách
ứng xử của chi phí và theo chức năng của của chi phí
42
CHƯƠNG 3:
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ CHI PHÍ KHỐI LƯỢNG LỢI NHUẬN VÀ
THÔNG TIN THÍCH HỢP VỚI QUYẾT ĐỊNH NGẮN HẠN
1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN THỂ HIỆN MỐI QUAN HỆ CHI PHÍ KHỐI
LƯỢNG LỢI NHUẬN
1.1. Số dư đảm phí
- Số dư đảm phí: là phần doanh thu còn lại dùng để bù đắp định phí và
hình thành lợi nhuận. Hay nói cách khác:
Số dư đảm phí = Doanh thu - Biến phí
LB = g. x – b. x = ( g -b). x (1)
Trong đó:
- g: Đơn giá bán
- b: Biến phí đơn vị
- x: Sản lượng tiêu thụ
- A: Tổng định phí
- LB: Tổng số dư đảm phí
- P : Lợi nhuận
- Dt: Doanh thu
Từ phương trình (1) ta có:
LB đ.vị = (g -b).x / x = ( g-b)
Hay : Doanh thu – Chi phí = Lợi nhuận
Ta có :
Doanh thu – Biến phí - Định phí = Lợi nhuận
Số dư đảm phí - Định phí = Lợi nhuận
Hay : ( g- b). X – A = P
Do đó có thể lập báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp theo dạng
số dư đảm phí như sau :
43
BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
THEO DẠNG SỐ DƯ ĐẢM PHÍ
Chỉ tiêu Tổng số Tính cho đơn vị ( SP)
Doanh thu g.x g
Biến phí b.x b
Số dư đảm phí (g-b).x g-b
Định phí A -
LãI thuần (g-b).x – A -
Số dư đảm phí là chỉ tiêu quan trọng phản ánh phần doanh thu còn để lại
để bù đắp định phí hoạt động và hình thành lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi số
dư đảm phí bằng định phí thì lợi nhuận của doanh nghiệp bằng 0 – hoạt động
SXKD của của doanh nghiệp đạt điểm hoà vốn. Số dư đảm phí là cơ sở để
doanh nghiệp xác định mức sản lượng cần thực hiện để đạt hoà vốn.
Ví dụ 3.1 :
Công ty Y chuyên sản xuất và tiêu thụ một loại sữa tươi uống liền đóng
hộp ống hút 180 ml. Số liệu về chi phí và doanh thu trong tháng 1/N như sau:
- Khối lượng bán: 250.000 hộp/tháng
- Đơn giá bán: 4.000 đ/hộp
- Biến phí đơn vị: 3.000 đ/hộp
- Tổng định phí hoạt động: 150.000.000 đ
Công ty Y
BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
THEO DẠNG SỐ DƯ ĐẢM PHÍ
Chỉ tiêu Tổng số Tính cho đơn vị ( SP)
Doanh thu 1.000.000 4
Biến phí (750.000) 3
Số dư đảm phí 250.000 1
Định phí (150.000)
Lãi thuần 100.000
44
1.2. Tỷ lệ số dư đảm phí
Tỷ lệ số dư đảm phí là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa tổng số dư
đảm phí với doanh thu, hoặc giữa số dư đảm phí đơn vị với đơn giá bán.
Công thức xác định:
Tỷ lệ số dư = Tổng số dư đảm phí x 100
đảm phí Tổng doanh thu
Gọi LB % là tỷ lệ số dư đảm phí.
Trường hợp doanh nghiệp sản xuất kinh doanh một loại sản phẩm thì
công thức trên được viết:
LB % = ( g-b). x x 100 = ( g-b) x 100
g . x g
Trường hợp doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều loại sản phẩm, hoặc
có nhiều bộ phận kinh doanh thì tỷ lệ số dư đảm phí bình quân ( LB%) được xác
định:
Tỷ lệ số dư = Tổng SD ĐP của các loại SP (bộ phận kinh doanh)
đảm phí BQ Tổng doanh thu của các loại SP (bộ phận kinh doanh)
Ví dụ 3.2:
Theo tài liệu của công ty Y (Ví dụ 1) thì tỷ lệ SD ĐP được xác định:
LB % = 250.000 x 100 = 25%
1.000.000
Tỷ lệ số đảm phí của công ty Y là 25 %, điều đó có nghĩa là cứ trong 1
đồng doanh thu thì có 0,25 đồng số dư đảm phí.
Khái niệm tỷ lệ số dư đảm phí cho nhà quản trị biết được khi doanh thu
biến động sẽ tác động như thế nào đến lợi nhuận :
Ví dụ 3.3:
Công ty TĐ sản xuất và kinh doanh 3 loại mặt hàng khác nhau là A, B, C.
Từ tình hình về doanh thu, chi phí của Công ty tỷ lệ số dư đảm phí bình quân
của 3 mặt hàng được xác định như sau:
45
Chỉ tiêu Mặt hàng Tổng số
A B C
- Doanh thu 100.000 150.000 250.000 500.000
- Biến phí 55.000 105.000 150.000 310.000
- Số dư đảm phí 45.000 45.000 100.000 190.000
- Tỷ lệ số dư đảm phí 45% 30% 40% 38%
Tỷ lệ số dư đảm phí của 3 mặt hàng:
LB % = 190.000 x 100 = 38%
500.000
Sử dụng thuật ngữ tỷ lệ số dư đảm phí giúp những nhà quản lý:
- Nghiên cứu được mối quan hệ giữa chi phí- khối lượng- lợi nhuận trong
trường hợp doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau.
- Ngay cả trong khi xem xét cho từng mặt hàng hay đa sản phẩm, thuật
ngữ này còn giúp chúng ta nhanh chóng xác định được chính xác lãI trên biến
phs của bất kỳ một số liệu nào của doanh thu mà không cần xem xét đến khối
lượng tiêu thụ. Chẳng hạn ví dụ của Công ty Y trên đây nếu doanh thu năm tới
là 1.500.000.000 đ thì số dư đảm phí là : 1.500.000.000 x 25% = 375.000.000 đ.
Đến đây chúng ta có thêm một cách xác định tổng số dư đảm phí là:
LB = Dt x LB%
Và lợi nhuận cũng có cách xác định mới là:
P= Dt x LB - A
Đây là phương trình rất cơ bản để xem xét mối quan hệ giữa chi phí, khối
lượng và lợi nhuận.
1.3. Kết cấu chi phí
Kết cấu chi phí là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa định phí và
biến phí trong tổng chi phí của doanh nghiệp.
Kết cấu chi phí có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Với
một số vốn kinh doanh nhất định, nhà quản trị có thể căn cứ vào đặc điểm sản
xuất kinh doanh, kế hoạch phát triển dài hạn của doanh nghiệp để chủ động xây
dựng, điều chỉnh kết cấu chi phí (chuyển đổi giữa các biến phí với định phí như :
đầu tư hiện đại hoá nhà xưởng, thiết bị, công nghệ; thay đổi hình thức trả lương
46
theo thời gian sang trả lương teo sản phẩm; sử dụng máy móc thiết bị tự động
hoá thay cho lao động trực tiếp,) sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp. Khi
cần ra quyết định chuyển đổi chi phí thì lựa chọn kết cấu như thế nào là tốt nhất
cho doanh nghiệp? Không có một khuôn mẫu chung nào và cũng không có câu
trả lời chính xác cho câu hỏi trên. Mỗi doanh nghiệp sẽ xác lập một kết cấu chi
phí riêng phù hợp với đặc điểm SXKD, mục tiêu kinh doanh, kế hoạch phát triển
dài hạn của doanh nghiệp và thái độ của nhà quản trị doanh nghiệp đối với rủi
ro,
Ví dụ 3.4: Hai DN A và B có kết cấu chi phí trái ngược nhau, trong năm
có tổng doanh thu, lãi thuần bằng nhau theo bảng số liệu sau:
BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH
Đơn vị tính: 1.000 đồng
Chỉ tiêu Doanh nghiệp A Doanh nghiệp B
Tổng sô Tỷ lệ Tổng sô Tỷ lệ
Tổng doanh thu 100.000 100% 100.000 100%
Tổng biến phí 70.000 70% 20.000 20%
Số dư đảm phí 30.000 30% 80.000 80%
Định phí 20.000 70.000
Lãi thuần 10.000 10.000
BẢNG PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾT CẤU CHI PHÍ ĐẾN LỢI
NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
Tỷ lệ biến động của
doanh thu
Mức biến động của
doanh thu
Mức biến động của lợi
nhuận
A B
+10% +10.000 +3.000 +8.000
+20% +20.000 +6.000 +16.00
0
+50% +50.000 +53.000 +40.00
0
-10% -10.000 -3.000 -8.000
47
-20% -20.000 -6.000 -
16.000
-50% -50.000 -15.000 -
40.000
( Mức biến động của lợi nhuận = Mức biến động của doanh thu x Tỷ lệ
số dư đảm phí)
Nhận xét: Tốc độ biến động lợi nhuận của doanh nghiệp B nhanh hơn
doanh nghiệp B là do doanh nghiệp B có tỷ lệ định phí cao, biến phí nhỏ trong
tổng chi phí. Khi nền kinh tế phát triển, môi trường kinh doanh thuận lợi thì lợi
nhuận tăng nhanh nhưng khi gặp nền kinh tế suy thoái, điều kiện kinh tế khó
khăn thì lợi nhuận cũng giảm nhanh và khả năng rủi ro rất lớn.
Ngược lại với trường hợp doanh nghiệp có biến phí cao, định phí nhỏ
trong tổng chi phí.
1.4. Đòn bẩy kinh doanh
Đòn bẩy kinh doanh là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa tốc độ
thay đổi của lợi nhuận với tốc độ thay đổi của doanh thu (hoặc sản lượng tiêu
thụ).
Độ lớn đòn bẩy kinh doanh ( ký hiệu ĐB ) được xác định theo công thức
sau:
Đòn bẩy = Tốc độ thay đổi lợi nhuận
kinh doanh (ĐB) Tốc độ thay đổi doanh thu (sản lượng tiêu thụ)
Độ lớn đòn bẩy kinh doanh cho biết mỗi % thay đổi về doanh thu sẽ làm
thay đổi bao nhiêu % lợi nhuận.
Ví dụ 3.5 : Có số liệu về 2 doanh nghiệp A và B như sau:
Chỉ tiêu Doanh nghiệp A Doanh nghiệp B
Tổng số (1.000đ) Tỷ lệ % Tổng số (1.000đ) Tỷ lệ %
Tổng doanh thu 100.000 100 100.00 100
Tổng biến phí 60.000 60 30.000 30
Số dư đảm phí 40.000 40 70.000 70
Định phí 30.000 60.000
Lãi thuần 10.000 10.000
48
Nếu doanh thu của cả 2 DN đều tăng 20% thì lợi nhuận của doanh nghiệp
A tăng 80% còn lợi nhuận của doanh nghiệp B tăng 140%. Vậy độ lớn của đòn
bẩy kinh doanh được xác định như sau:
Doanh nghiệp A Doanh nghiệp B
Độ lớn đòn bẩy kinh
doanh ( ĐB)
80% / 20% = 4 140 % / 20% = 7
Nếu doanh thu tăng 1% thì lợi nhuận của doanh nghiệp A tăng 4% còn lợi
nhuận của doanh nghiệp B tăng 7%. Đó là do doanh nghiệp B có kết cấu chi phí
với tỷ lệ định phí cao hơn doanh nghiệp A
Độ lớn đòn bẩy kinh doanh còn được xác định theo công thức sau:
Đòn bẩy = Tổng số dư đảm phí
kinh doanh (ĐB) Tổng lợi nhuận
Ví dụ 3.6: Vẫn số liệu của doanh nghiệp A và B ở ví dụ 5, tổng số dư
đảm phí của doanh nghiệp A là 40.000, doanh nghiệp B là 70.000; lợi nhuận của
cả 2 DN đều bằng 10.000. Vậy độ lớn của đòn bẩy kinh doanh của 2 DN như
sau:
Doanh nghiệp A Doanh nghiệp B
Độ lớn đòn bẩy kinh
doanh ( ĐB)
20.000 / 10.000 = 4 70.000 / 10.000 = 7
Cách tính này cho kết quả hoàn toàn giống với cách tính trước nhưng
nhanh và tiện dụng hơn.
2. Phân tích điểm hoà vốn
2.1. Khái niệm
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó tổng doanh thu bằng tổng chi phí.
Từ phương trình cơ bản thể hiện mối quan hệ chi phí- khối lượng- lợi
nhuận:
Doanh thu = Biến phí + Định phí + Lợi nhuận
Ta có: Doanh thu - Biến phí - Định phí = Lợi nhuận
Hay : Số dư đảm phí - Định phí = Lợi nhuận
49
Theo khái niệm trên, tại điểm hoà vốn doanh thu vừa đủ bù đắp chi phí,
nghĩa là lợi nhuận bằng không. Hay nói cách khác, tại điểm hoà vốn số dư đảm
phí bằng định phí.
Nghiên cứu điểm hoà vốn giúp nhà quản trị xem xét quá trình kinh doanh
một cách chủ động và tích cực, xác định rõ ràng vào lúc nào trong kỳ kinh
doanh hay ở mức sản xuất và tiêu thụ bao nhiêu thì đạt điểm hoà vốn. Từ đó có
biện pháp chỉ đạo kịp thời để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đạt hiệu quả cao.
2.2. Phương pháp xác định điểm hoà vốn
Điểm hoà vốn có thể xem xét dưới các góc độ khác nhau, có thể là sản
lượng bán ra, doanh thu tiêu thụ hoặc khoảng thời gian cần thiết để doanh
nghiệp có doanh thu vừa đủ bù đắp tổng chi phí. Mỗi chỉ tiêu có một ưu thế khác
nhau đối với nhà quản trị. Tuy nhiên, chúng đều là các chỉ tiêu ràng buộc nhau
và có thể tính tóan, xác định qua lại từ chỉ tiêu này đến chỉ tiêu khác.
* Xác định điểm hoà vốn theo sản lượng:
Sản lượng hoà vốn ( Ký hiệu: Xh ) là khối lượng sản phẩm bán ra để
doanh nghiệp có doanh thu vừa đủ bù đắp tổng chi phí.
Từ phương trình lợi nhuận: P = ( g – b). X – A
Tại điểm hoà vốn : P = 0
Nghĩa là : ( g – b ). Xh – A = 0
Xh =
Hay:
Sản lượng hoà vốn =
Ví dụ 3.7:
Tại doanh nghiệp A có tài liệu sau (Đơn vị: 1000đ ):
Tổng định phí : 60.000
A
g - b
Định phí
Số dư đảm phí đơn vị
50
Đơn giá bán : 20
Biến phí đơn vị: 10
Sản lượng hoà vốn của doanh nghiệp A được xác định:
Xh = = = 6.000 (sản phẩm).
Doanh nghiệp A phải tiêu thụ 6.000 sản phấm mới đạt điểm hoà vốn. Nếu
tiêu thụ trên mức này doanh nghiệp sẽ có lãi, còn nếu tiêu thụ dưới mức này
doanh nghiệp sẽ bị lỗ.
* Xác định điểm hoà vốn theo doanh thu.
Doanh thu hoà vốn là doanh thu đạt được ở mức tiêu thụ hoà vốn. Doanh
thu hoà vốn là tích của sản lượng hoà vốn và đơn giá bán.
Từ phương trình doanh thu:
DT = g.X
Tại điểm hoà vốn, doanh thu hoà vốn (Ký hiệu: DTh ) được xác định:
DTh = g . Xh = g .
DTh =
Hay:
Doanh thu hoà vốn =
Ví dụ 3.8: Theo tài liệu của doanh nghiệp A (Ví dụ 3.7)
Ta có:
Tỷ lệ số dư đảm phí đơn vị = = = = = = x 50% =
50%
A
g - b
A
g - b
g
Định phí
Tỷ lệ số dư đảm phí đơn
vị
A
(g – b)
60.000
20 - 10
(g – b)
g
20 – 10
20
51
Vận dụng công thức xác định doanh thu hoà vốn ta có:
DTh = =120. 000 (nghìn đ)
50%
Như vậy doanh nghiệp A đạt hoà vốn ở mức doanh thu 120.000 ng.đ.
* Thời gian hoàn vốn.
Thời gian hoàn vốn là độ dài thời gian cần thiết để đạt được doanh thu
hoà vốn trong một kỳ kinh doanh (thường là 1 năm).
Thời gian hoàn vốn ( ký hiệu: Th ) được xác định theo công thức:
Th =
Hay:
Thời gian hoàn vốn =
Trong đó:
Doanh thu bình quân 1 ngày =
2.3. Đồ thị hoà vốn
Để nhìn nhận khái quát hơn về lý thuyết hoà vốn và mối quan hệ chi phí-
khối lượng- lợi nhuận, các nhà kinh tế thường dùng phương pháp đồ thị để thể
hiện. Xuất phát từ mối quan hệ giữa các đại lượng: sản lượng, đơn giá bán, biến
phí, định phí,...ta có các hàm số phản ánh mối quan hệ của các đại lượng này
như sau:
- Hàm định phí : YĐP = A
- Hàm biến phí : YBP = b.X
- Hàm tổng phí : YTP = b.X + A
- Hàm doanh thu : YDT = g.X
Biểu thị kết hợp các hàm số này trên cùng một hệ trục toạ độ, ta có đồ thị
hoà vốn như sau:
DTh
DT
Doanh thu hoà vốn
Doanh thu bình quân 1 ngày
Doanh thu trong kỳ
360 ngày
60.000
52
Y (số tiền) YDT = g.X YTP = b.X + A
Y1 YBP = b.X
Lãi
SDĐP
Yh A Đ.phí
b YĐP = A
B. phí
0 Xh X1 X (mức độ hoạt động)
Trên đồ thị điểm A ( Xh, DTh ) là điểm hoà vốn.
Xh là sản lượng hoà vốn,
DTh là doanh thu hoà vốn.
Nếu X> Xh ( sản lượng tiêu thụ thực tế vượt qua điểm hoà vốn) thì donh
nghiệp có lãi và ngược lại, nếu X< Xh thì doanh nghiệp bị lỗ.
Giả sử với mức sản lượng tiêu thụ là X=X1>Xh, trên đồ thị sẽ xác định
được các chỉ tiêu thể hiện mối quan hệ chi phí- khối lượng- lợi nhuận
3. MỘT SỐ ỨNG DỤNG CỦA VIỆC PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ CHI PHÍ
KHỐI LƯỢNG VÀ LỢI NHUẬN VÀO VIỆC LỰA CHỌN DỰ ÁN
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà quản trị doanh
nghiệp thường phải phân tích, đánh giá sự ảnh hưởng của những biến động về
biến phí, định phí, đơn giá bán, khối lượng sản phẩm bán ra, kết cấu chi phí,
liên quan đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong trường hợp có nhiều phương
án kinh doanh buộc nhà quản trị doanh nghiệp phải quyết định lựa chọn phương
án tối ưu nhất cho doanh nghiệp. Nhằm giúp cho việc nghiên cứu một số ứng
dụng trong phân tích mối quan hệ chi phí- khối lượng- lợi nhuận để ra quyết
53
định kinh doanh, người ta phân tích các tình huống dựa vào số liệu của công ty
Y chuyên sản xuất loại sưã tươi đóng hộp 180 ml trong ví dụ trên.
Mức tiêu thụ hàng tháng: 250.000 hộp
Đơn giá bán: 4.000 đ/hộp
Biến phí đơn vị: 3.000 đ
Tổng định phí hoạt động trong tháng: 150.000.000 đ
3.1. Thay đổi định phí và doanh thu
Công ty Y cho rằng, nếu tăng chi phí quảng cáo thêm 15.000.000 đ thì dự
kiến sản lượng tiêu thụ tăng 10%. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi,
nếu dự kiến này đạt được Công ty có nên thực hiện phương án này không?
Nếu thực hiện phương án này:
Sản lượng tiêu thụ mới = 250.000 x 1,1 = 275.000 hộp
Số dư đảm phí mới = ( 4.000 – 3.000) x 275.000 = 275.000.000 đ
Số dư đảm phí hiện tại: (250.000.000 đ)
Số dư đảm phí tăng thêm: 25.000.000 đ
Định phí tăng thêm : (15.000.000 đ)
Lãi thuần tăng thêm: 10.000.000 đ
Như vậy, nếu phương án này được thực hiện, lãi thuần dự kiến của công
ty sẽ tăng 10.000.000 đồng.
Tổng lãi thuần thực hiện dự kiến đạt: 100.000.000 đ + 10.000.000 đ =
110.000.000 đ
Do vậy, Công ty nên thực hiện phương án này.
3.2. Thay đổi biến phí và doanh thu
Nhân ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6 , Công ty dự kiến khuyến mãi mỗi bịch
sữa (gồm 6 hộp) 1 quyển tranh tô màu, đồng thời tăng thể tích 1 hộp sữ từ 180
ml lên 200 ml. Dự kiến biến phí 1 hộp tăng thêm 380 đ. Do khuyến mãi thêm
sản phẩm và tăng thể tích mà giá bán không đổi nên dự kiến số lượng sẽ tiêu thụ
tăng thêm 80%. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu dự kiến này đạt
được, công ty có nên thực hiện phương án này không?
Nếu thực hiện phương án này:
Biến phí đơn vị mới: 3.000 + 380 = 3.380 đ
Sản lượng tiêu thụ mới: 250.000 x 1,8 = 450.000 sản phẩm
Số dư đảm phí mới: = ( 4.000 -3.380) x 450.000 = 279.000.000 đ
54
Số dư đảm phí hiện tại: (250.000.000 đ)
Số dư đảm phí tăng thêm: 29.000.000 đ
Định phí tăng thêm: 0
LãI thuần tăng thêm: 29.000.000 đ
Nếu thực hiện phương án này, lãi thuần của Công ty sẽ tăng thêm
29.000.000 đ. Tỗng lãi thuần thực hiện dự kiến 100.000.000 đ + 29.000.000 đ =
129.000.000 đ. Công ty nên thực hiện phương án này.
3.3. Thay đổi định phí, giá bán và doanh thu
Để tăng doanh thu trong kỳ kinh doanh tới, Công ty dự kiến sẽ tăng
quảng cáo 15.000.000 đ và giảm giá bán sữa tươi uống đóng hộp xuống còn
3.800 đ. Dự kiến sản lượng tiêu thụ sẽ tăng thêm 40%. Trong điều kiện các yếu
tố khác không đổi, nếu dự kiến này đạt được, Công ty có nên thực hiện phương
án này không?
Đơn giá bán mới: 3.800 đ
Sản lượng tiêu thụ mới: 250.000 x 1,4 = 350.000 hộp
Số dư đảm phí mới: ( 3.800 – 3.000) x 350.000 = 280.000.000 đ
Số dư đảm phí hiện tại: ( 250.000.000 đ)
Số dư đảm phí tăng thêm: 30.000.000 đ
Định phí tăng thêm: (15.000.000 đ)
Lãi thuần tăng thêm: 15.000.000 đ
Nếu thực hiện phương án này, lãi thuần của Công ty sẽ tăng thêm
15.000.000 đ. Tỗng lãi thuần thực hiện dự kiến 100.000.000 đ + 15.000.000 đ =
115.000.000 đ. Công ty nên thực hiện phương án này.
3.4. Thay đổi định phí, biến phí và doanh thu
Công ty dự kiến sẽ thực hiện hoạt động khuyến mại cho khách hàng bằng
cách sẽ tăng thêm một phiếu tặng quà trị giá 4.000 đ khi mua một thùng sữa
tươi gồm 40 hộp loại 180 ml. Đồng thời tăng lương của bộ phận tiếp thị trong
định phí thêm 5.000.000 đồng/tháng. Công ty dự kiến sản lượng tiêu thụ sẽ tăng
25%. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu dự kiến này đạt được,
Công ty có nên thực hiện phương án này không?
Biến phí đơn vị tăng thêm = 4.000/40 = 100 đ/ hộp
Biến phí đơn vị mới = 3.000 + 100 = 3.100 đ
Sản lượng tiêu thụ mới = ( 4.000 – 3.100) x 312.500 = 281.250.000 đ
55
Số dư đảm phí hiện tại: ( 250.000.000 đ)
Số dư đảm phí tăng thêm: 31.250.000 đ
Định phí tăng thêm: ( 5.000.000 đ)
Lãi thuần tăng thêm: 26.250.000 d
Nếu thực hiện phương án này, lãi thuần của Công ty sẽ tăng thêm
26.250.000 đ. Tỗng lãi thuần thực hiện dự kiến 100.000.000 đ + 26.250.000 đ =
126.250.000 đ. Công ty nên thực hiện phương án này.
4. THÔNG TIN THÍCH HỢP CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH KINH DOANH
NGẮN HẠN
4.1. Khái niệm về quyết định ngắn hạn và đặc điểm của nó
4.1.1. Khái niệm quyết định ngắn hạn:
Xét về mặt thời gian thì một quyết định được xem là quyết định ngắn hạn
nếu nó chỉ liên quan đến một thời kì (kì kế toán năm) hoặc ngắn hơn. Xét về vốn
đầu tư thì quyết định ngắn hạn là quyết định không đòi hỏi vốn đầu tư lớn.
4.1.2. Đặc điểm của quyết định ngắn hạn
Như vậy quyết định ngắn hạn có đặc điểm là:
- Quyết định ngắn hạn ảnh hưởng chủ yếu đến thu nhập trong thời gian
ngắn hạn nên phương án lựa chọn phù hợp cho quyết định ngắn hạn là lợi nhuận
mà doanh nghiệp sẽ thu được trong kì cao hơn các phương án khác.
- Quyết định ngắn hạn thường gắn với việc sử dụng và tận dụng năng lực
sản xuất hiện có của doanh nghiệp sao cho có hiệu quả nhất mà không cần thiết
phải đầu tư mua sắm hoặc trang bị thêm tài sản cố định.
Quyết định ngắn hạn thường bỏ qua khái niệm thời giá của tiền tệ.
4.2. Thông tin thích hợp
Để phục vụ cho quá trình phân tích các phương án kinh doanh nhằm ra
quyết định đúng đắn, nhà quản trị cần phải thu thập, xem xét từ nhiều nguồn
thông tin khác nhau. Tổng hợp các nguồn thông tin này sẽ giúp cho nhà quản trị
có được cách nhìn toàn diện và tổng thể về phương án cần xem xét. Tuy nhiên,
trong tổng số các thông tin thu được thì việc sử dụng thông tin nào là thích hợp
và cần thiết cho việc ra quyết định là vấn đề vô cùng quan trọng đối với nhà
quản trị. Chính vì vậy, luôn xuất hiện nhu cầu thông tin thích hợp trong các
quyết định quản trị.
Thông tin được coi là thích hợp, cần thiết và hữu ích cho việc ra quyết
định là những thông tin phải đạt 2 tiêu chuẩn cơ bản, đó là:
56
- Thông tin đó phải liên quan đến tương lai.
- Thông tin đó phải có sự khác biệt với các phương án đang xem xét và
lựa chọn.
Vậy, để có được những thông tin thích hợp thoả mãn được 2 tiêu chuẩn cơ
bản trên thì quá trình thu thập, phân tích, tổng hợp để tạo ra thông tin thích hợp
được tiến hành theo trình tự sau:
Bước 1: Tập hợp tất cả các thông tin về các khoản thu nhập, chi phí liên
quan đến phương án đang được xem xét.
Bước 2: Loại bỏ các thông tin không thích hợp, đó là các khoản chi phí
chìm, các khoản thu nhập, chi phí không chênh lệch ở các phương án kinh
doanh.
Bước 3: Những khoản thu nhập và chi phí còn lại là những thông tin thích
hợp để xem xét, lựa chọn quyết định kinh doanh. Thực chất đây chính là những
thông tin chênh lệch, khác biệt giữa các phương án kinh doanh cần xem xét và
lựa chọn.
Ví dụ 3.9: DN Thành Phát đang lựa chọn mua một thiết bị mới để thay
thế cho thiết bị cũ đang dùng hoặc là vẫn tiếp tục sử dụng thiết bị cũ. Các tài liệu
liên quan như sau:
- Thiết bị cũ đang sử dụng:
+ Thời gian sử dụng 3 năm, DN đã sử dụng được 2 năm.
+ Giá trị ban đầu 120 triệu đồng.
+ Giá trị còn lại 40 triệu đồng.
+ Giá bán hiện tại 52 triệu đồng.
+ Chi phí hoạt động hàng năm 130 triệu đồng.
+ Doanh thu hàng năm 160 triệu đồng.
+ Giá trị tận dụng 10 triệu đồng.
- Thiết bị mới:
+ Thời gian sử dụng 1 năm.
+ Giá mua ban đầu 70 triệu đồng.
+ Chi phí hoạt động dự kiến 125 triệu đồng.
+ Doanh thu dự kiến 188 triệu đồng.
+ Giá trị tận dụng 10 triệu đồng.
Quá trình phân tích thông tin thích hợp để lựa chọn phương án như sau:
57
Bước 1: Tập hợp thông tin về thu nhập và chi phí liên quan đến 2 phương
án cần xem xét
Chỉ tiêu Thiết bị cũ Thiết bị mới
1 Doanh thu 160 188
2 Giá mua thiết bị 120 70
3 Thời gian sử dụng còn lại 1 1
4 Chi phí hoạt động 130 125
5 Giá trị còn lại trên sổ kế toán 40
6 Giá bán thiết bị cũ 52
7 Giá trị tận dụng 10 10
Bước 2: Loại bỏ các thông tin không thích hợp
- Chi phí chìm: Giá trị còn lại của thiết bị cũ: 40 triệu đồng.
- Các khoản thu nhập và chi phí như nhau ở các phương án.
+ Doanh thu như nhau hàng năm: 160 triệu đồng.
+ Chi phí hoạt động như nhau hàng năm: 125 triệu đồng.
+ Giá trị tận dụng như nhau: 10 triệu đồng.
Bước 3: Các khoản thu nhập và chi phí chênh lệch là những thông tin
thích hợp để lựa chọn phương án.
- Doanh thu tăng do sử dụng thiết bị mới = 28 triệu đồng.
- Chi phí hoạt động giảm do sử dụng thiết bị mới 5 triệu đồng.
- Thu do bán thiết bị cũ 52 triệu đồng.
- Chi do mua thiết bị mới (70) triệu đồng.
- Lợi nhuận tăng do sử dụng thiết bị mới 15 triệu đồng.
Như vậy, thông tin thích hợp rất đa dạng và được xác định tuỳ thuộc vào
từng tình huống cụ thể, với mỗi một tình huống quyết định thì thông tin thích
hợp có thể khác nhau, nghĩa là thông tin là thích hợp trong tình huống này
nhưng có thể là không thích hợp trong tình huống khác.
Trong quá trình lựa chọn phương án để tìm ra phương án kinh doanh tốt
nhất, nhà quản trị phải đối diện với với rất nhiều thông tin thu thập từ các
phương án kinh doanh. Mặt khác, lượng thông tin cung cấp cho nhà quản trị của
58
từng phương án có thể rất nhiều nhưng chưa phải đã đầy đủ và cần thiết, do vậy
trên cơ sở số lượng thông tin giới hạn đó nhà quản trị phải biết chọn lựa để tìm
ra những thông tin thích hợp, thấy được những vấn đề chủ yếu của các phương
án cần xem xét, đảm bảo cơ sở khoa học cho việc ra quyết định. Quá trình phân
tích, tổng hợp thông tin thích hợp giúp nhà quản trị có được những thông tin đơn
giản, phù hợp và tập trung cho quyết định của mình.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng thông tin thích hợp không phải là thuộc
tính của thông tin cá biệt nào. Một khoản thu nhập, chi phí có thể là thông tin
thích hợp trong tình huống này nhưng là không thích hợp trong tình huống khác.
Cũng tương tự như vậy, thông tin được xem là không thích hợp cũng chỉ phù
hợp trong những tình huống cụ thể mà thôi. Như vậy, thông tin là thích hợp hay
không thích hợp sẽ phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu, xem xét, lựa chọn trong
từng tình huống cụ thể của nhà quản trị.
4.3. Thông tin thích hợp với việc ra quyết định kinh doanh ngắn hạn
4.3.1. Quyết định loại bỏ hay tiếp tục kinh doanh một bộ phận
Một doanh nghiệp sản xuất có thể có nhiều dây truyền sản xuất, nhiều
phân xưởng sản xuất và sản xuất ra nhiều loại sản phẩm khác nhau. Một doanh
nghiệp thương mại cũng có nhiều bộ phận kinh doanh trực thuộc, nhiều cửa
hàng và kinh doanh nhiều loại mặt hàng khác nhau. Kết quả kinh doanh của
từng bộ phận, từng loại sản phẩm hoặc mặt hàng có thể không giống nhau. Kinh
doanh bộ phận, sản phẩm này có thể lãi, còn ở bộ phận, sản phẩm khác thì bị lỗ,
và doanh nghiệp có xu hướng muốn loại bỏ việc kinh doanh ở những bộ phận,
sản phẩm bị lỗ. Quyết định loại bỏ hay tiếp tục kinh doanh một bộ phận, sản
phẩm bao giờ cũng chịu sự chi phối của nhiều nhân tố khác nhau, nhưng
quyết định cuối cùng của nhà quản trị là phải đánh giá, xác định được ảnh hưởng
của việc loại bỏ hay tiếp tục kinh doanh một bộ phận đến lợi nhuận chung của
toàn doanh nghiệp. Nếu kết quả tính toán cho thấy lợi nhuận của doanh nghiệp
sẽ tăng lên khi doanh nghiệp loại bỏ kinh doanh một bộ phận thì việc loại bỏ này
là một quyết định đúng đắn. Ngược lại, việc loại bỏ kinh doanh một bộ phận dẫn
đến giảm lợi nhuận chung của doanh nghiệp thì không nên loại bỏ bởi khi đó
tiếp tục kinh doanh sẽ có lợi hơn nếu loại bỏ bộ phận kinh doanh này.
Tuy nhiên khi xem xét quyết định có nên loại bỏ hay tiếp tục kinh doanh
một bộ phận, nhà quản trị không nên xem xét nó một cách đơn thuần mà cần
thiết phải có thêm nhiều phương án khác, như thay thế bộ phận kinh doanh này
59
bằng bộ phận kinh khác, hoặc chuyển hướng kinh doanh từ mặt hàng này sang
mặt hàng khác
Để có được quyết định đúng đắn trong tình huống này, nhà quản trị phải
biết lựa chọn, sử dụng thông tin thích hợp để phân tích, đánh giá và ra quyết
định.
Ví dụ 3.10: Nghiên cứu tình huống của công ty thương mại Trường An về
kết quả kinh doanh tổng hợp các mặt hàng điện tử, điện lạnh trong năm vừa qua
như sau: (Đơn vị tính: Triệu đồng)
Chỉ tiêu Tổng
cộng
Máy
tính
Tủ lạnh Vô
tuyến
1 Doanh thu 2.400 1.080 960 360
2 Biến phí 1.280 600 440 240
3 Số dư đảm phí 1.120 480 520 120
4 Định phí bộ phận 240 100 80 60
- Lương nhân viên QL bộ phận 18 7 6 5
- Lương nhân viên bán hàng 32 13 14 5
- Tiền thuê cửa hàng 80 30 30 20
- Khấu hao thiết bị cửa hàng 30 10 10 10
- Chí phí quảng cáo bộ phận 60 30 15 15
- Chi phí khác 20 10 5 5
5 Định phí chung phân bổ 600 270 240 90
- Lương nhân viên quản lí 30
- Khấu hao TSCĐ 80
- Chi phí quảng cáo chung 150
- Chi phí khác 340
6 Lãi (lỗ) 280 110 200 (30)
Theo báo cáo kết quả kinh doanh thì mặt hàng vô tuyến bị lỗ. Công ty
thương mại Trường An sẽ quyết định như thế nào đối với việc kinh doanh mặt
hàng vô tuyến này.
Các thông tin bổ sung: Nếu ngừng kinh doanh mặt hàng vô tuyến thì
- Nhân viên bán hàng ở bộ phận này sẽ thôi việc.
- Tiền thuê cửa hàng sẽ không phải trả nhưng bị phạt 2 triệu đồng vì chấm
dứt hợp đồng thuê bất thường.
60
- Không phải mất chi phí quảng cáo và các chi phí khác cho mặt hàng vô
tuyến.
- Giá cả hàng hoá ít có sự biến động trong năm tới.
- Định phí chung phân bổ cho từng bộ phận theo định mức chi phí:
Bộ phận máy tính chịu 45% tổng chi phí.
Bộ phận tủ lạnh chịu 40% tổng chi phí.
Bộ phận vô tuyến chịu 15% tổng chi phí.
Trường hợp 1: Nếu công ty chưa có mặt hàng kinh doanh thay thế cho
mặt hàng vô tuyến.
Phân tích thông tin thích hợp trong trường hợp này để đưa ra quyết định nên
tiếp tục kinh doanh hay ngừng kinh doanh mặt hàng vô tuyến.
Quá trình phân tích thông tin thích hợp được thực hiện như sau:
- Thông tin không thích hợp :
+ Khấu hao thiết bị bán hàng
+ Lương nhân viên quản lí bộ phận
+ Định phí chung phân bổ
- Thông tin thích hợp: Các thông tin còn lại là những thông tin thích hợp để
xem xét, phân tích sự ảnh hưởng của chúng đến lợi nhuận của công ty.
Một bảng phân tích lợi nhuận của hai phương án kinh doanh và không kinh
doanh mặt hàng vô tuyến được lập như sau:
(Đơn vị tính 1.000.000đ)
Chỉ tiêu
Tiếp tục kinh
doanh VT (1)
Ngừng kinh
doanh VT
(2)
Thông tin
thích hợp
(2) - (1)
1 Doanh thu 360 - (360)
2 Biến phí (240) - 240
3 Số dư đảm phí 120 (120)
4 Định phí bộ phận (60) (17) 43
-
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gt_ke_toan_quan_tri_p1_3048.pdf